Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Đề cương XÃ HỘI HỌC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.66 KB, 2 trang )

13. HỌC PHẦN XÃ HỘI
HỌC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ.
Báo cáo chính trị Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam có
ghi :“Cùng với đẩy mạnh phát triển
kinh tế, Đảng ta chủ trương giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, coi
đây là một hướng chiến lược thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ
ta”.
Bằng vốn kiến thức xã hội
học và kinh nghiệm thực tiễn,
đồng chí hãy làm rõ cơ sở khoa
học của luận điểm trên đây.
BÀI LÀM
Ngày nay, khả năng, trình độ
tăng trưởng, phát triển kinh tế là
điều kiện quyết định sự tồn tại của
một quốc gia trong xu hướng phát
triển chung của thế giới. Xu thế
khách quan này bắt nguồn từ quy
luật chung cho tất cả các quốc gia
muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc
hậu đều đặt cho mình mục tiêu
phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao,
lâu dài và bền vững. Song, cần
phải xác định tăng trưởng, phát
triển kinh tế là một quá trình trong
dài hạn, có những nội dung khác
nhau nên mỗi quốc gia cần chọn


cho mình nội dung, hướng phát
triển phù hợp với yêu cầu, điều
kiện và phù hợp xu hướng quốc
tế. Trong đó, mục tiêu phát Triển
Bền Vững ngày càng trở thành
trung tâm của sự phát triển trong
mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào
thế kỉ 21. Đối với một nước theo
chế độ XHCN như nước ta thì mục
tiêu đó còn hết sức quan trọng và
để đảm bảo mục tiêu đó, Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ
“Cùng với đẩy mạnh phát triển
kinh tế, Đảng ta chủ trương giải
quyết tốt các vấn đề XH, coi đây là
một hướng chiến lược thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ ta”.
Giải quyết các vấn đề XH ở đây
được hiểu như giải quyết những
vấn đề do đời sống KT-XH đặt ra
nhằm phát triển toàn diện con
người và các mối quan hệ con
người giữa các nhóm trong XH,
tạo động lực cho XH phát triển
trong sự bền vững. Giải quyết các
vấn đề XH không chỉ dừng lại ở
khẩu hiệu hành động chung chung
mà phải là một hệ thống các chính
sách XH do nhà nước và các tổ
chức XH đặt ra.

CSXH là một hệ thống những
quan điểm, chủ trương, phương
hướng, biện pháp của nhà nước
và các tổ chức chính trị - XH khác
được thể chế hoá để giải quyết
những vấn đề XH nhằm bảo đảm
sự an toàn và phát triển XH.
CSXH là chính sách đối với
con người, tìm cách tác động vào
các hệ thống quan hệ XH (quan hệ
các giai cấp, các tầng lớp XH,
quan hệ các nhóm XH khác nhau)
tác động vào hoàn cảnh sống của
con người và của các nhóm XH,
(bao gồm điều kiện lao động và
điều kiện sinh hoạt) nhằm điều
chỉnh các quan hệ XH, bảo đảm
và thiết lập được công bằng XH
trong điều kiện XH nhất định.
Con người là nguồn lực quan
trọng nhất, là vốn quý nhất của
mỗi quốc gia. Hiện nay, nước ta
đang tiến hành công cuộc CNH-
HĐH đất nước nhằm biến một
nước chậm phát triển thành một
quốc gia phát triển, nhân tố con
người là nguồn lực quan trọng
nhất trong 4 nguồn lực của sự
phát triển (vốn, tài nguyên, con
người và vị trí địa lý). Kinh nghiệm

thế giới 2 thập kỷ qua đã cho thấy
sự nghiệp CNH và phát triển kinh
tế của một quốc gia nếu không
gắn liền với mục tiêu phát triển
con người sẽ dẫn đến những thảm
họa về XH và môi trường. Phát
triển con người vừa là động lực
của sự phát triển KT-XH vừa là
điều kiện thực hiện CNH; đồng
thời cũng là mục tiêu của sự phát
triển KT-XH, của công nghiệp hóa.
Để phát triển con người toàn diện,
một trong những công cụ, biện
pháp mà nhà nước áp dụng là
thực hiện hàng loạt các CSXH.
Thật vậy, chúng ta có thể
thấy rằng CSXH là chính sách đối
với con người, nó phát huy mọi
tiềm năng, nguồn lực con người
trong việc ổn định và phát triển
XH, nó ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển của XH. Nhiệm vụ của
CSXH là căn cứ trên các yếu tố
KT-XH để đề ra và thực thi biện
pháp, các giải pháp làm cho con
người, cho nhân dân lao động có
điều kiện sống ngày càng tốt hơn
về cả vật chất lẫn tinh thần. Các
CSXH được xây dựng dựa trên
nhu cầu hợp lý và lành mạnh của

con người cả về vật chất lẫn tinh
thần, dựa trên những dự báo
khuynh hướng phát triển của con
người, của nền kinh tế XH để khơi
dậy tính tích cực, kích thích KT-XH
phát triển, nó góp phần điều tiết
quan hệ XH nhằm bảo đảm và
thiết lập XH công bằng, văn minh,
để con người chăm lo làm việc tốt
cho mình và cho XH. Với ý nghĩa
đó, CSXH thật sự là một nhân tố
ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển
của XH.
CSXH còn quan trọng bởi
ảnh hưởng của nó đến mọi mặt
của hoạt động XH mà trước hết là
ảnh hưởng đến cơ cấu XH. Hiện
nay bất kỳ một quốc gia nào cũng
có cơ cấu XH phức tạp với nhiều
nhóm XH mà vị thế, vai trò, lợi ích
giữa các nhóm XH đôi khi mâu
thuẫn nhau. Sự tác động nhiều
mặt của kinh tế cũng làm nảy sinh
các “vấn đề XH”, cơ cấu XH không
còn phù hợp và đặt ra nhiều vấn
đề mà đòi hỏi mọi người phải quan
tâm giải quyết. Để đảm bảo XH
phát triển trong sự ổn định nhất
thiết phải có CSXH hợp lý và giải
quyết thỏa đáng các mối quan hệ

XH trên nhiều khía cạnh và lĩnh
vực khác nhau như: quan hệ giữa
các giai cấp, tầng lớp XH, quan hệ
giữa các dân tộc trong cơ cấu XH
– dân tộc đến hiện tượng diễn tiến
XH: sự xuất hiện, phát triển hay sự
suy thoái của mỗi nhóm, tầng lớp
người trong XH, sự mất cân đối về
phân bổ dân cư, sự biến chuyển
về vai trò, vị trí của con người,
nhóm cũng như các quan hệ giữa
các giai tầng, sự vận động và biến
đổi của các loại hình nghề nghiệp,
với vấn đề lao động và việc làm
của nguồn lao động Chính vì
vậy, CSXH có ảnh hưởng trực tiếp
như một công cụ để khắc phục
những phân hóa, mâu thuẫn và
khác biệt XH, để điều tiết các quan
hệ XH nhằm phát huy khả năng
của toàn XH vào những mục tiêu
chung. Nói cách khác, khi XH có
“vấn đề XH” nảy sinh, tức là cơ
cấu XH của XH đó không còn phù
hợp để thúc đẩy XH phát triển, khi
đó, cần phải điều chỉnh vào các
phân hệ của cơ cấu XH bằng cách
dùng các CSXH tác động vào để
cho XH được công bằng, tạo môi
trường tích cực cho XH phát triển

và từ đó hướng tới hình thành cơ
cấu XH mới phù hợp, tối ưu, đảm
bảo cho XH tồn tạị và phát triển
trong sự ổn định .
Một CSXH hợp lý có ảnh
hưởng tích cực đến sự phát triển
XH phải luôn luôn phù hợp với
điều kiện kinh tế của quốc gia vào
thời điểm đó, đảm bảo sự thống
nhất giữa các cơ sở XH với chính
sách kinh tế tạo điều kiện để thực
hiện tốt việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ XH. Đề
ra CSXH phải căn cứ vào trình độ
phát triển của kinh tế lúc bấy giờ,
không nên quá cao và tất nhiên
không được quá thấp để có tính
khả thi cao
CSXH còn có vai trò quan
trọng bởi nó luôn hướng tới sự
công bằng XH, do đó tạo tính tích
cực, năng động XH, làm cho XH
phát triển bền vững. Tâm lý chung
của XH là không sợ thiếu chỉ sợ
không công bằng. Nhưng công
bằng không có nghĩa là cào bằng
mà phải hiểu là có sự chênh lệch
hợp lý: ai cống hiến nhiều, hy sinh
nhiều thì phải được hưởng lợi ích
nhiều hơn. Vì vậy, công bằng ở

đây là sự cân đối mặt bằng giữa
các chính sách, là giải quyết
CSXH sao cho vấn đề lợi ích giữa
các đối tượng có thể có chênh
lệch nhưng XH chấp nhận được.
Nếu không có CSXH phù hợp, giải
quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt
này, có thể sẽ làm triệt tiêu các
động lực XH, dẫn tới sự trì trệ và
khủng hoảng XH. Bài học kinh
nghiệm qua việc áp dụng một
chính sách cào bằng chung chung
trong thời bao cấp trước đây ở
nước ta dẫn đến tình trạng khủng
hỏang kinh tế trầm trọng cho thấy
rõ điều đó
Trong những năm qua, trên
cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và
kinh nghiệm các nước, quan điểm
của Đảng ta về CSXH tập trung
vào một số điểm được xác định rõ
trong các văn kiện đại hội đảng,
đặc biệt là văn kiện Nghị quyết đại
hội Đảng lần IX. Đó là tăng cường
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng XH ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát
triển XH (văn nghệ kiện Đại hội
VIII, tr 113). Đó là mục tiêu của
CSXH thống nhất với mục tiêu

phát triển kinh tế đều nhằm phát
huy sức mạnh nhân tố con người
và vì con người, bên cạnh việc tập
trung phát triển kinh tế đồng thời
phải quan tâm giải quyết các vần
đề XH. coi đây là hướng chiến
lược thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ ta. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế là chủ yếu, phân phối dực trên
mức đóng góp khác nhau và kết
quả sản xuất kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi XH đi đôi
với chính sách đều tiết hợp lý, bảo
hộ quyền lao động. Khuyến kích
làm giàu hợp pháp đi đôi với tích
cực xoá đói giảm nghèo, thu hẹp
dần khoản cách về trình độ phát
triển, về mức sống giữa các vùng,
các dân tộc và tầng lớp dân cư.
Các vấn đề CSXH đều giải quyết
theo tinh thần XH hoá. Nhà nước
giữ vai trò nồng cốt, đồng thời
động viên mỗi người dân, các
doanh nghiệp, các tổ chức trong
XH, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết
những vấn đề XH.
CSXH lấy con người, các

nhóm người trong cộng đồng làm
đối tượng tác động để hoàn thiện
và phát triển con người, lấy con
người làm trung tâm, coi yếu tố
con người vừa là mục đích vừa là
động lực của quá trình xây dựng
phát triển XH mới.
CSXH có mục tiêu cơ bản là
hiệu quả XH, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ XH, đảm bảo
cho mọi người được sống trong
tình thân ái, bình đẳng và công
bằng… Do vậy CSXH mang tính
XH, tính nhân nhân văn và nhân
đạo sâu sắc. Mọi CSXH đều phải
hướng vào sự công bằng XH. Nó
trở thành công cụ sắc bén của
Nhà nước để điều chỉnh các quan
hệ XH, xây dựng chuẩn mực XH
và định hướng giá trị XH mới,
hướng vào cái thiện, cái tốt, đẩy
lùi và hạn chế cái ác, cái xấu trong
XH.
CSXH của Nhà nước là tạo
ra những điều kiện và cơ hội thuận
lợi để mọi người phát triển hòa
nhập vào cộng đồng, tuy vậy trong
XH không ít người rơi vào hoàn
cảnh và điều kiện bất lợi, do đó họ
thiếu điều kiện vào và cơ hội để

phát triển. Do vậy CSXH còn thể
hiện trách nhiệm XH cao, hướng
vào trợ giúp, tạo điều kiện cho mọi
người vươn lên hòa nhập vào
cộng đồng, tạo nên một lưới an
toàn XH. CSXH bao giờ cũng
quan tâm đến số phận của những
con người cụ thể, quan tâm đến
những cá nhân sống trong những
điều kiện thiệt thòi, khó khăn so
với mặt bằng chung của XH lúc
bấy giờ. Tạo điều kiện cho những
cá nhân đó phát huy những khả
năng vốn có của mình vươn lên
hoà nhập với XH.
Tùy theo tiêu chí, ta có các
loại chính sách XH khác nhau.
+ Xét ở tính phổ biến (gọi là chính
sách XH phổ biến), có: chính sách
dân số, chính sách lao động và
việc làm, chính sách bảo đảm XH
(BHXH, cứu trợ XH, ưu đãi XH),
chính sách phòng chống tội phạm
và tệ nạn XH.
+ Xét theo giai cấp, tầng lớp
XH (chính sách XH với các giai
tầng XH), có: CSXH đối với giai
cấp công nhân; CSXH đối với giai
cấp nông dân; CSXH đối với tầng
lớp trí thức và sinh viên; CSXH đối

với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư
nhân …
+ Xét theo giới đồng bào
(CSXH đối với các giới đồng bào),
có các chính sách đối với thanh
niên, phụ nữ và gia đình, các dân
tộc thiểu số, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài ….
+ Theo đối tượng, tính chất
và phạm vi có các CSXH được
tính đến, được lồng ghép, được
xây dựng trong khi hoạch định và
thực hiện chính sách KT: CSXH
cơ bản, chung cho mọi đối tượng
trong cộng đồng (chính sách giáo
dục, y tế, bảo hiểm …); CSXH cấp
bách để tập trung giải quyết một
số vấn đề XH gay cấn (chính sách
việc làm, xóa đói giảm nghèo …);
CSXH cho một số đối tượng đặc
biệt (người già cô đơn, tàn tật ….).
Đối tượng cụ thể của chính
sách xã hội là các tầng lớp nhân
dân trong xã hội như: công nhân,
nông dân, thợ thủ công, sinh viên
trí thức, nhà doanh nghiệp, trẻ em,
người gìa, thành niên, phụ nữ, các
dân tộc, các tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, những
bậc lão thành cách mạng, thương

binh, liệt sĩ, những bà mẹ Việt
Nam anh hùng…. Đó là những
nhóm, những thành viên rơi vào
tình cảnh của vấn đề xã hội như bị
tai nạn, thất nghiệp, nghèo đói, bất
bình đẳng về kinh tế, chính trị, chịu
nhiều bất công, thiệt thòi, rủi ro
Mục tiêu của CSXH là nhằm
đạt tới sự công bằng an toàn, tạo
điều kiện phát triển con người một
cách toàn diện. Để làm được điều
đó, CSXH có một số nhiệm vụ cơ
bản là: Một là, tái tạo tiềm năng
1
nhân lực của đất nước thông qua
các chính sách về dân số, gia
đình, bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao
động, tổ chức nghỉ ngơi giải trí,
khắc phục các tệ nạn XH, bảo
đảm an toàn XH. Hai là, góp phần
vào việc xây dựng nền tảng vững
chắc XH với các chính sách về
nhà ở, bảo vệ môi trường sinh
thái, sự phát triển văn hóa, giáo
dục khoa học, nghệ thuật bảo
đảm phát triển bền vững của XH.
Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân tài cho đất nước, tạo thêm
nhiều việc làm cho các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là thanh niên,

đào tạo lại và đào tạo mới người
lao động để tiếp thu kỹ thuật, công
nghệ hiện đại và không ngừng
nâng cao năng suất lao động. Bốn
là, tạo đều kiện cho XH ngày càng
có nhiều khả năng và biết tiêu thụ
những sản phẩm vật chất, tinh
thần một cách đúng đắn, tiết kiệm,
phù hợp với trình độ phát triển sức
sản xuất của đất nước và những
chuẩn mực đạo đức pháp lý của
chế độ XH mới. Năm là, tạo lập,
hình thành mô hình lối sống mới
theo hướng phát triển toàn diện
của cá nhân kết hợp hài hoà với
sự phát triển của công đồng trên
cơ sở kế thừa những giá trị truyền
thống đẹp của dân tộc, đồng thời
xây dựng những giá trị mới phù
hợp với bản sắc dân tộc và yêu
cầu của thời đại.
Cơ sở khoa học cho việc
xây dựng và thực hiện chính sách
xã hội chính là mục đích vì con
người. Đó vừa là những điều kiện
chung nhất cho sự phát triển toàn
diện của mỗi cá nhân, của từng
nhóm và của toàn xã hội, vừa là
những điều kiện cần thiết giúp cho
các đối tượng xã hội bị thiệt thòi

có thể sống ở mức tối thiểu mà xã
hội cho phép. Do vậy, trong việc
hoạch định và thực thi CSXH, cần
phải căn cứ vào cơ cấu xã hội, tác
động vào cơ cấu XH để duy trì hay
làm biến đổi nó theo hướng đạt
được một cơ cấu XH tối ưu, bảo
đảm sự phát triển XH trong sự ổn
định. Các phân hệ cơ cấu XH cần
quan tâm là: cơ cấu XH giai cấp,
cơ cấu XH nghề nghiệp, cơ cấu
XH lãnh thổ, cơ cấu XH dân số, cơ
cấu XH dân tộc, cơ cấu XH tôn
giáo.
Để hoạch định CSXH phải
nghiên cứu mối quan hệ giữa
CSXH và chính sách phát triển
kinh tế. Đó chính là mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện
công bằng và thúc đẩy tiến bộ XH.
Một chính sách kinh tế đúng có thể
làm tăng công bằng ngay trong
giai đoạn đầu của sự phát triển.
Công bằng XH được coi là hạt
nhân của CSXH, là cái đích, là
mục tiêu của CSXH từng bước
phải đạt tới. Tất nhiên, công bằng
XH ở đây được hiểu là thái độ ứng
xử hợp lý trong điều hoà các quan
hệ XH, đặc biệt là sự công bằng

trong phân phối của cải XH và
điều hoà các lợi ích giữa các
nhóm ,các tầng lớp trong XH.Tức
là sự ứng xử, phân xử giải quyết
đúng với điều kiện khách quan,
không phải là sự ‘’cào bằng’’ lợi
ích theo quan điểm bình quân chủ
nghĩa mà là có sự khác biệt hợp
lý. Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện các
mục tiêu XH. Chỉ có thực tốt chính
sách kinh tế mới có thể nâng cao
cơ sở vật chất để thực CSXH.
Thực tế cho thấy CSXH tốt
tác động rõ rệt đến việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế, năng suất và
chất lượng lao động. Sự thống
nhất giữa chính sách kinh tế và
CSXH còn thể hiện ở chỗ xét đến
cùng, CSXH không bao giờ có thể
thoát ly được mức độ và trình độ
phát triển kinh tế mà XH đạt được.
Song điều này còn phục thuộc vào
bản chất và chế độ chính trị-XH
,vào năng lực quản lý của nhà
nước trong việc tạo điều kiện kết
hợp tối ưu sự phát triển kinh tế với
việc thoả mãnngày càng cao sự
phát triển toàn diện của con
người.

Tóm lại, CSXH và chính sách
kinh tế là một thể thống nhất. Sự
thống nhất đó được xác định ở
quan hệ hợp lý giữa chúng, mà ở
đó sự kết hợp giữa chính sách
kinh tế và CSXH là tối ưu nhất, có
tác động tích cực thúc đẩy sự phát
triểnvà tiến bộ XH. Sự kết hợp đó
dựa trên nguyên tắc; chính sách
kinh tế phải tìm được động lực
trong XH và bão đảm ổn định XH;
ngược lại ,CSXH phải thúc đẩy
kinh tế phát triển và phù hợp với
điều kiện kinh tế cho phép.
Ngoài ra, khi đề ra chính
sách xã hội phải căn cứ vào truyền
thống lịch sử văn hóa dân tộc bởi
vì các mối quan hệ xã hội ít nhiều
đều được xây dựng trên những
mẫu hình văn hóa xác định.
Những định hướng giá trị của một
nền văn hóa chi phối nhiều hành vi
ứng xử mỗi người, mỗi nhóm và
tập đoàn người. Do vậy, việc đề ra
và thực hiện chính sách xã hội
không thể không chú ý đến đặc
điểm lịch sử và truyền thống văn
hóa mỗi quốc gia, mỗi dân tộc,
thậm chí mỗi vùng chính sách xã
hội phải kế thừa và phát huy

những giá trị của chủ nghĩa nhân
văn và truyền thống tốt của văn
hóa dân tộc là những tinh hoa mà
lịch sử hàng ngàn năm cha ông đã
tích lũy được.
Chính sách xã hội phải được
thực hiện theo phương châm xã
hội hóa, Nhà Nước đóng vai trò
chủ đạo, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội
Thời kỳ trước năm 1986, do
những hạn chế về nhận thức của
mô hình XHCN kiểu cũ, CSXH
chưa được nhận thức đầy đủ.
Quan niệm CSXH chủ yếu chỉ là
những chính sách dành cho
những đối tượng XH đặc biệt thiếu
khả năng lao động hoặc cần ưu
đãi. Do đó, nhiều vấn đề ở tầm vĩ
mô như: dân số, việc làm hay thiết
kế những phương án phát triển KT
chưa tính toán đầy đủ đến những
vấn đề XH và môi trường XH cần
thiết cho con người. Có khi chính
sách KT tách rời chính sách XH,
còn chính sách XH thì vượt quá
trình độ phát triển KT. Chủ nghĩa
bình quân tồn tại phổ biến trong
các nội dung chính sách XH nên
đã triệt tiêu các động lực XH. Rõ

ràng CSXH bấy giờ chưa được
nhận thức và thực hiện đầy đủ với
tất cả những yêu cầu của nó.
Trong công cuộc đổi mới
hiện nay của đất nước ta, thực
hiện CSXH đúng đắn là động lực
to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong công
cuộc xây dựng đất nước. Những
năm qua, song song với việc đẩy
nhanh phát triển kinh tế, Đảng và
nhà nước ta cũng hết sức quan
tâm đến CSXH và nhờ có những
quan điểm đúng đắn, hợp lý trong
việc xây dựng và thực thi các
CSXH mà đất nước ta đã đạt
được những thành tựu lớn về phát
triển kinh tế lẫn nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân,
tạo điều kiện ngày càng tốt hơn
cho việc phát triển nhân cách,
phẩm chất, năng lực, trí tuệ và thể
chất con người Việt Nam. Những
kết quả mà CSXH mang lại đồng
thời cũng phản ánh bản chất và
tính ưu việt của chế độ ta, góp
phần không nhỏ vào việc giữ vững
sự ổn định và phát triển XH.
Bước vào thời kỳ đổi mới
CSXH được Đảng và Nhà nước

quan tâm thực hiện ngày càng tốt
hơn. Vấn đề XH đã được tính đến
nhiều hơn trong những phương án
phát triển kinh tế XH. CSXH được
nhận thức một cách toàn diện,
phong phú trên cả tầm vĩ mô và vi
mô. Nhân tố con người và sắc thái
cá nhân được coi trọng. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị
trường, có một số vấn đề XH nổi
lên rất gây gắt và bức xúc cần
phải có chính sách giải quyết, nếu
không sẽ dẫn đến hậu quả XH
nghiêm trọng, thậm chí gây mất ổn
định về kinh tế, chính trị và an toàn
XH.
Vấn đề lao động và việc
làm: Giải quyết việc làm là một
trong những CSXH cơ bản của
quốc gia và đây là một vấn đề bức
xúc của XH nước ta hiện nay bởi
hiện tại tỷ lệ người thất nghiệp ở
nước ta cao từ 9-12% lực lượng
lao động, đây là số lao động dư
dôi trong quá trình tổ chức sắp xếp
nền kinh tế thị trường. Hàng năm
lại có thêm một triệu người đến
tuổi lao động, số người hợp tác
lao động về nước tạo áp lực
không nhỏ trong việc giải quyết

việc làm. Biện pháp tạo việc làm:
khuyến kích các thành phần kinh
tế, phát triển, khuyến kích đầu tư
phát triển sản xuất để tạo việc làm,
phát triển dịch vụ việc làm, phân
bố lại dân cư và lao động trên cả
nước, mở rộng kinh tế đối ngoại,
đẩy mạnh xuất khẩu lao động, còn
ở nông thôn chú ý khôi phục mở
rộng ngành nghề truyền thống
Vấn đề xoá đói giảm
nghèo: Hiện tượng phân tầng XH
và phân hoá giàu nghèo xuất hiện
ngày càng gay gắt và phổ biến. Do
khoảng cách giàu nghèo ngày
càng lớn kéo theo hàng loạt
những vấn đề XH như: sự khác
biệt về mức sống, lối sống, cách
sinh hoạt và tâm lý. Một bộ phận
người giàu lên nhanh chống và
cũng có một bộ phận người trở
nên quá nghèo, do thiên tai rủ ro,
côi đơn không nơi nương tực Do
đó cách duy nhất để rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo là xoá đói
giảm nghèo, Nhà nước đã và đang
triển khai thực hiện chính sách xoá
đói giảm nghèo, động viên toàn
XH tham gia phong trào xoá đói
giảm nghèo giúp những người khó

khăn về vốn, vật tư, kỹ thuật, kinh
nghiệm sản xuất đồng thời thực
hiện chính sách phúc lợi XH, chính
sách thuế thu nhập để rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo.
CSXH về hệ thống giáo
dục, y tế: trong thời kỳ cơ chế thị
trường, kinh phí đầu tư cho giáo
dục bị giảm nhiều nên giáo dục có
nhiều khó khăn ở các cấp học, số
người đi học giảm vì một số con
em gia đình nghèo khó không có
điều kiện đi học, hiện tượng
thương mại hóa giáo dục đang có
xu hướng gia tăng, chất lượng
giáo dục giảm sút, đối với giáo
viên chưa có chế độ lương thích
hợp Những vấn đề trên đòi hỏi
phải có chính sách ưu tiên cho
giáo dục nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa, phải xây dựng một chế
độ phúc lợi thích hợp cho giáo
viên và giảm, miễn học phí đối với
học sinh nghèo. Đối với hệ thống
Y tế cần củng cố và nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân, kiện toàn hệ thống bảo
hiểm Y tế, lập quỹ Y tế, giành cho
người nghèo vùng sâu, vùng xa
cần có chính sách chăm lo, chính

sách đời sống của các cán bộ y tế.
Vấn đề dân số kế hoạch
hoá gia đình: Mức tăng dân số
hàng năm ở nước ta vẫn còn cao
và gây áp lực đối với kinh tế XH.
Chính sách áp dụng đối với vấn đề
dân số kế hoạch hoá gia đình liên
quan đến nhiều chính sách khác.
Cần có biện pháp đẩy mạnh tuyên
truyền về công tác dân số có biện
pháp hành chính nghiên khắc đối
với những người vi phạm chính
sách. Bên cạnh đó có kế hoạch
phân bố dân cư hợp lý để giảm tốc
độ tăng dân số quá nhanh ở
những vùng sâu, vùng xa, các
vùng lt mới ở các vùng đất rộng ít
ngừơi. Cần tính toán đầy đủ đến
yếu tố tâm lý, tập quán, phong tục
để có chính sách thích hợp, tuyên
truyền bài trừ tân lý lạc hậu trọng
nam khinh nữ, trời sinh voi thì trời
sinh cỏ
Vấn đề tệ nạn XH, mại dâm,
nghiện hút, trộm cướp, rượu
chè, cờ bạc, tham nhũng
những tệ nạn này gia tăng đến
mức lo ngại. cần huy động sức
mạnh của toàn dân, tất cả các
ngành, các cấp chính quyền để

đẩy lùi, ngăn chặn. Đồng thời phải
sử dụng dư luận XH để phòng
chống, ngăn ngừa và tăng cường
giáo dục, tuyên truyền chống tệ
nạn này trong toàn XH, tăng
cường các biện pháp cưỡng bức
hành chính, xử lý nghiêm minh
những tên buôn bán ma tuý, tổ
chức mại dâm tham nhũng.
Tóm lại: CSXH được xác
định là động lực phát triển và nói
lên bản chất của XH ta. Áp dụng
một “CSXH đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng CNXH”. (Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa XH, trang 86)
chính là điều kiện đảm bảo sự
thành công của công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, đất nước ta đang
trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Để
phấn đấu đạt được mục tiêu đó,
quá trình thực hiện phải tuân thủ
các nguyên lý cơ bản và quy luật

khách quan của phát triển bền
vững. Trong đó CSXH được xác
định là động lực phát triển và nói
lên bản chất của XH ta. Áp dụng
một “CSXH đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng CNXH”. (Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa XH, trang 86)
chính là điều kiện đảm bảo sự
thành công của công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
2

×