Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.56 KB, 10 trang )

BÀI 4

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ KHẢ NĂNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ
TBCN Ở MỘT NƯỚC CÓ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÒN LẠC HẬU
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CN MÁC-LÊNIN, TT HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ VÀ KHẢ
NĂNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN Ở MỘT NƯỚC CÓ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CÒN LẠC HẬU

1.1.1. Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ được thay thế bằng chế độ kinh tế - xã hội mới
cao hơn
+ Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử: Lý luận HTKT-XH đã chỉ ra sự phát
triển của các chế độ xã hội trong lịch sử là quá trình lịch sử - tự nhiên tuân theo những quy
luật khách quan:
- QL QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX (kinh tế).
( Sự phát triển của CNTB: những thành tựu và hạn chế => Bộc lộ những mâu thuẫn =>
tất yếu phải được thay thế (phân tích sâu những mâu thuẫn kinh tế)
- QL CSHT quyết định KTTT (Chính trị) – ĐTGC => CMXH
- QL hoạt động sáng tạo, tự giác của nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS
Các quy luật xã hội khác
1.1.2. Giữa XH CNTB và XH CNCS là một thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn,
phức tạp
Định nghĩa: Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới – XHXHCN. Nó diễn ra từ khi CMVS thắng lợi, GCVS
giành chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công
các cơ sở của XHXHCN về mặt vật chất – kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Nói cách
khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng được cơ sở của CNXH cả về LLSX lẫn QHSX,
cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng XHXHCN.
* Các giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
* Thời điểm:


* Hình thức:
* Bản chất chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng...
- C.Mác: “Giữa XHTBCN và XHCSCN là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Thích ứng vời thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
– quá độ về chính trị.
- Cần phân biệt rõ XHCSCN đã phát triển “trên cơ sở của chính nó” – hay “giai đoạn
cao hơn” với một XHCSCN vừa “thoát thai” từ XHTBCN – giai đoạn đầu của CNCS – “vừa
lọt lòng từ XHTBCN sau những cơn đau đẻ kéo dài”. Như vậy theo C.Mác, CNXH chính là
thời kì quá độ từ CNTB lên CNCS. Đó là một hình thức quá độ trực tiếp. (Lưu ý: từ những
nước TBCN có trình độ phát triển cao)
* Đặc trưng của CNXH – hay TKQĐ lên CNCS theo C. Mác:
- Kế thừa và phát triển LLSX mà CNTB tạo ra
- QHSX: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
1


- Còn sản xuất hàng hóa, còn nhà nước, giai cấp
- Còn có sự khác nhau về lao động – “Quyền ngang nhau ấy là một quyền không
ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”.
- Phân phối thao lao động – Làm theo năng lực hưởng theo lao động – còn mang dấu
vết “pháp quyền tư sản”.
=> Về mọi phương diện còn mang dấu vết của XH cũ mà nó đã lọt lòng ra.
(* Đặc trưng kinh tế - xã hội của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa:
Một là, LLSX phát triển rất cao
Hai là, chế độ SHXH về TLSX được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu
Ba là, sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội
Bốn là, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã
hội, sản xuất hàng hóa bị loại trừ
Năm là, sự phân phối sản phẩm bình đẳng – làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu

Sáu là, xóa bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động
chân tay, xóa bỏ giai cấp.
=> Đây là một chế độ KT-XH phát triển cao, tiến bộ hơn CNTB, không thể hình thành ngay
lập tức mà phải trải qua “một quá trình phát triển lâu dài”).
* Những phát triển mới của V.I. Lê nin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên CNXH
+ Lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm
chí ở một nước tư bản chủ nghĩa riêng lẻ.
- Nghiên cứu CNTB trong thời kì tự do cạnh tranh, C.Mác cho rằng: CMVS không thể
không xảy ra ở các nước văn minh, cụ thể là Anh, Pháp, Đức. Lý do: Đại công nghiệp, pclđ,
xhh sx => thế giới tư bản đan chặt vào nhau => cmvs cũng cần có sự liên kết mang tính quốc
tế.
- Lê nin nghiên cứu CNTB trong giai đoạn độc quyền. Ông cho rằng sự phát triển của
chủ nghĩa đế quốc là cực kì không đều => có thể chọc thủng mặt trận này => cmvs có thể
thắng lợi trước tiên ở các nước TBCN trung bình.
+ Lý luận về thời đại mới và khả năng quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới
Thời kỳ C.Mác thì CNTB còn phát triển tương đối ổn định. Đến V.Lê-nin, CNTB đã
phát triển lên giai đoạn mới cao hơn. Sự xuất hiện và thống trị của tư bản tài chính chuyên
đầu cơ những sản phẩm phi vật chất... tạo nền tảng vật chất cho CNXH. Ông kết luận:
“CNXH đã đến gần, dễ thực hiện…”. Thời đại mới chính là thời đại quá độ lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, V.Lê-nin cũng nêu ra những điều kiện cụ thể như: sự thống
trị của GCVS trong nước, sự ủng hộ của CMVS nước khác, liên minh với nông dân – tầng
lớp chiếm đại đa số trong dân chúng.
+ Lý luận về tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên CNXH
Cả PTSXPK và TBCN đều dựa trên chế độ tư hữu TLSX - CMTS chỉ giải quyết về
mặt chính quyền. Sự phát triển của PTSXCSCN là một thời kỳ lâu dài, để xây dựng chế độ
công hữu XHCN về TLSX, xây dựng kiểu XH mới. Việc phát triển LLSX, nâng cao NSLĐ
cần phải có thời gian nên tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên CNXH. Nếu như CMTS thắng lợi
kết thúc của thời kỳ quá độ từ XHPK lên XHTBCN, thì CMVS thắng lợi mới chỉ là sự khởi
đầu cho thời kỳ quá độ lên CNXH.
+ Lý luận về con đường quá độ lên CNXH ở những nước CNTB chưa phát triển

2


- Luận điểm về việc giành chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây dựng tiền đề
kinh tế cho CNXH
- Luận điểm về thời kỳ quá độ với “một loạt những bước quá độ”. Chúng ta đang ở
vào một thời điểm “quá độ trong thời kì quá độ”. Do đó, không thể vội vàng, thẳng tuột,
không chuẩn bị. Bước quá độ đó là CNTBNN và CNXH. Trong thời kì quá độ thì trao đổi
hàng hóa là “đòn xeo chủ yếu”.
- Luận điểm về mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo nguyên
tắc “ai thắng ai”. Theo Lê nin thì đó là mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB và tự phát TBCN.
* Tóm lại, thời kỳ quá độ là tất yếu, bởi vì:
 CNXH không tự phát ra đời trong lòng CNTB, cần phải có thời gian chuẩn bị những
tiền đề, điều kiện cho CNXH (KT, CT, VH, XH)
 CNXH và CNTB khác nhau về chất, cần phải có thời gian cải tạo, thay đổi những cái
cũ của XH cũ, xây dựng cái mới của CNXH (QHSX, KTTT…)
 Xây dựng CNXH là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, đòi hỏi phải có
thời gian thích đáng để nghiên cứu, chuẩn bị mọi mặt.
1.1.3. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một nước có trình độ
phát triển kinh tế còn lạc hậu
* C. Mác là người đầu tiên nêu ra hình thức quá độ từ những nước có trình độ phát
triển kinh tế còn lạc hậu nhưng nội dung và nhiệm vụ cụ thể như thế nào thì ông chưa chỉ ra
* Từ thực tiễn nước Nga TK XIX, V.Lênin đã nêu ra các luận điểm “những nước lạc
hậu có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn, có thể chuyển thẳng lên CNCS, bỏ qua
toàn bộ thời kỳ TBCN”. Có thể rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên
CNXH, có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà Tây Âu đã
phải trải qua.
- Nêu khả năng quá độ tiến thẳng lên CNCS từ những nước tiền TBCN (Nhưng chưa
nêu nội dung và những nhiệm vụ cụ thể).
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN

- Quy luật phát triển không đều của CNTB (trong thời kỳ thống trị của TB tài chính)
=> CMVS có thể thắng lợi đầu tiên ở một nước; các dân tộc lạc hậu có thể đi lên CNXH.
- Điều kiện để thực hiện quá độ gián tiếp lên CNXH (bỏ qua chế độ TBCN): Bên trong
– Bên ngoài:
1. Có Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo, tập hợp lực lượng; khối liên minh công – nông
và các tầng lớp khác được xây dựng
2. Có sự ủng hộ, giúp đỡ của GCVS ở các nước đang xây dựng CNXH (CNXH đã trở
thành một hệ thống thế giới)
3. HT KT-XH bỏ qua đã bộc lộ những hạn chế, lỗi thời
* QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

Tính quy luật chung và tính đặc thù của TKQĐ lên CNXH
- Tính quy luật chung về kinh tế là nền kinh tế nhiều thành phần: “CNTB, tiểu sản xuất
hàng hóa, CNCS”.
- Vận dụng sáng tạo vào đặc điểm riêng ở mỗi nước; ở nước Nga: 1) KT nông dân kiểu
gia trưởng; 2) SXHH nhỏ; 3) CNTB tư nhân; 4) CNTB nhà nước; 5) CNXH.
Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ
3


- Nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về TLSX dưới 2 hình thức là
SH toàn dân và tập thể.
- Phân phối theo lao động
- Phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế
- Nhà nước quản lí có kế hoạch, tập trung, thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, nhà nước không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất.
- Nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế thị trường, phải biết sử dụng tốt các
quan hệ hàng – tiền, các phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hóa.
- Phải tiến hành quốc hữu hóa XHCN bằng cách tịch thu không hoàn lại hoặc tịch thu
có bồi thường một phần cho giai cấp bóc lột.

- Chủ nghĩa tư bản nhà nước phải đi theo “tay lái” của nhà nước vô sản
- Bên cạnh đó là tiến hành công nghiệp hóa, hợp tác hóa và cách mạng văn hóa tư
tưởng.
(+ Chính sách kinh tế mới – NEP
- Bối cảnh ra đời NEP
Sau CM tháng Mười Nga, nước Nga Xô viết rơi vào nội chiến (1918-1920) => thi hành Chính sách Cộng sản thời chiến,
cụ thể:
* Trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi đã dành lại cho họ mức ăn tối thiểu
* Xóa bỏ quan hệ hàng – tiền, xóa bỏ việc tự do mua bán lương thực trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật
cho quân đội và nhà nước.
* Xí nghiệp tư doanh là bất hợp pháp, độc quyền ngoại thương, nghiêm khắc với lao động, nghĩa vụ lao động công ích bắt
buộc được áp dụng cho tầng lớp không lao động…
=> Hậu quả là nông dân từ chối hợp tác trong sản xuất lương thực vì chính phủ lấy đi của họ quá nhiều. Di dân từ thành
thị ra nông thôn để tìm kiếm cơ hội nuôi sống bản thân, giữa năm 1918 và 1920 Petrograd mất 75% dân số, Moska mất 50% dân
số. Chợ đen xuất hiện, CN nặng giảm còn 20% so với 1913, tình trạng đình công nổi lên nhiều. Tuy nhiên nhờ chính sách này mà
đã bảo vệ được chính quyền Xô Viết non trẻ.
- Nội dung và biện pháp chủ yếu của NEP
Một là, thay trưng thu bằng chính sách thuế lương thực, lương thực còn lại được tự do mua bán
Hai là, tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa – tiền tệ giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị
và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp
Ba là, sử dụng sức mạnh kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, rồi các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích sản xuất
hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến khích kinh tế TBTN, sử dụng CNTB nhà nước; củng cố lại doanh nghiệp nhà
nước, chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế.
Bốn là, tranh thủ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kĩ thuật, vốn và khuyến khích phát triển
kinh tế.
=> Kết quả là: ổn định đồng Rúp và chế độ tài chính; thắng nạn đói và bội thu thuế lương thực, biến nước Nga “đói”
thành nước có lương thực dồi dào; không dùng biện pháp cưỡng bức, nông dân hài lòng, công nhân không còn bất mãn; công
nghiệp nặng có sự cải thiện, công nghiệp nhẹ trên đà phát triển. Lòng tin vào CNXH tăng cao, chính quyền Xô Viết ngày càng
vững mạnh. Đánh dấu bước phát triển mới về lý luận kinh tế XHCN.
Tuy nhiên, 1924 Lê nin mất, cánh tả đối lập trong đảng đứng đầu là Trotsky, đã phản đối NEP. Mô hình không được tiếp

tục triển khai, thay vào đó là “cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp”).

* Hồ Chí Minh:
+ Trước hết Người khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội CSCN đối với
Việt Nam: “Muốn cứu quốc và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
+ “Đặc điểm to nhất của ta trong TKQĐ lên CNXH là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”.
+ “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có
văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
4


+ Người nhấn mạnh tính tuần tự, dần dần của TKQĐ lên CNXH cũng như tính chất
phức tạp khó khăn của nó. Đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời
sống xã hội, cả LLSX, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong di chúc, Bác coi sự
nghiệp xây dựng CNXH là cuộc chiến khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân ta chưa
có kinh nghiệm, nhất là trên mặt trận kinh tế => hết sức mới mẻ, vừa làm vừa học, có thể vấp
váp và thiếu sót. Bên cạnh đó, luôn bị các thế lực phản động trong và ngoài tìm cách chống
phá.
+ Về kinh tế: Người luôn khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý, trong đó nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, thương nghiệp làm cầu nối giữa các ngành sản xuất và xã hội. Về phân phối, Người
cho rằng phải trên cơ sở làm nhiều, hưởng nhiều, không làm không hưởng. Đặc biệt Người đã
chỉ ra tư tưởng làm “Khoán”. “Chế độ làm khoán là một điều kiện của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nó khuyến khích người công nhân luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích
chung và lợi riêng….Làm khoán tốt, thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN

* Tính tất yếu khách quan của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
+/ Điều kiện khách quan
- Thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới
- Cách mạng KH – CN, toàn cầu hóa.
+ Điều kiện chủ quan
- Dân số, tự nhiên, nguồn nhân lực
- Nhà nước
- Đảng Cộng sản
(a. Cơ sở lý luận (Đã chứng minh ở mục I)
b. Cơ sở thực tiễn
+ Thực tiễn quốc tế:
+ Thực tiễn trong nước)
(Quan điểm của ĐCS VN phát triển qua các kỳ ĐH:
Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định: “…..nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã ở nước ta ". . .là một
quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen" (11). Theo sự khái quát của
Đảng sau 30 đổi mới, thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã
hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và
sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta
(chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại cũ so với những nhân tố xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang xây dựng; Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự
biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự
biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và,

quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen: Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử. Đồng thời, với sự lâu dài
đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội cùng phát triển hội nhập, đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta

5


gặp rất nhiều khó khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có
những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới tan
rã và phong trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, "các thế
lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta
vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn
kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có
truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng;
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng
với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển” (12).
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời
kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội
chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây quả là những nhiệm vụ
nặng nề bởi trước hết "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội" nghĩa là nền
kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt
được nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội
xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù

hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển
đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó
diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa
giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Nghĩa là, ở đó
chúng ta không chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ
chế độ và xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc".
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm
vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được
Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định, "Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan

6


hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”(13).

Đây là mô hình chủ nghĩa xã hội đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt thời kỳ quá độ. Sở dĩ
nói định hướng là vì, như đã nêu trên, thời kỳ quá độ là một giai đoạn phát triển mang tính độc lập và
nằm trong giai đoạn chuyên đổi từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, xã hội trong thời kỳ
quá độ chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa mà chỉ là xã hội quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
ĐH XII: Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những nhận thức trên đây cần được tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
3. NHỮNG NHIỆM VỤ KINH TẾ CƠ BẢN CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

* Về thực chất của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Đại
hội IX khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN, tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về KH –
CN để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
* Về đặc điểm kinh tế:
- Điểm xuất phát thấp, trình độ của LLSX phát triển không đồng đều.

- Hiện nay: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. (Đây có thể coi là một trong những đột phá lý luận của Đảng ta sau đột phát 1979 –
làm cho sản xuất bung ra cũng như đột phá Khoán 10 – 1988).
3.1.

PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm: thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường;
7


- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
-

Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng
và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt
trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông
thôn mới.

- Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng
kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

• Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước được coi là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho CNXH. CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các
hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công sang sử dụng sức lao

động kết hợp với KH – CN hiện đại, tạo ra NSLĐ cao. Vì chúng ta không trải qua
chế độ TBCN nên gặp những thuận lợi và khó khăn.
+ Thuận lợi: rút ngắn, đi tắt đón đầu, giảm chi phí, giảm chấn động xã hội do sự
phát triển tuần tự
+ Khó khăn: sự khống chế về công nghệ của nước ngoài, thiếu hụt nguồn lực
chất lượng cao…
=>CNH – HĐH => tăng năng suất lao động => sự thành công của chủ nghĩa xã
hội.
3.2.

TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG QHSX MỚI TIẾN BỘ, PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LLSX

Cương lĩnh 1991: 1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và
đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị
8


trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm
chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Thứ hai: Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN
- Đa dạng sở hữu: hiện vật, trí tuệ…
- Các thành phần kinh tế bình đẳng, không thiên vị
- Phân phối công bằng
- Tách bạch quản lí nhà nước với việc quản lí kinh doanh tức tách bạch quyền chủ sở
hữu khỏi cơ quan quản lí để tránh “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
+ Môt là, nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu.
Trước Đổi mới chúng ta không thừa nhận sở hữu tư nhân, đối tượng sở hữu chỉ là hiện vật.
Trong TKQĐ ta thừa nhận sự đa dạng của các hình thức sở hữu trong đó có sở hữu hỗn hợp,
đối tượng sở hữu cũng đa dạng hơn bao gồm sở hữu giá trị và sở hữu trí tuệ… Các thành
phần kinh tế cũng đa dạng hơn, hoạt động bình đẳng trước pháp luật.
- VN có thể phát triển kinh tế TBTN trong nước và của nước ngoài nhưng sẽ không trở thành
sự thách thức đối với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải làm tốt vai
trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Những yếu tố tích cực của QHSX TBCN như hiệu quả kinh tế của quan hệ sở hữu TLSX, tổ
chức và quản lí, phân bố các yếu tố sản xuất…đều có thể và cần được nghiên cứu, vận dụng
để phát huy triệt để vì lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia và vì lợi ích của CNXH
trong phát triển LLSX. Những hình thức cực đoan của quan hệ phân phối cũng như những
mặt trái của QHSX TBCN cần phải được điều tiết bằng thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hợp với quy luật và không mâu
thuẫn với mục tiêu đi lên CNXH
(- Đại hội VI Đảng CS VN khẳng định nền kinh tế gồm khu vực quốc doanh, tập thể,
kinh tế gia đình, tiểu SXHH nhỏ, kinh tế TBTN, TBNN, tự nhiên tự cấp tự túc.

- Đại hội VII: 5 thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, cá thể, TBTN
và TBNN.
9


- Đại hội VIII: 5 thành phần kinh tế: KTNN, KT hợp tác, kinh tế TBNN, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế TBTN.
- Đại hội IX: 6 thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh
tế TBNN, kinh tế TBTN, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đại hội X: 5 thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
TBTN, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tư tưởng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
tiếp tục được đại hội XI khẳng định là một trong những đặc điểm kinh tế TKQĐ.
- Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh”, còn số lượng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là
bao nhiêu loại hình doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất quyết định.
- ĐH XII: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;)
3.3.

MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI, TÍCH CỰC, CHỦ
ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

- Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực kinh tế thể hiện phần tham gia của nền kinh tế quốc gia
vào nền kinh tế thế giới và là phần phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia hay phần “giao
nhau” của những giao dịch kinh tế giữa các nước. KTĐN bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư

quốc tế và chuyển giao công nghệ, di chuyển lao động quốc tế, các quan hệ tiền tệ và tín dụng
quốc tế…KTĐN giúp khai thác triệt để lợi thế so sánh, thu hút vốn, công nghệ tiên tiến để
tiến hành CNH – HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường (do sản xuất hàng
loạt trong nước)….Từ đó đất nước trở thành một mắt khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu. Một
mặt chúng ta phải chủ động hội nhập vào các tổ chức quốc tế, một mặt tranh thủ mở rộng,
làm sâu sắc hóa các hình thức hợp tác với các nước khác, tích cực đàm phán để có được
những quy chế ưu đãi phổ cập hoặc đặc thù dành cho các nước đang và kém phát triển.

10



×