Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN vận dụng phương pháp trò chơi vào tiết tiếng việt ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.54 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LAI CHÂU
TRƯỜNG THPT THAN UYÊN

THUYẾT MINH SÁNG KIẾN
Vận dụng phương pháp trò chơi tạo hứng thú cho học sinh trường
Trung học phổ thông Than Uyên trong các tiết Tiếng Việt môn Ngữ văn

Tác giả/đồng tác giả: Hoàng Thị Quyên
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Ngữ văn
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: trường THPT Than Uyên

Than Uyên, ngày

1

tháng

năm 2018


I. THÔNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến: “Vận dụng phương pháp trò chơi tạo hứng thú cho
học sinh trường THPT Than Uyên trong các tiết tiếng Việt môn Ngữ văn.
Họ và tên: Hoàng Thị Quyên
Năm sinh: 1989
Nơi thường trú: Khu 6, thị trấn Than Uyên, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn - GDCD
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Trung học phổ thông Than Uyên
Điện thoại: 0943236503


Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 01 tháng 09 năm 2016 đến
ngày 05 tháng 04 năm 2018
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Trung học phổ thông Than Uyên
Địa chỉ: Khu 6 TT Than Uyên, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu
Điện thoại: 02313 784 826
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
1.1. Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến
Những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học được xem là một
phương châm quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì thế xuất
hiện rất nhiều phương pháp dạy học mới. Một vấn đề đặt ra hiện nay là giáo viên
ôm đồm nhiều phương pháp dạy học khiến cho bài dạy phân tán. Vậy để dạy
học văn có hiệu quả giáo viên nên chọn phương pháp thích hợp cho từng kiểu
bài. Một trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò
chơi.Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục:
giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết
2


hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu
đổi mới hiện nay.
Đối với học sinh trung học phổ thông thì hoạt động vui chơi là nhu cầu
không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ
chức cho học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu
quả giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học môn Văn ở
THPT đặc biệt là các tiết tiếng Việt sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong

các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động
hơn trong tổng hợp, tái hiện kiến thức, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của
mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và chủ động trong học tập là sự
khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân
cách ở học sinh qua bộ môn Văn.
Qua nhiều năm dạy học, được giảng dạy ở tất cả các khối lớp bậc THPT
chúng tôi luôn mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng
tạo hơn, hứng thú trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực.
Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp chúng tôi
mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trò chơi trong giờ dạy môn Văn trong hai năm
học liên tiếp và thấy không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên, đến giờ học các
em không còn cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi, học sinh trong lớp
hoạt động tích cực và đồng đều, các em mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc
mắc,…từ đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn.
Do đó mà kết quả học tập cũng được nâng cao. Đặc biệt trong các tiết tiếng Việt.
Vì vậy, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phương pháp trò chơi
tạo hứng thú cho học sinh trường THPT Than Uyên trong các tiết tiếng Việt
môn Ngữ văn.” Kính mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, Ban giám
hiệu, tổ chuyên môn để đề tài phát huy hiệu quả cao hơn
1.2 Mục đích của việc thực hiện sáng kiến “Vận dụng phương pháp trò
chơi tạo hứng thú cho học sinh trường THPT Than Uyên trong các tiết ôn
tập môn Ngữ văn.”
Người viết chọn đề tài “Vận dụng phương pháp trò chơi tạo hứng thú
3


cho học sinh trường THPT Than Uyên trong các tiết ôn tập môn Ngữ văn.”
để nghiên cứu nhằm tìm ra hướng đi cho các tiết tiếng Việt nhằm tạo hứng thú
cho học sinh chứ không áp dụng đại trà cho tất cả các tiết học khác của bộ môn
như: lí luận văn học, văn học sử, làm văn... Vì mỗi tiết dạy có những yêu cầu khác

nhau về phương pháp để phù hợp với đặc trưng kiểu bài.
2. Phạm vi triển khai thực hiện sáng kiến
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi môn Ngữ văn lớp 10,11,12 cụ thể là các
lớp 11A4, 10A6, 12A6 (năm học 2017- 2018) trường Trung học phổ thông Than
Uyên .
3. Mô tả sáng kiến
3.1. Thực trạng trước khi có sáng kiến
3.1.1. Thực trạng học tiết tiếng Việt của học sinh hiện nay
Trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ văn được đánh giá là
một trong những môn khó. Môn học này không chỉ phong phú về nội dung mà
còn đa dạng về hình thức. Ngữ văn có những đặc trưng riêng biệt lại được phân
chia thành nhiều phân môn khác nhau. Đặc thù bộ môn không chỉ là môn khoa
học mà còn liên quan tới lĩnh vực nghệ thuật nên việc phát huy tính chủ động,
sáng tạo khi tiếp cận là vô cùng cần thiết. Những ai đã từng cắp sách đến trường
và yêu quý môn Văn đều nhận thấy những chức năng đặc thù của văn học trong
việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân cách học sinh. Đặc biệt phân môn tiếng
Việt còn có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ,
diễn đạt, cách thức tạo lập các loại văn bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên
mọi lĩnh vực của mỗi người trong cuộc sống...Mặc dầu có vị trí, chức năng quan
trọng đặc biệt như vậy nhưng hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh
không mấy hứng thú khi học môn học này. Nhiều em học sinh, đặc biệt các em
theo ban Khoa học Tự nhiên cảm thấy áp lực, chưa phát huy cao độ sự sáng tạo
khi học môn Ngữ văn, còn thụ động, chưa tích cực trong lĩnh hội kiến thức.
Phần lớn các em học sinh không hứng thú với bộ môn cho rằng môn Văn là
không cần thiết, nhàm chán.
Vậy do đâu mà có tình trạng trên?
4


Trước hết là do chính bản thân học sinh lười học, lười đọc sách báo, thiếu

ý thức rèn luyện nên không có hứng thú với bộ môn. Đặc biệt bản thân các em
bị rỗng kiến thức nên mang tâm lí ngại ngần, không tích cực. Học sinh thụ động
trong việc tiếp nhận và tổng hợp kiến thức.
Mặt khác, do phương pháp dạy của một số thầy cô giáo chưa thu hút được
học trò yêu thích đối với bộ môn của mình giảng dạy. Thực tế cho thấy phương
pháp giảng dạy của một bộ phận giáo viên Văn còn bộc lộ nhiều hạn chế, việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy môn Văn chưa thực sự phổ
biến, bên cạnh đó trong mỗi tiết học vẫn còn tình trạng “đọc-chép” và “chiếuchép” dẫn đến sự nhàm chán ở học sinh, nhiều giáo viên còn sa vào “độc thoại”,
“độc diễn” trên bục giảng do bài dài nên giáo viên cố gắng làm sao để truyền đạt
đủ, kịp kiến thức cho các em mà ngại tìm tòi đổi mới vận dụng phương pháp,
hình thức dạy học mới như sử dụng các phương tiện dạy học, các biện pháp hỗ
trợ như: thảo luận nhóm, nêu tình huống có vấn đề, sử dụng tư liệu, hình ảnh
hay chiếu phim văn học, vận dụng trò chơi vào tiết học lại càng hiếm hoi hơn.
Hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng dẫn đến một số
giờ học văn trở nên đơn điệu, căng thẳng dẫn đến việc nhận thức của học sinh bị
hạn chế.
Một nguyên nhân cũng cần đề cập tới là do cơ sở vật chất, tài liệu minh
hoạ, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức cho học tập
môn văn còn nghèo nàn, đơn điệu; Do kiến thức quá nhiều, quá nặng dẫn đến
các em mệt mỏi, giảm hứng thú;
3.1.2. Thực trạng tiếp cận kiến thức tiếng Việt của học sinh trường Trung
học phổ thông Than Uyên.
Do đặc thù môn học, phân môn tiếng Việt đòi hỏi học sinh phải có những
kĩ năng nhất định về ngôn ngữ mẹ đẻ… và phải tuân theo những chuẩn mực cụ
thể khi sử dụng tiếng Việt. Vì vậy, đây là thách thức lớn đối với các em. Để có
thêm cơ sở thực tiễn khi triển khai đề tài, người viết tiến hành khảo sát thực tế

5



tiết học của học sinh lớp 12ª6, 11A4, 10A6 (tổng số 85 học sinh ), kết quả
đạt được như sau:
Câu hỏi

Đáp án

Số HS chọn

1. Anh/ chị cho biết vai tro A. Quan trọng
B. Bình thường
của phân môn tiếng Việt
C. Không quan trọng
trong chương trình Ngư D. Ý kiến khác
văn THPT?
2. Anh/ chị có cảm thấy A. Hứng thú
B. Bình thường
hứng thú với các tiết
C. Không hứng thú
tiếng Việt không?
3. Anh/ chị có hay phát A. Rất ít.
B. Thỉnh thoảng
biểu ý kiến trong các
C. Phát biểu nhiều
tiết tiếng Việt không?
4. Nếu giáo viên lồng A. Rất hứng thú
B. Bình thường
ghép tro chơi vào tiết
C. Chưa rõ lắm về hình thức này.
học anh/ chị có hưởng D. Không hứng thú
ứng không?

5. Kết quả khảo sát đầu A. Giỏi
B. Khá
năm của học sinh.
C. Trung bình
D. Yếu
Kết quả trên cho thấy số học sinh yêu thích giờ học Văn rất ít chưa đến
…..còn lại là các em không thích giờ học Văn, điều đó cũng có nghĩa là các em
không yêu thích môn Văn. Điều này không chỉ gây bi quan đối với dư luận xã
hội mà còn tác động tiêu cực đến người dạy. Nhiều thầy cô giáo dạy Văn đã xuất
hiện tâm lí chán nản, buông xuôi, không có động lực để trau dồi chuyên môn,
tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy học.
3.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
3.2.1. Tính mới của sáng kiến, sự khác biệt của giải pháp mới so với
giải pháp cũ
Một là, giải pháp không hoàn toàn áp đặt mà phần lớn là dựa trên cơ sở tự
nguyện, tự giác của học sinh. Giúp giáo viên và học sinh phát huy vai trò của mình
6


trong mỗi tiết học theo đúng phương châm của đổi mới phương pháp dạy học: Thầy
chỉ đạo, trò chủ động tiếp cận kiến thức. Từ đó, yêu cầu người học phải tích cực, chủ
động thay đổi chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ đối với việc học nói chung,
học môn Ngữ văn nói riêng đặc biệt là các tiết tiếng Việt.
Hai là, giải pháp coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học, nhằm
rèn luyện để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục
tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Qua đó, học
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin,… tự
hình thành hiểu biết, kĩ năng và phẩm chất cho bản thân.
Ba là, giải pháp chú trọng hình thành cho học sinh các năng lực: sáng tạo,
hợp tác… giúp học sinh hiểu rõ hơn về ngôn ngữ mẹ đẻ, thấy gắn bó và yêu quý

tiếng Việt, khôi phục động lực học tập, khơi dậy niềm say mê, tình yêu ngôn ngữ
dân tộc của học sinh, phát huy tính năng động, gây hứng thú với học sinh bằng
những giờ dạy thực sự hấp dẫn, lôi cuốn
3.2.2. Triển khai các giải pháp của sáng kiến
Phương pháp và hình thức dạy học môn Văn rất phong phú, đa dạng bao
gồm các phương pháp hiện đại: hoạt động nhóm, đóng vai, đặt và giải quyết vấn
đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò chơi,... và các phương pháp truyền
thống: thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện…Mỗi phương pháp dạy học đều có
mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi hỏi những điều
kiện thực hiện riêng. Vì vậy, giáo viên không nên phủ định hoặc lạm dụng
phương pháp nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất của từng
bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực, sở trường của giáo
viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và
sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lý. Trong dạy học
môn Ngữ văn cụ thể là phân môn tiếng Việt có thể vận dụng phương pháp “Trò
chơi” nhằm: Hình thành tri thức mới, hình thành kỹ năng, củng cố tri thức.
3.2.2.1. Nguyên tắc áp dụng phương pháp tro chơi
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của phân môn tiếng Việt; lưu ý mối quan
hệ giữa trò chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và
7


đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp
học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt,
không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò
chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ
nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị).
3.2.2.2. Lựa chọn thời gian vận dụng tro chơi.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết lựa
chọn thời điểm nội dung bài cần áp dụng trò chơi cho thích hợp, cụ thể là:

Sử dụng trò chơi vào đầu giờ học để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới
vừa kiểm tra được kiến thức bài cũ để giải quyết trò chơi, đồng thời bước đầu
nhận ra nội dung kiến thức bài học mà các em sắp được học. Bên cạnh đó, còn
tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn, giải tỏa tâm lý
mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do hoàn cảnh xung
quanh gây ra.
Sử dụng trò chơi nhằm hình thành tri thức mới , giáo viên tổ chức trò chơi
cho học sinh khám phá, phát hiện ra tri thức mới, tri thức đó nằm ngay trong nội
dung bài học.
Sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng: Xác định mục đích của việc tổ chức
trò chơi nhằm hình thành kỹ năng cho các em, chúng ta tổ chức trò chơi trên cơ
sở vận dụng những tri thức của bài vừa học. Từ đó, giúp học sinh hình thành
được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi gặp những tình huống trong
cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi làm bài...
Sử dụng trò chơi nhằm củng cố tri thức, hình thành thái độ khác với việc tổ
chức trò chơi vào các thời điểm và mục đích khác nhau như trên, ở thời điểm tổ
chức trò chơi để củng cố tri thức, hình thành thái độ có mục đích khác đó là: để
học sinh thâu tóm được nội dung bài học, giúp khắc sâu, nhớ rõ hơn nội dung
vừa học xong. Thời điểm tổ chức trò chơi với mục đích này thiết nghĩ vào cuối
giờ học là hợp lý nhất.
3.2.2.3 Chọn cách tổ chức tro chơi có hiệu quả.
Trò chơi có thể tổ chức theo các bước sau:
8


Bước phổ biến trò chơi:
+ Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung,
cách chơi, cách phân thắng bại…
+ Giáo viên chọn một số học sinh tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ
học, lần lượt học sinh được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những học sinh nhút

nhát, ít phát biểu.
Bước học sinh thực hiện trò chơi:
+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trò chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trò chơi (đối với trò
chơi sắm vai thì có cách giải quyết khác).
Bước tổng kết, đánh giá:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: trò chơi có
được thực hiện đúng quy tắc không, có phù hợp với nội dung bài học không, có
thể rút ra bài học gì qua trò chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và
tuyên bố nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có).
- Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt bằng cách:
+ Tặng một tràng pháo tay cùng với những lời động viên khen ngợi.
+ Ghi điểm các thành viên trong nhóm.
+ Trao thẻ đỏ cho nhóm thực hiện tốt, thẻ xanh cho nhóm chưa tốt.
Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích,
nội dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa
học, vừa chơi”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học hơn nhiều.
3.2.2.4. Một số tro chơi đã áp dụng trong tiết tiếng Việt tại trường
THPT Than Uyên nhằm tạo hứng thú cho học sinh.
3.2.2.4.1 Tro chơi sắm vai
Sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành,“ làm thử”, diễn thử một
đoạn hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn hội thoại, đoạn
trích nào đó.
9


Mục đích: Sắm vai nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, nhận ra vấn đề,
giúp buổi học sinh động, có kết quả hơn… Giúp chính học sinh đóng vai cảm
nghiệm được tâm lý, thái độ, hành vi của đối tượng mình đóng vai, khắc sâu

kiến thức cần đạt. Giúp học sinh tự nhận ra những thế mạnh, hạn chế của chính
mình khi rơi vào tình huống của vai đã đóng.
Cách tiến hành trò chơi:
+ Dựa vào nội dung từng bài học, giáo viên đưa ra tình huống là một đoạn
hội thoại. Người sắm vai là những học sinh xung phong, tình nguyện. Giáo viên
đến từng nơi để góp ý cho từng nhóm: như ngôn ngữ của nhân vật, cách thể hiện
tâm trạng...sau đó cho các nhóm lên diễn.
+ Cả lớp và giáo viên nhận xét.
+ Tổng kết khen thưởng.
Ví dụ khi dạy bài “ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” Ngữ văn 10- tập 1
giáo viên có thể cho học sinh thực hiện trò chơi sắm vai. Các em học sinh sẽ
sắm vai các nhân vật trong đoạn hội thoại (Sách giáo khoa). Qua đó học sinh sẽ
dễ dàng nhận ra các đặc điểm của ngôn ngữ sinh hoạt như: giọng nói, ngữ điệu,
cử chỉ, nét mặt…
Hoặc khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” tiết 2 giáo viên cũng
có thể cho học sinh thực hành sắm vai với đoạn hội thoại khác. Chẳng hạn khi
dạy đặc trưng “Tính cá thể” , “Tính cảm xúc” có thể cho các em sắm vai Tấm,
Cám, mụ dì ghẻ để thấy rõ hai đặc trưng này, vừa khơi gợi hứng thú cho học
sinh vừa kết hợp liên phân môn với phần văn học dân gian.
3.2.2.4.2 Tro chơi tiếp sức
Mục đích: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả
học sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu
kém. Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện
của một nội dung, khái niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận,
phát hiện và nêu ra những biểu hiện đó.
Cách tiến hành trò chơi:
+ Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
+ Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi.
10



+ Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Ví dụ dạy bài “ Ôn tập tiếng Việt” chương trình Ngữ văn 10 kì II ta có thể
áp dụng trò chơi tiếp sức. Giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi thực hiện các phần
của bài học như một cuộc thi chạy tiếp sức. Các thành viên trong đội bàn bạc và
thay phiên thực hiện các câu hỏi. Bao gồm các phần chơi như: điền từ khóa,
ghép ô chữ, phất cờ trả lời nhanh…
Ví dụ: Khi dạy bài “Thực hành về một số kiểu câu trong văn bản” Tiết 6162 - Ngữ văn 11- tập 1. Khi dạy đến kiểu câu bị động giáo viên áp dụng trò chơi
này bằng cách chia lớp theo 4 nhóm, mỗi nhóm được phát một tập phiếu trắng,
các em làm việc và ghi ra câu chủ động và chuyển câu ấy sang câu bị động vào
phiếu (một phiếu ghi câu chủ động, một phiếu ghi câu bị động) rồi lần lượt từng
em lên dán phiếu vào bảng phụ cho phù hợp 2 cột (giáo viên chia bảng phụ ra
làm 2 cột một bên là câu chủ động, một bên là câu bị động) của nhóm mình. Trò
chơi 3 phút, giáo viên tuyên bố kết thúc cuộc chơi, hướng dẫn học sinh nhận xét,
góp ý cách chuyển câu chủ động sang câu bị động, nhóm nào tìm được nhiều ví
dụ hơn thì thắng cuộc. Giáo viên khen thưởng cho nhóm thắng cuộc bằng cách
cộng điểm thực hành hoặc một tràng pháp tay. Với hình thức này giáo viên vừa
ôn lại kiến thức cũ mà các em đã học ở cấp học dưới vừa hình này được tri thức
mới của bài học một cách rất nhẹ nhàng.
3.2.2.4.3 Tro chơi “Đuổi hình bắt chư”
Mục đích giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của minh,
tạo không khí sôi nổi trong giờ học, tạo sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học
sinh. Trò chơi này có thể áp dụng khi tìm hiểu kiến thức mới của bài học hoặc áp
dụng ở phần củng cố của bài học.
Cách tiến hành trò chơi: Giáo viên chuẩn bị hình ảnh minh họa liên quan
đến nội dung bài học có sử dụng trò chơi. Giáo viên chiếu hình lên máy chiếu
hoặc treo hình lên bảng phụ và cho cả lớp đoán những hình ảnh ấy thể hiện nội
dung gì? Cả lớp cùng chơi và học sinh nào trả lời được đúng và nhiều hình nhất
sẽ được thưởng tràng pháo tay hoặc cộng thêm điểm. Giáo viên nhận xét rút ra
nội dung bài học, tuyên dương những em trả lời tốt và nhắc nhở những em chưa

thật sự tập trung.
11


Ví dụ khi dạy bài “Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết” Ngữ
văn 10-Tập 1. Dạy mục I Đặc điểm của ngôn ngữ nói giáo viên có thể áp dụng
trò chơi này trong 2 phút. Giáo viên treo hình ảnh lên bảng phụ và hỏi cả lớp
hãy cho biết những người trong tranh đang muốn nói gì hoặc đang ở trong tâm
trạng nào? Cả lớp cùng chơi và ai xung phong trả lời nhanh và đúng nhất người
đó sẽ thắng cuộc được giáo viên tuyên dương trước lớp hoặc nhận phần quà nhỏ
là một cuốn tập như vậy em nào cũng háo hức muốn được trả lời câu hỏi. Tương
tự đến mục II Đặc điểm của ngôn ngữ viết giáo viên cũng treo hình lên bảng phụ
và cho các em chơi theo gợi ý là những câu hỏi của giáo viên. Thông qua trò
chơi giáo viên nhận xét và hình thành tri thức mới của bài học, các em sẽ dễ
dàng nhận ra và nắm bắt được ngôn ngữ nói ngoài phương tiện chính là sử dụng
lời nói, ngữ điệu nói thì nó còn được kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như nét
mặt, ánh mắt, cử chỉ điệu bộ của người nói khi giao tiếp. Còn ngôn ngữ viết
ngoài phương tiện chính là chữ viết nó còn được hỗ trợ bởi các phương tiện: dấu
câu, hình ảnh minh hoạ, bảng biểu sơ đồ, ký hiệu...
3.2.2.4.4 Tro chơi “ Giọng ải giọng ai”
Mục đích giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của minh,
tăng cường sự gắn bó giữa các học sinh, tạo không khí sôi nổi trong giờ học, tạo
sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học sinh. Trò chơi này có thể áp dụng khi tìm
hiểu kiến thức mới của bài học hoặc áp dụng ở phần củng cố của bài học.
Cách tiến hành trò chơi: Giáo viên gọi 1 học sinh lên bảng dùng khăn đỏ
bịt mắt để học sinh không nhìn thấy các hành động của các bạn trong lớp mà
phải phấn đoán qua cách lắng nghe. Giáo viên lần lượt gọi bất kì học sinh thực
hiện nói theo yêu cầu nhằm giúp học sinh đang chơi nhận ra được điều bạn diễn
tả.
Ví dụ: Khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt tiết 2 Ngữ văn 10 kì I

ta có thể cho học sinh chơi trò chơi này để nhận biết đặc trung “Tính cá thể” :
Giọng nói là bộ mặt thứ hai của con người, qua giọng nói ta có thể nhận biết các
đặc điểm như tuổi tác, giới tính, địa phương, cá tính, trình độ văn hóa, quan hệ
thân sơ với người nghe….
3.2.2.4.5 Tro chơi “ Ai nhanh hơn”
12


Mục đích: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả
học sinh trong lớp, phát huy việc phản ứng nhanh. Trò chơi này áp dụng khi giáo
viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của một nội dung, khái niệm của một
bài học nào đó các em hoạt động cá nhân, phát hiện và nêu ra những biểu hiện
đó.
Cách tiến hành trò chơi:
+ Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
+ Trên lớp giáo viên treo bảng phụ và công bố luật chơi.
+ Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Ví dụ: Khi dạy bài Đặc điểm loại hình tiếng Việt Ngữ văn 11 tập 2 khi
củng cố bài học ta có thể áp dụng trò chơi này. Giáo viên treo bảng phụ có ghi
một bài thơ chữ thập, hoặc thơ hình tròn để học sinh tìm cách đọc đúng của bài
thơ từ đó rút ra tổng kết: do tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập với đơn
vị cơ sở là các tiếng tách rời về cách đọc, cách viết, từ không biến đổi hình thái
khi thay đổi vị trí, chức năng do đó có rất nhiều bài thơ độc đáo nhiều cách đọc
mà ngôn ngữ hòa kết không có.
Đây
lại
gửi
này nghĩa bỏ thơ chàng nhớ thiếp
đặng
đó

hay
Cách đọc:

Đây lại gửi thư đặng đó hay
Hay đó đặng thơ bỏ nghĩa này
Này nghĩa bỏ thơ chàng nhớ thiếp
Thiếp nhớ chàng thơ gửi lại đây

3.2.3. Các điều kiện cần thiết để thực hiện giải pháp
Giáo viên ý thức được vai trò quan trọng của người thầy trong quá trình dạy
học hướng đến mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Từ vị trí của
13


người hướng dẫn, giáo viên không được áp đặt mà cần có những biện pháp cụ thể để
giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, tiến bộ trong học tập.
Học sinh phải hiểu được vai trò quan trọng của bộ môn. Từ đó, học sinh có ý
thức tự giác hình thành thói quen học tập chủ động. Học sinh không được giấu dốt,
không tự ti làm ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Đổi mới phương pháp dạy học tạo hứng thú cho học sinh là yêu cầu cấp
thiết song cũng rất khó khăn. Công việc này đòi hỏi giáo viên và học sinh phải
kiên trì và mất nhiều công sức. Học sinh và giáo viên cũng cần phải hợp tác tích
cực, chú trọng rèn luyện, nâng cao thái độ học tập. Từ đó cải thiện chất lượng
giáo dục môn học.
4. Hiệu quả của sáng kiến
Trong quá trình dạy học, giáo viên đã áp dụng những biện pháp nêu
trên đối với học sinh lớp mình phụ trách đạt được một số hiệu quả nhất
định:
Đối với giáo viên:
Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để học sinh khắc

sâu kiến thức. Từ đó làm cho không khí lớp học sôi nổi, giảm sự đơn điệu, tăng
hứng thú học tập cho học sinh nhờ đó đã nâng cao hiệu quả việc dạy và học đặc
biệt với những em sức học yếu, chậm, nhút nhát.
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và hiệu quả.
Đối với học sinh: Giúp các em
Rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy biết xử lý tình huống linh hoạt.
Học sinh thích thú với trò chơi trong giờ học do đó năng động hăng say phát
biểu xây dựng bài vì vậy mà các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.Các em có
điều kiện cùng chuẩn bị bài học, chủ động trong học tập...
Để thấy rõ hiệu quả và tính khả thi của đề tài ta sẽ so sánh 2 bảng số liệu ghi
kết quả khảo sát ý kiến và chất lượng học tập của học sinh 3 lớp thực nghiệm
trong năm học 2017- 2018 ( 11A4, 10A6, 12A6 ) trước và sau khi áp dụng
phương pháp lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn :
14


Để đánh giá hiệu quả do các giải pháp mang lại, người viết tiến hành khảo
sát học sinh một lần nữa. Kết quả đạt được như sau:
Câu hỏi

Đáp án

Số HS chọn

1. Anh/ chị cho biết vai tro A. Quan trọng
B. Bình thường
của phân môn tiếng Việt
C. Không quan trọng
trong chương trình Ngư D. Ý kiến khác
văn THPT?

2. Anh/ chị có cảm thấy A. Hứng thú
B. Bình thường
hứng thú với các tiết
C. Không hứng thú
tiếng Việt không?
3. Anh/ chị có hay phát A. Rất ít.
B. Thỉnh thoảng
biểu ý kiến trong các
C. Phát biểu nhiều
tiết tiếng Việt không?
4. Nếu giáo viên lồng A. Rất hứng thú
B. Bình thường
ghép tro chơi vào tiết
C. Chưa rõ lắm về hình thức này.
học anh/ chị có hưởng D. Không hứng thú
ứng không?
5. Kết quả thi học kì 1 A. Giỏi
B. Khá
của học sinh.
C. Trung bình
D.Yếu
Như vậy, sau khi áp dụng các biện pháp chúng tôi nhận thấy...
Qua kết quả hai lần khảo sát, ta có thể nhận ra những biện pháp mà người
thực hiện đề tài này áp dụng phần nào đã có tác động đến việc nâng cao chất
lượng giờ dạy, tạo được hứng thú cho học sinh lớp 11A4, 10A6, 12A6 trường
THPT Than Uyên. Kết quả này mặc dù chưa phải là kết quả tốt nhất nhưng cũng
đã thể hiện sự nỗ lực của bản thân và tính khả thi của những phương pháp mà
chúng tôi đã áp dụng nhằm giúp học sinh yêu thích môn học, nâng cao kết quả
học tập trong năm học vừa qua. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để đạt được kết
quả tốt hơn trong thời gian sắp tới.

5. Về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến
15


Sáng kiến có khả năng áp dụng cao vào thực tế dạy học môn Ngữ văn.
Những giải pháp người viết áp dụng trong quá trình dạy học không chỉ phù hợp
với học sinh lớp 11A4, 10A6, 12A6 mà còn có thể sử dụng rộng rãi cho học sinh
các lớp khác, trường khác, cấp học khác, đặc biệt là học sinh vùng sâu vùng xa,
vùng khó khăn.
Các biện pháp được nêu ra trong đề tài này nhằm mục đích giúp học sinh
cảm thấy hứng thú và yêu thích hơn đối với bộ môn từ đó nâng cao chất lượng
dạy học.
6. Các thông tin cần được bảo mật: Không
7. Kiến nghị, đề xuất:
Để sáng kiến của chúng tôi được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi hơn nữa
chúng tôi mạnh dạn có một số kiến nghị như sau:
Một là, tổ chức tập huấn đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên, đặc biệt
là giáo viên trẻ, để mỗi giáo viên hiểu rõ tác dụng, vị trí, vai trò của phương pháp dạy
học tích cực.
Hai là, các tổ khối chuyên môn nên thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên
môn về các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học và dạy học tích cực nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục.
Ba là việc sử dụng trò chơi trong dạy học môn Văn có rất nhiều tác dụng,
tuy nhiên khi sử dụng nó không nên quá lạm dụng, chỉ sử dụng trong thời gian
ngắn như khởi động buổi học, giới thiệu một nội dung mới hoặc để củng cố một
vấn đề của bài học. Nếu trong buổi học thấy tình trạng học sinh mệt mỏi cũng
có thể sử dụng trò chơi học tập để giúp học sinh thay đổi trạng thái, lấy lại tinh
thần học tập, việc sử dụng trò chơi trong dạy học môn Văn vừa giúp học sinh
thấy thoải mái, vừa phát huy tính tự lực của các em đồng thời vẫn có những
điểm tựa để ghi nhớ kiến thức của bài học thông qua nội dung chơi.

Bốn là giáo viên cần nghiên cứu tùy theo số lượng học sinh, điều kiện cơ sở
vật chất để tổ chức các trò chơi sao cho phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
nếu tổ chức trò chơi không tốt sẽ bị hạn chế về ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
8. Tài liệu kèm: Không
16


Trên đây là nội dung, hiệu quả của sáng kiến do chính chúng tôi thực hiện,
không sao chép, không vi phạm bản quyền./.
XÁC NHẬN TRƯỜNG THPT THAN

NHÓM TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

UYÊN

Hoàng Thị Quyên

17



×