Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luân biến đổi hôn nhân từ truyền thống đến hiện đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.05 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
ĐỀ TÀI: BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN TỪ TRUYỀN THỐNG TỚI HIỆN ĐẠI
BÀI LÀM:

1. Khái niệm gia đình và mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
1.1. Khái niệm
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sơ
của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục …
giữa các thành viên.
Gia đình là phạm trù xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người; Gia đình là
một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã
hội. liên quan đến hoạt động của toàn xã hội và mỗi cá nhân. Theo quan điểm hệ
thống, mỗi thiết chế ấy biến đổi sẽ dẫn đến cả hệ thống biến đổi và ngược lại,
những thiết chế xung quanh gia đình trong hệ thống xã hội nói chung (như kinh tế,
pháp luật, văn hóa…) biến đổi cũng khiến cho gia đình biến đổi theo. 1Gia đình
Việt Nam không nằm ngoài quy luật này.
1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố
tồn tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có
gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính
vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư

Trịnh Hòa Bình, Về sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện đại, Tạp chí Bắc Việt
luật, ngày 5 tháng 2 năm 2011.
1


1


liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn
đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh
ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hương rất quan
trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính
trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã
hội.
c. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối
quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự
hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân
của xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình.
Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho
xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh
thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là
thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai
trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá
nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh
hương tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tương, đạo
đức, lối sống.

Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia
đình vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bơi vì gia đình và quan hệ gia đình còn
bị chi phối bơi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … vì vậy, mặc
2


dù xã hội có nhưng thay đổi nhưng một số gd vẫn lưu giữ những truyền thống của
gia đình
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất lần lượt thay thế
nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu gia đình. Từ gia
đình tập thể – với hình thức quần hôn, huyết thông; gia đình cặp đôi với hình thức
hôn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể với hình thức hôn nhân một vợ một chồng.
Từ gd một vợ một chồng bất bình đẳng sang gia đình một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng. Tất cả những bước tiến trong gia đình đều phụ thuộc vào những bước
tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bơi những quan
hệ xã hội. Vì vây, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về
tiêu chuẩn đạo đức, lối sống …
1.3. Chức năng của gia đình
Từ cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4 chức năng cơ bản:
1.3.1. Chức năng sinh sản
Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực
cho gia đình và xã hội. Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác định
nguồn cội của con người, từ đó tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên tôn ty gia
đình, trật tự xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản cho nòi giống phát triển.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên trong gia
đình vẫn là ưu thế bơi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sơ,
nền tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự phát triển.
1.3.2. Chức năng giáo dục

Gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho
mỗi con người trong xã hội. Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những
người thầy thân yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỷ năng sống để có thể
thích ứng, hòa nhập vào đời sống cộng đồng. Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất
trong gia đình (Cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ,
ông bà vừa yêu quý vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình với
3


họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống
chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp thu một
cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến
quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
1.3.3. Chức năng kinh tế
Đây là chức năng nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình,
góp phần vào sự phát triển toàn xã hội. Lao động của mỗi thành viên gia đình hoặc
hoạt động kinh tế của gia đình nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng các nhu cầu đời sống
vật chất (ăn, ơ, đi lại) lẫn nhu cầu tinh thần (học hành tiếp cận thông tin, vui chơi
giải trí). Gia đình còn là đơn vị tiêu dùng, việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch
vụ trong xã hội đã tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát
triển.
Gia đình là một thực thể xã hội, sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận.
Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của
gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ
bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia
đình tức là đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội
1.3.4. Chức năng tâm lý – tình cảm
Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nên thành viên gia đình
có tình yêu thương và ý thức, trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi
để mỗi được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình

cảm, cân bằng tâm lý, giải tỏa ức chế... từ các quan hệ xã hội.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu
mến, ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính,
vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... Ở đó,
mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc
giường... đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ
và có sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều
4


đó sẻ tạo nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong
gia đình, dòng họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình
thành trong làng xóm, trong xã hội, trơ thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất
nước, con người.
Cả 4 chức năng này đã và đang xuất hiện những yếu tố mới, Một số nhà
nghiên cứu cho rằng: Nếu có gì gọi là mới trong gia đình Việt Nam hiện đại thì có
lẽ là sự tăng cường yếu tố dân chủ trong cái tổ chức này. Xã hội mới tạo điều kiện
cho mỗi người có giá trị tự thân. Thêm một nhân tố nữa để bảo đảm sự bình đẳng
trong các tương quan và chức năng của mỗi thành viên trong gia đình. Không có áp
bức, thống trị ơ đây (được xét về mặt khái quát).
Và về chức năng giáo dục, một số nhà nghiên cứu cho rằng giáo dục gia
đình đang có xu hướng thay đổi trong xã hội hiện đại bơi những vấn đề mà giới trẻ
hiện nay đang gặp phải như các tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, sự tôn kính đối
với ông bà cha mẹ có xu hướng giảm sút… hay sự chuyển giao, phó mặc chức
năng này của gia đình cho các thiết chế xã hội khác như trường học, dịch vụ xã hội
(dịch vụ chăm sóc trẻ, giúp việc tại nhà)… Sự biến đổi về quy mô, kiểu loại gia
đình, những biến đổi trong đời sống hôn nhân, tâm lý – tình cảm và sự lựa chọn
trong kết hôn cũng được quan tâm đáng kể trong những nghiên cứu về gia đình

trong thời gian qua.
Rất nhiều khía cạnh khác nhau của gia đình đều đang có những biến đổi
trong điều kiện xã hội biến đổi, điều đó đã tạo nên sự biến đổi khuôn mẫu gia đình
nói chung. Vì thế, việc xác định rõ ràng, chuẩn xác đặc trưng của gia đình Việt
Nam hiện nay là một vấn đề không dễ dàng.
1.4. Sự biến đổi về cơ cấu gia đình
Cơ cấu gia đình là những thành tố tạo nên một gia đình và quan hệ qua lại
giữa chúng với nhau. Nói một cách khác cơ cấu gia đình là số lượng, thành phần và
mối quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình.
Cơ cấu gia đình chỉ quy mô gia đinh, kiểu loại gia đình, mối quan hệ giữa
các thế hệ trong gia đình.

5


Cơ cấu gia đình còn chỉ toàn bộ mối quan hệ qua lại giữa các thành viên
trong gia đình: quan hệ ruột thịt, quan hệ tinh thần-đạo đức, quan hệ uy quyền.
Trong tác phẩm “Tam giác gia đình” của tác giả Hồ Ngọc Đại, ông đề cập
đến: “Gia đình là một khái niệm mới được hình thành từ ba thành phần, gồm
những “đại lượng khác tên” là bố, mẹ và con cái hình thành nên một tam giác gia
đình” đặt trong bối cảnh gắn với tam giác đời sống xã hội mà ba đỉnh là cá nhân –
gia đình – xã hội thì đây là một mối liên hệ khó có thể bóc tách được. Điều này cho
thấy sự biến đổi của gia đình luôn gắn với sự biến đổi của các cá nhân và xã hội.
Hiển nhiên, gia đình là hệ quả của mối tương tác giữa các cá nhân và xã hội đang
sống. Gia đình với chức năng của nó sẽ cố gắng điều hoà các mối quan hệ này phù
hợp với hoàn cảnh xã hội.
Mọi xã hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của
xã hội chỉ là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ơ bên
trong bản thân nó. Sự biến đổi xã hội sẽ dẫn theo các yếu tố bên trong nó và những
yếu tố khác (Kinh tế- văn hóa- chính trị- quân sự ) thay đổi. Và gia đình là một

thành tố tồn tại bên trong xã hội, có thể coi gia đình là một nhóm xã hội sơ cấp, là
“tế bào” của xã hội, hay hiểu rộng hơn gia đình là một thiết chế xã hội. Vào những
năm đầu đổi mới, “ mơ cửa”, với sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thi trường, kéo
theo nó là sự du nhập ồ ạt của lối sống, phương thức sinh hoạt của xã hội phương
Tây vào nước ta đã làm thay đổi phần nào những giá trị truyền thống, đặc biệt
trong gia đình Việt Nam dù ơ nông thôn hay thành thị. Có thể tùy từng dân tộc,
từng vùng, từng dòng họ, từng gia đình mà thay đổi nhiều hay ít. Qua gia đình,
chân dung của xã hội hiện ra một cách sinh động và toàn diện cả về kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học, tư tương, tôn giáo, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng
1.4.1. Một số xu hướng biến đổi gia đình từ gia đình truyền thống đến
gia đình hiện đại:
Thứ nhất, quy mô, kích cỡ gia đình Việt Nam đang dần dần “thu hẹp lại”,
gia đình hạt nhân đang trơ nên phổ biến, dần thay thế gia đình mơ rộng nhiều thế
hệ sống trong một mái nhà. Xu hướng này biểu hiện rõ nét hơn khi tốc độ đô thị
hoá ngày càng gia tăng.
6


Thứ hai, chức năng giáo dục thế hệ trẻ và truyền thụ văn hoá đang ít nhiều bị
xem nhẹ. Gia đình đang có xu hướng “giao phó” chức năng này cho thiết chế
trường học và hệ thống các dịch vụ xã hội khác.
Thứ ba, chức năng kinh tế gia đình đang có xu hướng chuyển phần “sản
xuất” sang “tiêu dùng”. Vẫn tồn tại với tư cách là một đơn vị kinh tế, song các
thành viên trong gia đình lại theo đuổi các mục đích khác nhau, theo đó là các hoạt
động kinh tế khác nhau, mỗi thành viên có một “tài khoản” riêng mà không cùng
sản xuất và chung một “nguồn ngân sách” như trong gia đình truyền thống.
Thứ tư, các mối quan hệ trong gia đình trơ nên lỏng lẻo, sợi dây liên kết các
thành viên đang bị “nới rộng ra” theo hướng tự chủ, phát triển độc lập và cá nhân
hoá. Khuynh hướng này có thể làm suy yếu tính cộng đồng, cộng cảm trong phạm
vi gia đình.

Thứ năm, vai trò điều hoà đời sống tâm lý – tình cảm trong gia đình hiện nay
cũng đang bị “xói mòn”. Người già và trẻ em đang phải đối mặt với sự cô đơn, sự
thiếu quan tâm và chăm sóc từ các thành viên khác trong gia đình. Họ đang dần bị
“đẩy” ra các nhà dưỡng lão, nhà trẻ, trung tâm chăm sóc sức khoẻ và các dịch vụ
xã hội khác.
Thứ sáu, cấu trúc gia đình dễ biến động, thiếu tính bền vững hơn do sự thay
đổi trong quan niệm về hôn nhân, hạnh phúc, trách nhiệm với gia đình của các
thành viên cũng như trong các chuẩn mực giá trị, quy phạm pháp luật về hôn nhân
và gia đình.
Gia đình Việt Nam đã và đang biến đổi dưới sự tác động của những biến đổi
về kinh tế, xã hội và giao lưu văn hoá toàn cầu. Sự biến đổi đó không tách rời hoàn
toàn với những đặc trưng của gia đình truyền thống mà là sự điều chỉnh, thích nghi
với những hoàn cảnh và điều kiện xã hội mới. Thực tế, gia đình Việt Nam đang
phải đối mặt với rất nhiều thách thức và phải lựa chọn cho mình một khuôn mẫu
phù hợp, trong đó có sự cân bằng giữa việc bảo lưu những yếu tố truyền thống bền
vững với những thay đổi không ngừng của xã hội hiện đại. Với khả năng thích ứng
cao trên nền tảng văn hoá truyền thống, gia đình Việt Nam vẫn hoàn toàn có khả

7


năng gìn giữ được những nét bản sắc đặc trưng của nó ngay trong điều kiện phát
triển của thế giới hiện đại.
1.4.2. Sự khác biệt cơ bản giữa gia đình truyền thống và gia đình hiện
đại
Quy mô gia đình: Trước đây, trong một gia đình thường có sự xuất hiện của
ông bà, bố mẹ, con cái, theo kiểu "Tam đại đồng đường" hay "Tứ đại đồng đường",
điều đó là chuyện rất bình thường ơ mỗi ngôi nhà Việt. Điều kiện khó khăn, việc
thoát ly ra khỏi tổ ấm dường như rất ít, con cái lớn lên, cưới vợ gả chồng rồi sinh
con vẫn cố gắng để ơ bên, phụng dưỡng cha mẹ. Ngược lại, việc sống cùng người

già giúp các cặp vợ chồng trẻ giữ được nền nếp, thói quen, gia phong của gia đình,
đồng thời biết lễ nghĩa, kính trên, nhường dưới.
Ngày nay, những cặp vợ chồng trẻ thường thích sự tự do, muốn thể hiện
được cái tôi và khả năng độc lập cao, có điều kiện kinh tế. Những lý do đó khiến
nhiều người quyết định sống riêng, gây dựng một gia đình nhỏ chỉ có hai thế hệ.
Không những thế, người phụ nữ ngày càng bình đẳng, không chấp nhận hy sinh
nên không muốn sống cảnh "làm dâu" tại nhà chồng. Vì thế họ lựa chọn việc "ra ơ
riêng".
Cùng với đó là sự mất dần ngôi nhà truyền thống của người Việt, rất nhiều
gia đình cả ơ thành thị vànông thôn hiện nay đã làm theo kiến trúc phương Tây,
ngôi nhà hiện đại bao gồm nhiều phòng riêng biệt. Điều này đã làm mờ dần đi mối
quan hệ tình cảm gần gũi, sự quan tâm, chia sẻ giữa các thành viên trong gia đình.2
Bữa cơm gia đình: Từ xưa đến nay, bữa cơm trong quan niệm của người Việt
là vô cùng quan trọng. Với các gia đình xưa, bữa cơm luôn được chú trọng. Trong
giai đoạn đói kém, nhiều nhà chỉ ăn một bữa cơm, nhưng tất cả các thành viên đều
có mặt đông đủ, để chia sẻ và gặp mặt nhau sau một ngày làm việc. Nhiều người
lớn tuổi chưa quên được cảnh một gia đình thôn quê khoảng nhá nhem tối, trải
chiếu ra ngoài hiên, quây quần bên mâm cơm, trò chuyện và tận hương không gian
thoáng đãng cuối ngày. Trong gia đình xưa của người Việt Nam chúng ta, thường
Thân Minh Quế - Hiệu trương trường chính trị tỉnh Bắc Giang, vấn đề giao dục đạo đức và nếp
sống văn hóa gia đình trong nền kinh tế thị trường ơ nước ta hiện nay, đăng trên trang thông tin
điện tử Trường chính trị tỉnh Bắc Giang, ngày 03/01/2017
8
2


có rất đông thành viên và có thể có cả 4- 5 thế hệ hiện diện trong một mâm cơm.
Do đó, vai trò của phụ nữ trong việc bếp núc là rất quan trọng. Bữa cơm cũng hàm
chứa ý nghĩa to lớn, phải theo đúng nghi thức, theo đúng cái trật tự, nền nếp của
truyền thống “Tứ đại đồng đường”, “ngũ đại đồng đường”. Trung tâm của mâm

cơm chính là ông bà, cha mẹ; con cháu phải thể hiện được lòng tôn kính, sự hiếu
thảo ngay từ khi chưa bước vào mâm cơm.
Ý nghĩa, vai trò của bữa cơm gia đình Việt Nam vẫn không bao giờ thay đổi,
dù xã hội luôn tiến bộ và phát triển ngày càng nhanh chóng. Tuy nhiên, chúng ta
thấy trong cái tất bật của công việc, trong cuộc mưu sinh, thì việc quây quần đầy
đủ các thành viên trong bữa cơm ngày càng thưa dần đi, đã có nhiều gia đình “ăn
ngoài” thường xuyên hơn. Đặc biệt là đối với những gia đình trẻ.
Cuộc sống của một gia đình hiện đại ngày nay là sáng đưa con đến lớp, bố mẹ
đi làm, chiều về đón con rồi đi chợ nấu cơm. Tuy nhiên, bữa cơm tối duy nhất của
cả nhà đôi khi không có mặt đông đủ các thành viên. Khi thì bố hoặc mẹ bận làm
thêm giờ, lúc thì con phải đi học thêm… Bữa cơm thường được ăn nhanh chóng để
mỗi người một việc, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hôm sau, khoảng thời gian tận
hương và chia sẻ cùng nhau dường như cũng ít đi.3
Nề nếp sinh hoạt: Khi sống trong gia đình tứ đại đồng đường, mọi nề nếp,
gia phong đều được người già giữ gìn và duy trì. Các cụ luôn dùng những câu răn
dạy của người xưa để giúp con cháu giữ được nề nếp như "ăn trông nồi, ngồi trông
hướng", "kính trên, nhường dưới"... Chính nhờ có các cụ mà con cháu biết nhìn
nhau mà sống. Hơn nữa, cuộc sống xưa đơn giản, chưa có sự can thiệp của các
công nghệ hiện đại, con người ít có sự lựa chọn.
Nhịp sống công nghiệp ngày nay, các cặp vợ chồng trẻ có nhiều sự tự do hơn
khi sống riêng. Khi không thích nấu nướng, họ có thể chọn ăn ngoài hàng hoặc gọi
đồ ăn về nhà. Với những gia đình chưa có con, chỉ có hai người thì sự thoải mái
càng lớn hơn. Đôi khi, căn bếp cả tuần không "đỏ lửa" và các cặp vợ chồng cũng
không lấy đó làm lo lắng.
Trang Anh, “Bữa cơm gia đình xưa và nay”, Bài đăng trên Cổng thông tin điện tử Sơ văn hóa
và thể thao thành phố Hà Nội, ngày 01/08/2016
9
3



Sự khác biệt giữa hai thế hệ: Giữa một phía quyết giữ bằng được mọi giá
trị truyền thống và một bên ra sức phá bỏ, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn.
Người già luôn đem những câu chuyện ngày xa xưa ra làm chuẩn mực để dạy dỗ
thế hệ trẻ, còn người trẻ thì cho đó là lạc hậu, cổ lỗ sĩ, không biết tiếp nhận cái
mới. Tiếng nói chung giữa hai thế hệ ngày càng ít đi.
Gia đình, dù ơ thế hệ nào, cũng đều hướng tới giá trị hạnh phúc của mỗi con
người sống trong đó. Dù hiện đại hay truyền thống, thì bố mẹ cũng luôn hy sinh và
làm mọi thứ để con cái được hạnh phúc.
2. Hôn nhân gia đình và sự biến đổi từ truyền thống đến hiện đại
2.1. Quan niệm về hôn nhân
Trong khoa học pháp lý, khoa học xã hội nói chung và khoa học Luật hôn
nhân và gia đình nói riêng, việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về hôn nhân có ý
nghĩa quan trọng. Nó phản ánh quan điểm chung nhất của Nhà nước về hôn nhân;
tạo cơ sơ lý luận cho việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân; xác định nội
dung, phạm vi điều chỉnh của các qui phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.
Trong thực tiễn ơ Việt Nam và nước ngoài, nhiều khái niệm hôn nhân đã
được các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu đưa ra, chẳng hạn:
- Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, phổ biến một khái niệm cổ
điển mang quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo đưa ra: Hôn nhân
là sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà
không vì mục đích nào khác”4. Ngoài khái niệm trên, hiện nay ơ Châu âu và Mỹ
còn có quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và một
người nữ với tư cách là vợ chồng”5, hoặc: “Hôn nhân là hành vi hoặc tình trạng
chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng”6.
- Ở Việt Nam, cũng có một số khái niệm cụ thể về hôn nhân, mà phần nhiều
mới đưa ra khái niệm “giá thú”: “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một
người đàn ông và một người đàn bà theo thể thức luật định” hoặc “giá thú” cũng
được hiểu: “sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa
P. M . Promley. Family law. 5th edition. London Butterworth. 1976. Tr 15.
5 Leonard & Elias. Berkely. Family law Dictionary. Cali. Nolo 1990.

6 Dictionary of law – Third edition. Petter collin publishing. 2000.
10
4


vụ tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ”. Ta có
thể hiểu khái niệm “giá thú” bao gồm có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất gia thú là
hành vi phối hợp vợ chồng (kết hôn). Theo nghĩa thứ hai là tình trạng của hai
người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời gian hai người ăn ơ với nhau.
Điều 3 Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964, Điều 99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972
của Chính quyền Sài gòn cũ qui định: “Không ai được phép tái hôn nếu giá thú
trước chưa đoạn tiêu”.
Trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành (luật năm 2014 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2015), khái niệm hôn nhân đã qui định: “hôn nhân là quan
hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ
Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội hôn nhân được hiểu là: “sự liên kết giữa
người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện
và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình
hạnh phúc và hoà thuận”.
Sự liên kết giữa nam và nữ để thành vợ chồng, thành gia đình là một nhu cầu
xã hội, tiếp đến mới là nhu cầu sinh học. Hay nói cách khác, hôn nhân không phải
do trời cho mà nó xuất hiện và hình thành trong quá trình phát triển của loài người
và nó cũng biến đổi theo sự văn minh của con người. Và dù ơ bất cứ xã hội nào thì
hôn nhân cũng là một mối quan hệ được xã hội thừa nhận giữa hai người khác giới.
Do sự biến đổi của hôn nhân gắn liền với sự biến đổi văn minh xã hội nên
hôn nhân của loài người đã trải qua những hình thức khác nhau. Buổi đầu sơ khai
là chế độ quần hôn, sau đó là hôn nhân mẫu hệ - một người phụ nữ có thể kết hôn
với nhiều người đàn ông. Và tiếp đó là hôn nhân phụ hệ, đa thê. Một người đàn
ông có thể làm chồng của nhiều người phụ nữ. Đó là hôn nhân bất bình đẳng, mua
bán, cưỡng ép…cuối cùng ngày nay là gia đình bình quyền, tự nguyện, một vợ một

chồng.
2.2. Các loại hình hôn nhân
2.2.1.Hôn nhân truyền thống: sự kết hợp của nam và nữ (hôn nhân là quan
hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn – theo Luật hôn nhân và gia đình), nó
mang một số đặc điểm sau:
11


Thứ nhất: Hôn nhân là một thiết chế xã hội: “Việc một người đàn ông và một
người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa vụ đối với
nhau cũng như đối với con cái”.
Thứ hai, Tính tự nguyện trong hôn nhân.
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng
thuận giữa các bên trong hôn nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân
có hiệu lực. Hiện nay, pháp luật có quy định không có sự tự nguyện thì không có
hôn nhân.
Tuy nhiên, tính tự nguyện trong hôn nhân được xem xét với nhiều quan
điểm khác nhau. Ở một số nước phương Tây, tự nguyện ơ đây thường gắn với tự
nguyện trong hợp đồng. Ví dụ: áp dụng chế độ đại diện trong kết hôn, nếu các bên
nam, nữ kết hôn ơ độ tuổi theo luật định bắt buộc phải có sự đồng ý của cha, mẹ
hoặc người giám hộ (thường ơ độ tuổi chưa thành niên), thì việc kết hôn chỉ hợp
pháp khi có sự đồng ý của những người này (Điều 148, 149 Bộ luật dân sự của
Pháp; Điều 2 Chương 2 phần II Luật hôn nhân Thụy điển năm 1987; Luật hôn
nhân Australia năm 1961…). Tự nguyện trong pháp luật phương tây còn đồng
nghĩa với tự do thoả thuận, thông qua việc thừa nhận chế độ tài sản ước định trong
quan hệ vợ chồng, khi các bên không thoả thuận được pháp luật mới áp dụng chế
độ tài sản pháp định.
Ở Việt Nam coi yếu tố tự nguyện trong hôn nhân là một trong các nguyên
tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình của Việt
Nam). Tuy nhiên, họ lại xác định tự nguyện trong hôn nhân là tự nguyện xuất phát

từ tình cảm giữa nam và nữ, vậy nên họ không thừa nhận chế độ đại diện trong kết
hôn, mà việc kết hôn phải do chính các bên nam, nữ quyết định. Mặt khác, mục
đích của hôn nhân là xây dựng gia đình, chứ không vì mục đích tạo lập, thay đổi,
chấm dứt nghĩa vụ dân sự, đồng thời để tránh những trường hợp hôn nhân dựa trên
sự tính toán kinh tế, không thừa nhận chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ và
chồng, mà chỉ thừa nhận chế độ tài sản pháp định dựa trên nguyên tắc bình đẳng
giữa vợ và chồng
Thứ ba: Tính bền vững (tính chất suốt đời) của hôn nhân.
12


Tính bền vững của hôn nhân được các nhà làm luật đưa ra xuất phát từ
những căn nguyên khác nhau: có thể do yếu tố tôn giáo (Đạo cơ đốc coi hôn nhân
là một thiết chế bất biến gắn liền với suốt cuộc đời con người, tính bất biến hôn
nhân theo quan niệm tôn giáo có thể hiểu theo hai nghĩa: hôn nhân không thể chấm
dứt bằng ly hôn, do đó cấm ly hôn (quan điểm này hiện nay rất ít nước áp dụng) và
hôn nhân có tính bền vững nhưng vẫn có thể chấm dứt bằng ly hôn (đây là quan
điểm phổ biến hiện nay).
Tính bền vững của hôn nhân cũng có thể xuất phát từ đạo đức truyền thống
và văn hoá của người phương đông coi trọng tình nghĩa vợ chồng và yếu tố bền
vững trong hôn nhân và gia đình.
Tính bền vững của hôn nhân cũng được đặt ra xuất phát từ các vấn đề của
nền kinh tế – xã hội tư bản (nền kinh tế thị trường, sự đề cao chế độ tư hữu và tự
do cá nhân…) đã và đang đẩy hôn nhân trong xã hội tư sản rơi vào tình trạng
khủng hoảng (hôn nhân bền vững được thay thế bằng “hôn nhân thử”, tình trạng ly
hôn tràn lan…). Tình hình đó, đã yêu cầu các nhà làm luật (đặc biệt, ơ các nước
phương tây) phải quan tâm và đề cao hơn nữa tính bền vững của hôn nhân.
Quan niệm phổ biến nhất ơ Việt Nam là do hôn nhân được xây dựng trên
yếu tố tình cảm giữa các chủ thể và hôn nhân có mục đích là xây dựng gia đình
(gia đình thường bắt đầu từ hôn nhân, từ quan hệ vợ chồng về tình cảm mà phát

sinh các quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa anh, chị, em…) đó là những
điều kiện đảm bảo cho sự liên kết hạnh phúc, bền vững trong hôn nhân, hôn nhân
có bền vững thì gia đình và xã hội mới ổn định và phát triển.
Luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam luôn coi trọng tính bền vững của
hôn nhân, vì truyền thống gia đình Việt Nam và xuất phát từ vai trò hôn nhân là cơ
sơ: xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Thứ tư: Tính chất một vợ một chồng
Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc biệt sự bình quyền giữa nam và nữ), sự
khẳng định cá nhân con người ngày càng lớn, đạo đức mới của con người không
những phủ nhận kiểu hôn nhân một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như

13


trước, mà đòi hỏi tình yêu nam, nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung
một vợ, một chồng.
Vậy nên, hiện nay chế độ một vợ một chồng đã được ghi nhận trong hầu hết
pháp luật hôn nhân và gia đình của các nước (trừ một số nước ơ Châu Phi, Trung
cận đông, Trung á do ảnh hương của yếu tố tôn giáo và phong tục, tập quán vẫn
thừa nhận chế độ đa thê trong pháp luật). Luật hôn nhân gia đình của Việt Nam coi
một vợ, một chồng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia
đình và là một trong các điều kiện để thừa nhận việc kết hôn hợp pháp.
Thứ năm, Hôn nhân chỉ tồn tại giữa những người khác nhau về giới tính.
Thực chất và ý nghĩa của hôn nhân là mục đích xây dựng gia đình, thể hiện
trong việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu
cầu vật chất và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, hôn nhân là sự liên kết
giữa những người khác giới tính là một đặc điểm vừa mang tính tự nhiên vừa mang
tính xã hội. Để bảo đảm mục đích của hôn nhân được thực hiện; đồng thời, để bảo
vệ yếu tố đạo đức truyền thống và tính tự nhiên trong hôn nhân, pháp luật của đa
số các nước trên thế giới đều không công nhận kết hôn giữa những người đồng giới

tính trong đó có Việt Nam.
Thứ sáu: Tính chịu sự qui định của pháp luật
Với vị trí là một thiết chế xã hội, hôn nhân có vai trò là cơ sơ xây dựng gia
đình – tế bào của xã hội. Điều đó không chỉ có ý nghĩa riêng tư mà còn có ý nghĩa
xã hội. Bơi vì, trên cơ sơ phát sinh quan hệ vợ chồng, các quan hệ thân thuộc trong
gia đình (quan hệ trực hệ và quan hệ giữa những người có họ hàng khác) và các
quan hệ thích thuộc (quan hệ giữa một bên vợ hoặc chồng với những người trong
họ nhà vợ hay trong họ nhà chồng) được thiết lập và làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ đạo đức, pháp lý giữa các chủ thể trong gia đình. Việc phát sinh tồn tại và
chấm dứt hôn nhân đều có những ảnh hương tích cực hoặc tiêu cực đến các quan
hệ gia đình (trong nhiều trường hợp hôn nhân có ảnh hương mang tính chất quyết
định). Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: “Nếu hôn nhân không phải là cơ sở
của gia đình thì nó sẽ không phải là đối tượng của lập pháp“. Vì vậy, cũng như các
thiết chế xã hội khác hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật hôn
14


nhân và gia đình của các nước đều có các qui định chặt chẽ về kết hôn, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt hôn nhân. Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2014
qui định vấn đề kết hôn bao gồm điều kiện kết hôn, ghi thức kết hôn, huỷ kết hôn
trái pháp luật; qui định các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng và chấm dứt hôn
nhân...
Ngoài những đặc điểm trên, có quan điểm cho rằng hôn nhân còn có đặc
điểm bình đẳng. Ở Việt Nam, bình đẳng có thể được coi là đặc điểm của hôn nhân
xã hội chủ nghĩa. Bơi vì, các quy định của pháp luật (Luật Bình đẳng giới, ...) xác
định vợ chồng bình đẳng là một trong các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội và là một
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, nội dung bình đẳng do pháp
luật qui định trên cả quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng.
Tóm lại, căn cứ vào các qui định về hôn nhân trong Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2014, chúng ta có thể hiểu hôn nhân theo quy định của pháp

luật: Là sự liên kết tự nguyện, bình đẳng, theo qui định pháp luật giữa một người
đàn ông và một người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư cách là vợ chồng,
vì mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
2.2.2. Hôn nhân đồng giới: Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính. (Điều 8 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014).
Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học.
Hôn nhân đồng giới có khi còn được gọi là "hôn nhân bình đẳng" hay "bình đẳng
hôn nhân", thuật ngữ này sử dụng phổ biết nhất từ những người ủng hộ. Việc hợp
pháp hoá hôn nhân đồng giới còn được mô tả bằng thuật ngữ "định nghĩa lại hôn
nhân" từ các trường phái có quan điểm đối lập.
Ở Việt Nam, hôn nhân đồng giới là vấn đề còn tồn tại tranh cãi gay gất giữa
những người ủng hộ và không ủng hộ. Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới
cho rằng việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới là để đảm bảo nhân quyền (quyền
con người), đảm bảo sự bình đẳng và quyền lợi giữa những người thuộc các thiên
hướng tình dục khác nhau trong xã hội; các cặp đôi đồng tính thiết lập mối quan hệ
bền vững tương đương các cặp đôi khác giới trên tất cả các góc độ tâm lý; sự phân
15


công vai trò giữa các thành viên ơ những gia đình đồng tính công bằng hơn; thể
chất và tâm lý của con người được tăng cường tốt bơi hôn nhân hợp pháp đồng
thời xã hội sẽ được hương nhiều lợi ích từ việc công nhận hôn nhân đồng giới, loại
bỏ được kỳ thị và phân biệt đối xử.
Ngược lại, những người khác phản đối hôn nhân đồng giới vì họ cho rằng
kiểu gia đình này có những khiếm khuyết (trẻ em được nuôi bơi cặp đồng tính sẽ
dễ gặp tổn thương tâm lý và lệch lạc hành vi, hôn nhân đồng tính thường không
bền vững, không có khả năng duy trì nòi giống, làm sụt giảm giá trị của hôn nhân
trong văn hóa xã hội, thúc đẩy tình trạng làm cha/mẹ đơn thân...), do vậy nếu chấp
thuận và để hôn nhân đồng tính nhân rộng thì sẽ gây tác hại cho xã hội và trẻ em.

Theo những người phản đối, hôn nhân đồng tính không thể coi là một vấn đề về
nhân quyền, mà vấn đề chính là ơ những tác động tiêu cực lâu dài của nó với xã
hội và trẻ em. Để đảm bảo xã hội và trẻ em phát triển lành mạnh thì Chính phủ
không nên công nhận dạng hôn nhân này.
Ở một số nước trên thế giới: Hôn nhân đồng giới có thể được thực hiện một
cách đơn giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín ngưỡng trên thế
giới đã cho phép hai người cùng giới kết hôn hoặc thực hiện hôn lễ cùng giới, ví dụ
như: Phật giáo ơ Đài Loan, Úc, Nhà thờ ơ Thụy Điển, Giáo hội Presbyterian, Do
Thái giáo bảo thủ, Giáo hội Thống Nhất Canada...Trước khi công nhận hôn nhân
đồng giới, nhiều nước đã có luật cho các cặp đồng tính đăng ký sống chung gọi là
kết hợp dân sự, quy định quyền lợi và bổn phận của họ như Đan mạch từ năm
1989, Na Uy năm 1993.
Hiện tại, đã có 23 quốc gia chính thức công nhận hôn nhân đồng giới, quốc
gia gần đây nhất hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới là Colombia vào tháng 04 năm
2016.
Tìm hiểu sự phân công vai trò, sự gắn kết các thành viên trong gia đình đồng
tính: Cục thống kê Úc đã tiến hành một cuộc điều tra, kết quả thống kê cho thấy
gia đình đồng tính có nhiều ưu điểm vượt trội hơn:

16




59% các cặp đồng tính nữ và 57% đôi đồng tính nam biết chia sẻ các

công việc chung của gia đình trong khi chỉ có 38% các cặp vợ chồng dị tính làm
được điều này.



Hơn 50% các cặp đồng tính có bằng cử nhân và đang làm việc với

những chức vụ khá cao như quản lý hoặc chuyên gia trong một số lĩnh vực. Con số
này ơ những cặp đôi dị tính là 40%.


Về thu nhập, có khoảng 50% các cặp đồng tính ơ Úc kiếm được hơn

1.000 USD trong một tuần.


Có khoảng 33.700 các cặp vợ chồng đồng tính và 6.300 đứa trẻ đang

được nuôi dưỡng trong những gia đình này. 7
Một nhóm nhà nghiên cứu của Úc đã tiến hành khảo sát 500 trẻ em của 315
cặp đôi phụ huynh đồng tính và phát hiện số điểm của họ cao hơn 6% so với gia
đình dị tính, trẻ em được nuôi nấng bơi các đôi đồng tính được đánh giá cao hơn về
mặt sức khỏe nói chung lẫn sự gắn kết gia đình. Trương nhóm nghiên cứu này đã
lý giải: "Có vẻ như mối quan hệ giữa phụ huynh và con cái trong các gia đình
đồng tính thường rất tốt cho nên đã tạo ra những tác động tích cực đối với sức
khỏe trẻ em. Cuộc nghiên cứu trước đây cũng cho thấy: Nếu so với các gia đình dị
tính thì vai trò của phụ huynh trong những gia đình đồng tính thường bình đẳng
hơn. Mỗi người sẽ đảm nhận vai trò phù hợp với kỹ năng của mình chứ không phải
rơi vào những định kiến về giới. Ví dụ như mẹ là phải ở nhà và chăm sóc trẻ em
trong khi cha đi ra ngoài kiếm tiền. Điều này dẫn đến một đơn vị gia đình hài hòa
và kéo theo sức khỏe tốt và hạnh phúc hơn".
Hay, trong một nghiên cứu năm 2014, Đại học Mơ của Anh đã khảo sát
5.000 người để tìm hiểu về tình hình sống chung của các cặp đôi hiện đại và
phương thức giữ gìn mối quan hệ. Theo đó, các cặp đôi đồng tính hầu hết đều có
mối quan hệ tình cảm hạnh phúc hơn các cặp đôi dị tính.

Ngày 21/11/2013, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Quốc hội
Việt Nam cần sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình để bảo đảm cho các cặp đồng
tính cũng được hương đầy đủ tất cả các quyền như mọi cặp vợ chồng khác, trong
7 Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng, cộng tác nghiên cứu giữa Viện nghiên cứu
Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí Tuyên truyền, NXB. Thế Giới, 2011.

17


đó có quyền kết hôn, thủ tục đăng ký và được pháp luật bảo hộ đầy đủ về tài sản và
con cái.
Tổ chức Phụ nữ Liên Hợp Quốc cũng có quan điểm: Việt Nam cũng có
nhiều tiến bộ trong lĩnh vực chính sách và lập pháp. Các khái niệm về bình đẳng,
tự do và không phân biệt đối xử được bảo đảm trong bản Hiến pháp sửa đổi...
Trong quá trình xem xét sửa đổi luật hôn nhân và gia đình hiện nay, dường như
việc cấm hôn nhân đồng giới sẽ được bãi bỏ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn mong muốn
bộ luật này đi xa hơn nữa để bảo đảm quyền của các cặp đôi đồng giới được tương
tự như các cuộc hôn nhân khác."
Theo kết quả điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng
giới" được (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội,
Kinh tế và Môi trường công bố ngày 26 tháng 03 năm 2014, khảo sát tại 8 tỉnh,
thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk,
TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân, có tới 90%
người dân biết về đồng tính và việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng
giới tính (62%). Một tỷ lệ lớn (30%) người dân có quen ai đó là người đồng tính
(họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm…), 33,7% ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn
nhân cùng giới, số còn lại không đồng ý. Về việc công nhận quyền sống chung như
vợ chồng giữa những người cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2%. Hình thức
sống chung cùng giới nên được hợp pháp hóa theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc
"đăng ký sống chung như vợ chồng". Ngày 1 tháng 1 năm 2015, một chỉnh sửa

mới từ luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực, trong đó quy định sẽ không
cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, coi như hủy bỏ luật cấm năm 2000.
Tuy nhiên, theo Điều 8 về "Điều kiện kết hôn" có ghi "Nhà nước không thừa nhận
hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Như vậy, những người đồng giới tính
vẫn có thể chung sống, nhưng sẽ không được pháp luật giải quyết nếu có tranh
chấp xảy ra khi chung sống.
Hôn nhân đồng giới tiếp tục còn đang gây tranh cãi, nhất là thời gian vừa
qua liên tiếp có những đám cưới đồng tính được tổ chức. Ở thời điểm này, khi dư

18


luận xã hội tương đối “mơ” với hôn nhân đồng tính thì rào cản pháp lý có nên tháo
bỏ?
2.3. Một số thay đổi trong Hôn nhân
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời: những biến đổi trong nội dung của các quy luật
hôn nhân và cách thực hiện chúng, thể hiện trong các biến đổi về tiêu chuẩn lựa
chọn bạn đời.
Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời ơ Việt Nam hiện nay đang có những thay đổi,
những biến chuyển mới so với ngày trước:
Tiêu chí lựa chọn và quyết định hôn nhân ơ Việt Nam truyền thống dựa trên
các tiêu chí như: sự tương đồng giữa hai gia đình về địa vị xã hội, điều kiện kinh
tế, giai cấp xã hội. Đây là những tiêu chí mà hôn nhân ơ Việt Nam truyền thống
hay lựa chọn nhất, ngoài ra còn có các tiêu chí khác như tuổi tác, trình độ học vấn,
nơi cư trú, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.Hôn nhân giữa những người có cùng đặc
điểm xã hội và văn hóa cho phép sự chuyển tiếp ổn định và sự an toàn về địa vị xã
hội nghề nghiệp, tài sản từ bố mẹ sang con cái và các thế hệ tương lai.
Tiêu chí lựa chọn hôn nhân ơ Việt Nam hiện nay: dựa vào khoảng cách địa
lí, lối sống, tôn giáo, văn hóa, điều kiện gia đình hai bên. Nhưng chủ yếu dựa vào

tính cách và quan niệm sống của hai bên hợp nhau hay không.
Quyết định hôn nhân: những biến đổi trong hình thức lựa chọn và quyết
định, thể hiện trong sự thay đổi vai trò của những người tham gia vào quá trình này
mà chủ yếu là sự chuyển đổi vị trí chủ đạo giữa gia đình và cá nhân.
Có hai hình thức lựa chọn bạn đời chủ yếu là hôn nhân sắp đặt và hôn nhân
tự do. Có thể phân chia cụ thể hơn thành bốn nhóm : 1. Hôn nhân được sắp đặt bơi
cha mẹ và gia đình, 2. Tự do lựa chọn và được sự đồng ý của cha mẹ, 3. Tự do lựa
chọn không cần sự chuẩn y của cha mẹ, 4. Hôn nhân sắp đặt và tự do lựa chọn
cùng song song tồn tại.
Hôn nhân ơ Việt Nam truyền thống chủ yếu do cha mẹ, họ hàng quyết định,
cha mẹ thường sắp đặt hôn nhân từ khi con cái chưa sinh ra nhằm liên kết sức
mạnh giữa hai gia đình.
19


Sự can thiệp của các bậc cha mẹ vào việc hôn nhân của con cái được luật
pháp phong kiến thừa nhận và ủng hộ, từ Luật Hồng Đức ơ thế kỷ XV, Luật Gia
Long ơ thế kỷ XIX, cho đến các bộ luật Dân sự thời kỳ thuộc Pháp trước năm
1945.
Các đạo luật này cố gắng duy trì những phong tục lạc hậu trong hôn nhân và
gia đình như: quyền gia trương tuyệt đối của người cha và sự lệ thuộc về mọi mặt
của con cái vào cha mẹ; thừa nhận chế độ đa thê; duy trì sự bất bình đẳng nam nữ,
giữa vợ và chồng, phân biệt đối xử giữa con trai với con gái. Theo bộ luật Gia
Long, cuộc hôn nhân của đôi nam nữ là một khế ước hợp pháp giữa người chủ gia
đình nhà trai và chủ gia đình nhà gái. Những người chủ của hai gia đình có trách
nhiệm ký vào khế ước này. Chữ ký của bản thân đôi nam nữ là không cần thiết (Vũ
Văn Mẫu, 1962).
Tình yêu lứa đôi không được coi trọng trong các cuộc hôn nhân truyền
thống. Các bậc cha mẹ tin rằng bằng sự khôn ngoan và kinh nghiệm, họ có thể đạt
được cuộc hôn nhân “hợp ý” cho con cái họ. Họ lo ngại rằng nếu để cho con cái tự

lựa chọn thì chúng có thể bị tình yêu mù quáng dẫn dắt và vì thế mà bỏ qua những
sự không tương hợp cá nhân có thể gây ra mâu thuẫn gia đình sau này (Nguyễn
Hữu Minh, 1999; Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch và các cơ quan khác, 2008).
Chính vì thế, mà việc con cái quyết định hôn nhân của mình là điều rất khó.
Nhưng hiện nay, hôn nhân ơ Việt Nam hiện nay có những biến đổi mới: Con
cái có quyền quyết định trong hôn nhân của mình, có quyền lựa chọn bạn đời người chung sống suốt đời với họ.
2.3.2.Thay đổi về độ tuổi kết hôn
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2000, nam từ 20 tuổi trơ lên,
nữ từ 18 tuổi trơ lên thì được đăng ký kết hôn. Tức là nam bước sang tuổi 20, nữ
bước sang tuổi 18 thì được phép kết hôn. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, khi Luật
hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành, nam bước sang tuổi 20, nữ bước
sang tuổi 18 mà kết hôn là vi phạm, theo quy định của Luật mới nam giới phải đủ
20 tuổi và nữ giới đủ 18 tuổi.

20


Thực tế hiện nay, do tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường, sự
hội nhập, giao thoa văn hóa quốc tế…khiến cho một bộ phận giới trẻ quan niệm về
việc kết hôn khác với thời kỳ trước.
Cả nam và nữ ơ thời kỳ trước, với tư tương“trai lớn dựng vợ gái lớn gả
chồng”đến tuổi 18 -20 chưa xây dựng gia đình được coi là bị“ế. Thậm chí còn kết
hôn sớm hơn so với độ tuổi quy định (đó là lý do nạn tảo hôn xuất hiện nhiều ơ
thời kỳ trước). Nhưng hiện nay, do bận rộn, mải mê kiếm tiền, theo đuổi sự nghiệp
… mà một bộ phận thanh niên không muốn xây dựng gia đình sớm. Lứa tuổi 18 20 là quá sớm để họ xây dựng gia đình.
Quan niệm xưa, “an cư mới lập nghiệp” thì ngày nay nhiều bạn trẻ quan
niệm rằng lập nghiệp rồi mới xây dựng gia đình ổn định cuộc sống.
2.3.3. Ly thân và ly hôn
Khi ly hôn xảy ra, trong mối quan hệ gia đình, người chịu thiệt thòi nhất là
người phụ nữ.

Trong hôn nhân truyền thống, việc ly thân và ly hôn là việc hệ trọng, và
thường người phụ nữ không có nhiều quyền hạn để quyết đinh. Do ảnh hương của
tư tương nho giáo, người phụ nữ luôn luôn là người chịu thiệt thòi trong gia đình.
Quyền hành nằm tất trong tay người đàn ông. Nhiều người phụ nữ sống cam chịu,
có tình trạng bị bạo lực, hành hạ nhưng vẫn không gián ly thân và ly hôn vì sợ điều
tiếng, không giám vượt qua lễ giáo để giải phóng bản thân.
Còn hôn nhân thời hiện đại, xã hội không quá quan trọng việc người phụ nữ
có đã ly dị, đã ly hôn hay chưa. Với cuộc sống hiện đại, sống gấp, sống vội. Yêu
nhanh – cưới nhanh và ly hôn cũng nhanh. Tư tương người phụ nữ được giải
phóng, xã hội đã bình đẳng hơn, khoan dung hơn với những người phụ nữ ly dị
chồng. Nhưng điều này cũng gây ra một hệ lụy, sự liên kết gia đình lỏng lẽo, dễ bị
tan vỡ.

21


Tóm tắt sự biến đổi hôn nhân gia đình từ truyền thống đến hiện đại

STT

Tiêu chí

1

Hôn nhân được công
nhận

Hôn nhân trong gia đình truyền
thống
Một nam một nữ


3

Các mối quan hệ
trong gia đình

Thế hệ

- Cha mẹ quyết định việc hôn
nhân (cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy)
- Việc kết hôn hoặc ly hôn chỉ
thông qua gia đình, họ tộc và lệ
làng. Chế độ hôn nhân bị ràng
buộc nặng nề bơi lệ làng và dư
luận xã hội
Có nhiều thế hệ chung sống (3-4
thế hệ)
- Mong có đông con nhiều cháu

4

Mục đích

5

Quan niệm

Một nam một nữ, nam
với nam, nữ với nữ (hôn

nhân đồng giới)

- Dựa trên quan hệ hôn nhân và
pháp luật

2

Hôn nhân trong gia
đình hiện đại

- Có thể chung sống
không cần cưới hỏi và
pháp luật quy định
- Chủ thể được chủ
động tìm hiểu đối
tượng và có quyền tự
ra quyết định khi muốn
tiến tới hôn nhân
- Chế độ hôn nhân đã
được pháp lý hóa và
thể chế hóa
1-2 thế hệ chung sống
- Xu hướng ít con, từ 1
đến 2 con

- Việc sinh con là một trách nhiệm
lớn lao, là sự báo hiếu đối với cha - Không có con cũng
mẹ, dòng họ tổ tiên và để bảo tồn không sao
nòi giống
- Điều chỉnh mối quan

- Tư tương nho giáo, trọng nam
hệ trong gia đình bình
khinh nữ
đẳng hơn
- Trinh tiết của người phụ nữ là
quan trọng. Người phụ nữ sẽ bị
trừng phạt nếu vi phạm quan niệm
này: cạo trọc đầu bôi vôi hay bỏ
rọ trôi sông

22

- Quan niệm này
không còn khắt khe
nữa. Chứng minh cho
điều này là xuất hiện
trào lưu “sống thử” của
một bộ phận thanh
niên. Họ sống với nhau
như vợ chồng, và họ
có thể chấm dứt nếu


không thấy hợp
6

Người quyết định
trong nhà

Người chồng quyết định tất cả

mọi công việc trong gia đình hoặc
những người cao tuổi

Các thành viên trong
gia đình quan hệ bình
đẳng, tồn tại độc lập

7

Quốc tịch

Nam, nữ đại số có quốc tịch Việt
Nam

Nam, nữ có quốc tịch
Việt Nam hoặc nước
ngoài (được pháp luật
công nhận)

8

Kết cấu

Kết cấu gia đình chặt chẽ

Kết cấu gia đình lỏng
lẻo, dễ ly hôn tan vỡ..

Nghi lễ cưới hỏi trong xã hội
truyền thống có phần rườm rà,

nhiều thủ tục hơn. Các thủ tục xưa
thường bao gồm:

9

Nghi thức cưới hỏi

- Mai mối để đôi bạn trẻ tìm hiểu
nhau
- Lễ cheo: lễ này có thể tiến hành
trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới
một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải
có lễ vật hoặc tiền bạc đem đến
cho làng hoặc xóm của cô dâu để
cộng đồng làng xóm tiếp nhận
thành viên mới.
- Chạm ngõ
- Ăn hỏi
- Báo hỷ, chia trầu cau
- Nạp tài: nhà trai đem sinh lễ
gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn,
quần áo, đồ trang sức sang nhà
gái. Lễ này có ý nghĩa nhà trai
góp chi phí cỗ bàn và cho nhà gái
biết họ đã chuẩn bị sẵn sàng mọi
thứ cho cô dâu mới về nhà chồng.
- Xin dâu
- Đón dâu
- Lại mặt: chú rể đem lễ vật về lễ
tổ tiên ơ nhà gái.

Trang phục cô dâu chú rẻ áo the
khăn xếp, áo dài truyền thống
23

Một số tục lệ trong
đám cưới xưa đã được
lược bớt để phù hợp
với đời sống hiện đại.
Hiện nay chỉ còn giữ
lại 5 lễ chính là dạm
ngõ, ăn hỏi, xin dâu,
đón dâu, lại mặt. Lễ
cưới sẽ được tổ chức
tại nhà của cô dâu, chú
rể hoặc tại các nhà
hàng. Nếu tổ chức tại
nhà hàng, cô dâu chú
rể sẽ có các nghi lễ
như rót rượu mời bố
mẹ, cắt bánh cưới, trao
nhẫn và mời khách
dùng tiệc.
- Trang phục cô dâu
chú rể được âu hóa


Đám cưới hiện đại của người Việt Nam đã có nhiều thay đổi song vẫn giữ nhiều nét văn hóa
truyền thống. Một số biểu tượng từ xưa vẫn được coi trọng như trầu cau, chữ hỷ và màu đỏ
hạnh phúc.Các nghi lễ gia tiên cũng được lưu giữ như việc chuẩn bị mâm ngũ quả bày trên
bàn thờ, thắp hương báo cáo tổ tiên, lễ lên đèn (phổ biến trong miền Nam).

Hiện nay, việc tổ chức được một đám cưới vừa gọn nhẹ, phù hợp với cuộc sống hiện đại, vừa
giữ được những nét đẹp trong văn hóa truyền thống Việt là điều mà nhiều đôi uyên ương chú
trọng. Bơi khách mời trong đám cưới vẫn có nhiều vị cao tuổi, quen nếp sống cũ, bên cạnh đó
cũng có những vị khách trẻ tuổi mang phong cách hiện đại nên việc dung hòa giữa phong tục
truyền thống và các nét văn hóa phương Tây sẽ khiến đám cưới thêm vui vẻ, trọn vẹn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hôn nhân và Gia đình, Số 52/2014/QH13.
2. Tổng Điều tra dân số và Nhà ơ Việt Nam năm 2014.
3. Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2014.
4. Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964.
5. Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972
6. Dictionary of law – Third edition. Petter collin publishing. 2000.

7. Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng,
cộng tác nghiên cứu giữa Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE)
và Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí Tuyên truyền, NXB. Thế Giới, 2011.

8. Điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới" được (Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi
trường công bố ngày 26 tháng 03 năm 2014.
9. Hồ Ngọc Đại. Tam giác gia đình. Tạp chí Xã hội học. Số 3.1990, trang 4
10. Nguyễn Thị Nguyệt, "Biến đổi trong quan niệm về hôn nhân và gia đình của
người Việt ở khu tái định cư huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh", tạp chí Nghiên cứu văn
hóa, số 5, tháng 9 năm 2013.
11. Nguyễn Văn Bốn, "Những biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống trong
gia đình người Việt hiện nay", In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Thực
tại và tương lai của gia đình trong thế giới hội nhập (Reality and future of family in
the integrated world), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2012. tr.450 - 458.
24



12. Một tổ hợp đẹp, xinh xắn, cân đối và mạnh mẽ. Những nghiên cứu Xã hội
học về gia đình Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1996.
13. Leonard & Elias. Berkely. Family law Dictionary. Cali. Nolo 1990.
14. P. M . Promley. Family law. 5th edition. London Butterworth. 1976. Tr 15.
15. Phạm Việt Tùng, "Sự biến đổi gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học",
tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 319, tháng 1 năm 2011.
16. Thân Minh Quế - Hiệu trương trường chính trị tỉnh Bắc Giang, “Vấn đề
giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay”, đăng trên trang thông tin điện tử Trường chính trị tỉnh Bắc
Giang, ngày 03/01/2017.
17. Trang Anh, “Bữa cơm gia đình xưa và nay”, Bài đăng trên Cổng thông tin
điện tử Sơ văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội, ngày 01/08/2016
18. Trịnh Duy Luân chủ biên, "Phát triển Xã hội ở Việt Nam. Một tổng quan xã
hội học năm 2000". Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
19. Trịnh Hòa Bình, "Về sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện
đại", Tạp chí Bắc Việt luật, ngày 5 tháng 2 năm 2011.
20. Các trang web: Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 2.4.2007

25


×