Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

4 tiểu luận lớp bồi dưỡng QLNN chương trình chuyên viên và chuyên viên chính (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.97 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU
..................................................................................................
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG ...............................................................
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống ................................................
1.2. Mô tả tình huống .......................................................................
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG ...........................................................
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống ..................................................
2.2. Cơ sở lý luận .............................................................................
2.3. Phân tích diễn biến tình huống .................................................
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống ...............................................
2.5. Hậu quả của tình huống ............................................................
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG ...................................................................
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống ........................................................
3.2. Giải pháp xử lý tình huống .......................................................
3.3. Lựa chọn giải pháp xử lý tình huống .......................................
IV. KIẾN NGHỊ .....................................................................................
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước ................................................
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng ............................................
V. KẾT LUẬN .......................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

4
4
4
5


5
5
5
17
17
17
17
18
18
19
19
19
20


MỞ ĐẦU
Thời gian qua đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính luôn là một yêu cầu bức
xúc . Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các địa phương
kịp thời ban hành các quy định về cấp giấy phép xây dựng, quản lý trật tự xây dựng
đô thị và xây dựng công trình trên đất nông nghiệp theo hướng phân cấp mạnh cho
cơ sở; công khai và đơn giản hóa các thủ tục cấp phép xây dựng; quy định cụ thể
thời hạn cấp giấy phép; trách nhiệm của các chủ quản, cá nhân trực tiếp thực hiện
công việc cấp giấy phép cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trật tự xây dựng; một số địa phương đã triển khai cấp giấy phép xây dựng
tạm và giấy phép xây dựng nhà ở nông thôn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh... Nhờ đó, công tác cấp giấy phép xây dựng đã được đẩy mạnh, thủ tục
nhanh gọn, thuận tiện hơn cho người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cấp giấy phép xây
dựng và quản lý trật tự xây dựng vẫn còn tồn tại những nhược điểm, một số địa
phương đã tự đặt thêm các thủ tục ngoài quy định; triển khai công tác cấp giấy

phép xây dựng chậm trễ, việc kiểm tra thực hiện xây dựng theo giấy phép và quản
lý trật tự xây dựng còn bị buông lỏng, xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm minh; tình
trạng xây dựng trái phép, không phép vẫn còn diễn ra và có chiều hướng gia tăng
cả về số lượng và quy mô xây dựng. Trong hàng loạt các vi phạm tại lĩnh vực này
thì phổ biến nhất là các vi phạm của người dân trong xin phép xây dựng và việc
thực hiện các thủ tục cấp phép xây dựng của cơ quan chức năng. Tình trạng diễn ra
thường xuyên là người dân khiếu nại lên cơ quan Nhà nước xin phép xây dựng, còn
cán bộ công chức làm công việc này thì vướng vào nhiều thủ tục pháp lý có liên
quan mà không thể giải quyết nhanh chóng các yêu cầu của người dân. Do tâm lý
truyền thống trong xây dựng và nhiều yếu tố khách quan khác mà người dân
thường bỏ qua các thủ tục pháp lý cần thiết hoặc cố tình vi phạm, gây ảnh hưởng
đến cảnh quan, môi trường đô thị, thậm chí đã xảy ra các sự cố nghiêm trọng, các
tranh chấp, xích mích trong nhân dân, gây thiệt hại về người và của, gây bức xúc
trong dư luận xã hội. Để tránh những tình trạng đáng tiếc này, đồng thời bảo đảm
2


an toàn, giữ gìn bộ mặt xã hội, hạn chế xích mích trong cộng đồng việc nâng cao
hiệu quả thực hiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực xây dựng nhà ở của nhân dân
hiện nay cần được các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng quan tâm và giải
quyết thấu đáo.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1 Hoàn cảnh ra đời của tình huống
Bà Nguyễn Ngọc Bích sinh ngày 12 tháng 10 năm 1955, trú tại số nhà 35, ngo
215 đường Lê Thái Tông, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội có
căn nhà cấp 4 diện tích 70m2 nằm trên thửa đất có diện tích 150m 2 . Do xây dựng
đã lâu, căn nhà xuống cấp, dột khắp nơi mỗi khi trời mưa, nay bà muốn phá đi để
xây mới một căn nhà 3 tầng có diện tích mỗi tầng là 60 m 2/150 m2 diện tích đất còn
lại bà để làm sân vườn.
1.2. Mô tả tình huống

Căn nhà và đất này do cha mẹ của bà để lại và bà Nguyễn Ngọc Bích là người
được thừa kế hợp pháp, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, do chiến tranh biên giới
Việt Nam – Trung Quốc vào năm 1979 – 1980 bà cùng gia đình phải đi sơ tán, đến
năm 1981 khi gia đình bà về thì mọi thứ đã bị đảo lộn, giấy tờ thất lạc nhiều trong
đó có cả giấy tờ chứng minh nguồn gốc nhà đất là của bố mẹ bà. Bà đã nhiều lần
làm đơn xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và đất ở mới nhưng đến
nay vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Tháng 6 năm 2010, bà Bích làm đơn gửi Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng
xin phép xây dựng nhà vì căn nhà bà đang ở đã cũ nát, có nguy cơ sập đổ. Tuy
nhiên, chính quyền địa phương chưa trả lời thì ngày 22 tháng 8 năm 2010, bà Bích
đã thuê người đến tháo dỡ căn nhà cũ, chuẩn bị khởi công xây lại. Ngày 30 tháng 8
năm 2010, đại diện Ủy ban nhân dân phường đã đến kiểm tra, lập biên bản về việc
xây dựng nhà không phép, phạt vi phạm hành chính 200.000 đồng theo quy định tại
Điều 7 và Điều 43 Nghị định số 126/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng
3


nhà, đồng thời yêu cầu bà Nguyễn Ngọc Bích tạm ngừng xây dựng nhà để làm đầy
đủ thủ tục về xin phép xây dựng theo quy định của pháp luật.
Bà Nguyễn Ngọc Bích một mặt vẫn chấp hành quyết định xử phạt hành chính,
những mặt khác bà vẫn tiếp tục cho xây dựng với tốc độ nhanh hơn và đến ngày 30
tháng 12 năm 2010 bà đã hoàn thành việc đổ bê tông tầng 3.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Trong trường hợp này, nguồn gốc nhà và đất ở mà gia đình bà Bích đang sử
dụng là hợp pháp vì đó là đất do cha mẹ bà để lại và bà là người thừa kế hợp pháp;
việc mất giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà đất là do nguyên nhân khách quan,
bất khả kháng. Chính nguyên nhân này làm cho bà Bích không xin được giấy phép
xây dựng vì giấy phép xây dựng chỉ cấp cho những người có giấy tờ hợp pháp theo

quy định của pháp luật qua từng thời kỳ chứng nhận người đó có quyền sử dụng
nhà ở, đất ở. Tuy nhiên, do quá bức xúc về tình trạng nhà ở dột nát, có nguy cơ sập
và do đã đi xem ngày đẹp, giờ bà Bích đã bất chấp quy định của pháp luật về quản
lý xây dựng, quyết định phá dỡ nhà cũ đang ở, xây ngôi nhà mới.
2.2. Cơ sở lý luận
Tình huống được phân tích dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về Luật xây dựng và Luật nhà ở.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Xuất phát từ việc làm của bà Bích là vi phạm pháp luật về trật tự quản lý nhà
nước trong lĩnh vực xây dựng vì theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật xây dựng
năm 2003 quy định.
Trước khi khởi công xây dựng công trình, chủ đầu tư (chủ nhà) phải có giấy
phép xây dựng, bên cạnh đó bà Bích cũng đã không thực hiện yêu cầu về tạm
ngừng xây dựng để làm thủ tục xin cấp phép xây dựng theo quy định của pháp luật
mà tiếp tục vi phạm ở mức độ trầm trọng hơn.
4


Sự thiếu công khai, chậm trễ trong hướng dẫn, giải thích khi xem xét, giải quyết
thủ tục xin phép xây dựng nhà ở của bà Nguyễn Ngọc Bích là từ phía Ủy ban nhân
dân quận Cầu Giấy, sự buông lỏng trong kiểm tra, giám sát hoạt động xây dựng tại
địa bàn là cơ hội cho sự phát sinh, phát triển vi phạm của bà.
Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Ngọc Bích của Ủy ban
nhân dân phường Dịch Vọng là không đúng với quy định pháp luật, bởi hành vi của
bà Bích vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định của Chính phủ số
23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác sản xuất, kinh doanh vật
liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công

sở (có mức phạt từ 15 triệu đến 20 triệu đồng) và theo Điều 60 của Nghị định này
thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban
nhân dân phường Dịch Vọng đã áp dụng văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực
để xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Ngọc Bích
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Nguyên nhân dẫn đến tình huống trên bắt nguồn từ các bên trong quan hệ thủ
tục xin phép xây dựng.
Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Do nhu cầu bức bách về nhà ở quá cũ, dột nát và an toàn cuộc sống
của bản thân và gia đình mà bà Bích đã bất chấp các quy định về xây dựng của Nhà
nước, thậm chí chấp nhận vi phạm và xử phạt của Ủy ban nhân dân phường để đáp
ứng bằng được nhu cầu cho bản thân và gia đình.
Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân bắt nguồn từ sự thiếu tin tưởng vào các cơ
quan có thẩm quyền của địa phương trong việc đáp ứng nhu cầu chính đáng của bà
Bích khi cơ quan có thẩm quyền không xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở và nhà ở mới.
Thứ hai: Sự thiếu trách nhiệm của chính quyền địa phương, cụ thể là Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội trong việc giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Nguyễn Ngọc Bích về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và nhà ở (trực tiếp
5


là Phòng Tài nguyên và Môi trường của Thành phố Hà Nội) và trong việc cấp giấy
phép xây dựng cho bà Bích (trực tiếp là Phòng xây dựng Thành phố Hà Nội). Các
cơ quan chức năng này đã không giải thích, không hướng dẫn cụ thể cho bà Bích,
kết hợp với vận động, thuyết phục để bà Bích chấp hành các quy định của pháp luật
mà buông lỏng quản lý, mặc cho vi phạm xảy ra, không tiến hành kiểm tra, theo doi
hoặc thông báo cho Ủy ban nhân dân phường phối hợp để kịp thời đình chỉ vi phạm
ngay khi mới nảy sinh. Điều này thể hiện tác phong quan liêu, phong cách làm việc
theo kiểu bàn giấy của các cơ quan chức năng nêu trên.

Thứ ba: Sự bất cập giữa quy định pháp luật về cấp giấy phép xây dựng và các
quy định pháp luật về nhà ở, đất đai cùng với trình độ pháp lý hạn chế của đội ngũ
cán bộ, công chức chưa nắm vững quy định pháp luật của cán bộ địa chính phường
Dịch Vọng dẫn đến các khó khăn trong việc giải quyết yêu cầu của bà Bích cũng
như áp dụng pháp luật để giải quyết không hợp lý.
Theo quy định của pháp luật về thủ tục cấp phép xây dựng, trong hồ sơ xin cấp
giấy phép xây dựng phải có bản sao giấy tờ về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng
đất bao gồm một trong các loại sau đây:
1.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp (do
Tổng cục quản lý ruộng đất trước đây hoặc Tổng cục địa chính hoặc do
Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành) kể cả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho hộ gia đình mà trong đó có ghi diện tích đo đạc tạm
thời hoặc ghi nợ tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí
trước bạ.

2.

Quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp để xây dựng công trình, kèm theo giấy
tờ xác định chủ đầu tư, chủ hộ đã thực hiện các yêu cầu nêu tại quyết định
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nêu trên. Trừ trường
hợp quyết định giao đất cho cá nhân, hộ gia đình để xây dựng nhà ở riêng
lẻ.
6


3.


Những giấy tờ được cơ quan có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất để sử
dụng vào mục đích làm nhà ở và các công trình khác, trong quá trình thực
hiện các chính sách về đất đai qua từng thời kỳ của Nhà nước ta từ chế độ
cũ tới nay mà người được giao đất, thuê đất vẫn liên tục sử dụng.

4.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ địa chính mà không có tranh chấp.

5.

Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng
đất ở mà người đó vẫn tiếp tục sử dụng cho đến nay và không có tranh
chấp gồm: bằng khoán điền thổ hoặc trích lục, trích sao bản đồ điền thổ,
bản đồ phân chiết thửa, chứng thư đoạn mãi đã được thị thực, đăng tịch
sang tên tại Văn phòng chưởng khế, Ty điền địa, Nha trước bạ.

6.

Giấy tờ về thừa kế nhà, đất phù hợp với quy định của pháp luật về thừa kế

7.

Bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết
định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước đã có hiệu lực
pháp luật.

8.


Giấy tờ chuyển nhượng đất đai, mua bán nhà ở kèm theo quyết định sử
dụng đất được Ủy nhân dân phường, xã, thị trấn kiểm tra là đất đó không
có tranh chấp và được Ủy ban nhân dân quận, huyện xác nhận kết quả
thẩm tra của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn.

9.

Giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở theo Thông tư 47/BXD-XDCBĐT ngày 5
tháng 8 năm 1989 và Thông tư số 02/BXD-ĐT ngày 29 tháng 4 năm 1992
của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện ý kiến của thường trực Hội đồng
Bộ trưởng về việc hóa nhà cấp 3, cấp 4 tại các đô thị trước ngày 15 tháng
10 năm 1993 hoặc từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 5 tháng
7 năm 1994 mà trong giá nhà đã tính đến giá đất ở của nhà ở đó.

10.

Giấy tờ hợp lệ về nhà ở đất ở theo các quy định của pháp luật.

Trong trường hợp không có các loại giấy tờ trên thì đối với nhà ở riêng lẻ nằm
trong khu dân cư hiện hữu, ổn định, sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 là
thời điểm thực hiện chính sách về đất đai của Nhà nước, phù hợp với quy hoạch
7


xây dựng là đất ở; chủ đầu tư (chủ hộ) phải cam kết chịu trách nhiệm trước pháp
luật về ranh giới thửa đất đang sử dụng không có tranh chấp, được Ủy ban nhân
dân phường, xã xác nhận.
Như vậy, gia đình bà Bích mặc dù không có giấy tờ nhà đất theo quy định
nhưng nhà và đất của ông đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993,
phù hợp với quy hoạch xây dựng đất ở của địa phương. Phòng Xây dựng của Thành

phố Hà Nội đã không hướng dẫn bà Bích làm các thủ tục để được cấp giấy phép
xây dựng mà lại cứng nhắc trong xem xét và giải quyết trường hợp của ông.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 15 Luật nhà ở năm 2005 có quy định như
sau:
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở bao gồm:
a. Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
b. Bản sao một trong các giấy tờ: giấy phép xây dựng; quyết định phê duyệt dự
án phát triển nhà ở; giấy chứng nhận đầu tư; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc một trong các loại giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật về đất đai; giấy tờ quyền sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các
thời kỳ; thỏa thuận đồng ý bằng văn bản của chủ sủ dụng đất ở đối với trường hợp
chủ sở hữu nhà ở không phải chủ sử dụng đất ở mà nhà ở được xây dựng ở các khu
vực không thuộc diện phải có giấy phép xây dựng; giấy tờ mua bán, tặng cho, đổi,
thanh lý, hóa giá nhà ở, hợp đồng thuê mua nhà ở xã hội; quyết định trao nhà tình
nghĩa, nhà tình thương; giấy tờ về thừa kế nhà ở; bản án, quyết định của Tòa án
hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực về sở hữu nhà ở; giấy tờ
xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với các trường hợp khác, trừ
trường hợp nhà ở thuộc các khu vực cấm xây dựng theo quy định của pháp luật về
xây dựng.
c. Sơ đồ nhà ở, đất ở
2. Chính phủ quy định cụ thể các loại giấy tờ về tạo lập nhà ở quy định tại Điều
này phù hợp với từng trường hợp, từng thời kỳ, từng loại nhà ở tại khu vực đô thị
và nông thôn
8


Như vậy, để được cấp giấy phép chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, trong hồ sơ đề
nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở bà Nguyễn Ngọc Bích phải có bản
sao một trong các giấy tờ là giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, sơ đồ nhà, đất ở... mà những thứ này bị mất do chiến tranh.

Chính từ việc áp dụng không đúng quy định của pháp luật trong xử phạt vi
phạm hành chính của bà Bích thể hiện yếu kém về trình độ pháp lý và thiếu trách
nhiệm trong công vụ của Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng.
2.5. Hậu quả của tình huống
Để xảy ra tình trạng trên trước hết bắt nguồn từ phía các cơ quan Nhà nước, các
quy định pháp luật về xây dựng nhà ở, đất đai, các lợi ích thiết yếu của bản thân và
gia đình của bà Bích dẫn tới hệ quả là việc làm vi phạm pháp luật về xây dựng của
bà Bích, thể hiện sự coi thường trật tự, kỷ cương Nhà nước, các quy định của địa
phương. Đồng thời, thể hiện sự thiếu chặt chẽ, lỏng lẻo và thiếu hiệu quả trong
quản lý xây dựng và các thủ tục cấp phép xây dựng, chứng nhận nhà ở, đất ở cho
người dân của các cơ quan chức năng và sự bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống thể
chế pháp lý về xây dựng, đất đai, nhà ở, đang là những trở ngại không nhỏ cho hoạt
động của các cơ quan chức năng trong đáp ứng các yêu cầu chính đáng của nhân
dân.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu xử lý tình huống là căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để
kết hợp giữa xử lý vi phạm với việc giải quyết các quyền lợi chính đáng hợp pháp
của bà Bích trong lĩnh vực xây dựng nhà ở, khắc phục hậu quả của quyết định xử
phạt vi phạm hành chính không hợp pháp của Ủy ban nhân dân phường Dịch
Vọng.
3.2. Giải pháp xử lý tình huống
Phương án 1: Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng tiến hành các thủ tục để xử
phạt vi phạm hành chính của Nguyễn Ngọc Bích lần thứ 2 theo quy định tại Nghị
định của Chính phủ số 23/2009/NĐ-CP.
9


Từ các vi phạm về điều kiện khởi công xây dựng công trình (không có giấy
phép xây dựng) bà Bích không chỉ vi phạm các quy định về thủ tục xin phép xây

dựng mà còn vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Ủy ban nhân dân
phường cần tiến hành lập biên bản về vi phạm hành chính của bà Bích (lần thứ 2)
sau đó chuyển hồ sơ đề nghị chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết
định xử phạt trong thời hạn do pháp luật quy định. Để nâng cao ý thức chấp hành
các quy định của pháp luật của bà Bích và ngăn ngừa vi phạm từ phía các cá nhân
khác trong xã hội, cần phải xử phạt nghiêm minh. Vì vậy, đây chính là ưu điểm của
phương án này. Tuy nhiên, nó có hạn chế là không giải quyết tận gốc nguyên nhân
dẫn đến vi phạm của bà Bích là do các thủ tục về cấp giấy phép xây dựng không
thể thực hiện được khi bà không đảm bảo các giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của
pháp luật. Mặt khác, quyết định xử phạt trái pháp luật của Ủy ban nhân dân phường
lần 1 thể hiện sự vi phạm về thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính chưa
được giải quyết để đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong các hoạt động Nhà nước.
Phương án 2: Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng hủy quyết định xử phạt vi
phạm hành chính lần 1 đối với bà Bích, báo cáo về vi phạm của bà với Phòng Xây
dựng và cùng phối hợp giải quyết các vấn đề vị phạm về thủ tục cấp giấy phép xây
dựng cho bà Bích.
Ưu điểm phương án này là trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành để
vừa xử lý dứt điểm vi phạm hành chính của bà Bích, việc ban hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trái pháp luật của Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng,
vừa giải quyết vấn đề vướng mắc trong thủ tục cấp phép xây dựng cho bà Bích từ
phía Phòng Xây dựng của thành phố. Điều này đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật về xây dựng, giải quyết dứt điểm nguyên nhân vi phạm, đáp ứng quyền lợi hợp
pháp của công dân về nhà ở. Đề thực hiện phương án này cần phải có sự phối hợp
giữa Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng và Phòng Xây dựng, Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở các quy định của
pháp luật về thủ tục cấp phép xây dựng và xử phạt vi phạm hành chính.
3.3. Lựa chọn giải pháp xử lý tình huống
10



Thứ nhất, Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng tuyên bố hủy quyết định xử
phạt vi phạm hành chính lần thứ nhất đối với bà Bích và ban hành quyết định
xử phạt khác.
Khi Ủy ban nhân dân phường tiến hành xử phạt vi phạm hành chính của bà Bích
thì văn bản quy phạm pháp luật là Nghị định của Chính phủ số 126/2004/NĐ-CP về
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng
đô thị và quản lý sử dụng nhà đã bị thay thế bằng Nghị định số 23/2009/NĐ-CP,
đồng thời pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã có thay đổi về thẩm
quyền, thủ t ục xử phạt theo pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều, nên quyết định
xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân phường là không hợp pháp về
nội dung, thủ tục ban hành. Vì vậy, quyết định này cần phải bỏ. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân phường là người ra quyết định phải tự tuyên bố hủy quyết định này để
làm thủ tục ban hành quyết định xử phạt khác bởi thời hiệu xử phạt vi phạm hành
chính chưa hết và chứng cứ cho vi phạm hành chính của bà Bích vẫn còn, đồng thời
thông báo cho bà Bích biết, thu hồi quyết định xử phạt cũ và giao cho bà Bích
quyết định xử phạt mới đối với hành vi vi phạm lần 1.
Thứ hai, lập biên bản về vi phạm hành chính của bà Bích và đề nghị Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định xử phạt
Sau khi có quyết định xử phạt vi phạm hành chính lần 1 của Ủy ban nhân dân
phường nhưng bà Bích vẫn vi phạm. Hành vi vi phạm này được quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 11 Nghị định của Chính phủ số 23/1009/NĐ-CP. Hình thức xử phạt
đối với hành vi này là phạt tiền từ 10 triệu đến 15 triệu đồng và bị buộc khắc phục
hậu quả và bị xử lý theo quy định tại Điều 12 Nghị định của Chính phủ số
180/2007/NĐ-CP ngày 7 tháng 12 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
Việc lập biên bản về vi phạm hành chính của bà Bích được Ủy ban nhân dân
phường thực hiện theo quy định tại Nghị định số 23/2009/NĐ-CP, đồng thời lập
biên bản ngừng thi công xây dựng công trình, yêu cầu bà Bích làm thủ tục xin cấp
giấy phép xây dựng. Nếu bà Bích không ngừng thi công thì Ủy ban nhân dân
11



phường sẽ ra quyết định đình chỉ thi công xây dựng, buộc xin cấp giấy phép xây
dựng, đồng thời áp dụng biện pháp buộc phá dỡ công trình xây dựng vi phạm trật
tự xây dựng đô thị; ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước và các dịch vụ khác liên
quan đến xây dựng công trình; cấm các loại phương tiện vận tải chuyên chở vật tư,
vật liệu, công nhân vào thi công công trình. Trong thời gian tối đa 60 ngày, kể từ
ngày có quyết định đình chỉ thi công xây dựng, chủ đầu tư là bà Bích không xuất
trình giấy phép xây dựng do cơ quan có thẩm quyền cấp thì bị cưỡng chế phá dỡ.
bà Bích sẽ phải chịu trách nhiệm về toàn bộ chi phí lập phương án phá dỡ và chi
phí tổ chức cưỡng chế phá dỡ.
Các loại văn bản trên được lập lại thành hồ sơ, chuyển đến chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội để xem xét ra quyết định xử phạt trong thời hạn do pháp luật
quy định. Do có tình tiết tăng nặng nên mức phạt tiền đối với bà Bích sẽ cao hơn
mức trung bình của khung hình phạt nhưng không quá 15 triệu đồng.
Thứ ba, Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng tích cực tham gia giải quyết
vấn đề về cấp giấy phép xây dựng cho bà Nguyễn Ngọc Bích.
Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng tích cực tham gia giải quyết vấn đề về cấp
giấy phép xây dựng cho bà Nguyễn Ngọc Bích.
Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng thông qua cán bộ làm công tác địa chính
kiêm công tác thanh tra xây dựng báo cáo với phòng xây dựng về vi phạm hành
chính của bà Bích sau đó cùng phối hợp để giải quyết vấn đề cấp Giấy phép xây
dựng cho bà.
Bà Nguyễn Ngọc Bích mặc dù không có một trong các giấy tờ về quyền sở hữu
nhà, quyền sử dụng đất nhưng thuộc nhà ở riêng lẻ trong khu dân cư hiện hữu, ổn
định, sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, phù hợp với quy hoạch xây dựng
là đất ở, nên Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng cần hướng dẫn bà làm các thủ
tục giấy tờ để cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về ranh giới thửa đất đang
sử dụng không có tranh chấp với các hộ liền kề được Ủy ban nhân dân phường
Dịch Vọng xác nhận, hướng dẫn bà đến phòng Tài nguyên và Môi trường của

Thành phố để xin cấp trích lục bản đồ địa bạ ngôi nhà và mảnh đất ngôi nhà gia
12


đình bà Bích đang ở. Sau đó làm đơn thống qua Ủy ban nhân dân phường để xác
định tình trạng nhà ở và đất ở của bà Bích trên thực tế, rồi gửi cho Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên cơ sở đó,
bà Bích làm đơn xin Ủy ban nhân dân thành phố cấp giấy phép xây dựng nhà thông
qua phòng Xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, nhằm giúp cho bà
Bích trong khoảng thời gian 60 ngày có được giấy phép xây dựng, không bị cưỡng
chế phá dỡ nhà ở, gây thiệt hại kinh tế cho gia đình bà.
Thứ tư, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội căn cứ vào các
quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Ngọc
Bích.
Theo quy định tại Điều 136 Nghị định của Chính phủ số 181/2004/NĐ-CP ngày
29 tháng 10 năm 2004 về thi hành luật đất đai, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại phường bao gồm:
1.Hộ gia đình, cá nhân nộp một bộ hồ sơ gồm có:
- Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và
5 Điều 50 của Luật đất đai như sau:
Khoản 1 Điều 50 Luật đất đai quy định
a. Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm
1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền

với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất

13


d. Giấy tờ chuyền nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở
trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nay được Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn
xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993
đ. Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp
luật
e. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng
đất.
Khoản 2 Điều 50 quy định
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại
khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tò về việc
chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước
ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác
nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Khoản 5 Điều 50 quy định
Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của tòa án
nhân dân, quyết định thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật.
- Văn bản ủy quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có)
Trường hợp của bà Bích không có các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều
50 của Luật đất đai do đã bị mất, nên chỉ cần có đơn xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.

2. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng Tài nguyên và Môi
trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác minh thực địa, lấy ý kiến xác nhận của
Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng về tình trạng tranhc hấp đối với thửa đất (nếu
có); trường hợp người đang sử dụng đất là bà Bích không có giấy tờ về quyền sử
14


dụng đất thì theo quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai thì lấy ý kiến
của Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất,
tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất đã được xét duyệt; công bố công khai trường hợp đủ điều kiện hay không đủ
điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Bích tại Văn phòng trong
thời gian 15 ngày, xem xét các ý kiến đóng góp đối với trường hợp xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Bích; làm trích lục bản đồ địa chính hoặc đo
địa chính thửa đất (nếu thửa đất của bà Bích chưa có bản đồ địa chính); gửi số liệu
địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính của bà Bích theo quy
định của pháp luật; gửi hồ sơ kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ
địa chính đến phòng Tài nguyên và Môi trường.
3. Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trình Ủy ban
nhân dân Thành phố Hà Nội quyết định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
Bích.
- Thời gian thực hiện ở bước 2 và 3 không quá 55 ngày làm việc (không kể thời
gian công bố công khai trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
bà Bích và thời gian bà thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày bà Bích nhận được giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ năm, Phòng Xây dựng hướng dẫn bà Bích hoàn thiện hồ sơ xin phép
xây dựng
Theo Điều 64 Luật Xây dựng, nội dung của Giấy phép xây dựng bao gồm:
a. Địa điểm, vị trí xây dựng công trình, tuyến xây dựng công trình;

b. Loại, cấp công trình;
c. Cốt xây dựng công trình;
d. Chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng ;
e. Bảo vệ môi trường và an toàn công trình;
f. Đối với công trình dân dụng, công trình công nghiệp trong đô thị ngoài ca cs
nội dung quy định tại các điểm a, b, c, d, e Điều này còn phải có nội dung về
15


diện tích xây dựng công trình, chiều cao từng tầng, chiều cao tối đa hoàn
công trình, màu sắc công trình;
g. Những nội dung khác quy định đối với từng loại công trình;
h. Hiệu lực của giấy phép
- Hồ sơ xin phép xây dựng của bà Bích khi đã có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bao gồm:
+ Đơn xin cấp giấy phép xây dựng theo mẫu;
+ Bản sao giấy chứng nhận quyến sử dụng đất;
+ Bản vẽ thiết kế xây dựng công trình.
Trường hợp của bà Bích dù đã tiến hành thi công nhưng vẫn cần có bản vẽ thiết
kế xây dựng công trình để phòng Xây dựng tiến hành giám sát, kiếm tra nhằm đảm
bảo công trình được xây dựng an toàn và phù hợp với các quy định về tiêu chuẩn
xây dựng và kiến trúc.
Cán bộ của Phòng Xây dựng phải hướng dẫn bà Bích các yêu cầu của một bản
vẽ thiết kế xây dựng công trình. Theo đó, bản vẽ thiết kế xây dựng công trình của
bà Bích phải xác định ro vị trí xây dựng, lộ giới, ranh giới thửa đất, cấp công trình,
tuổi thọ công trình, phải do tổ chức có đăng ký hoạt động và có đủ điều kiện năng
lực hoạt động thiết kế xây dựng công trình hoặc cá nhân có năng lực hành nghề, có
chứng chỉ hành nghề và có đăng ký hoạt động thiết kế xây dựng công trình.
Nhà của bà Bích là nhà riêng lẻ mặc dù có diện tích dưới 250 m 2 nhưng lại từ ba
tầng trở lên nên việc thiết kế phải do tổ chức, cá nhân thiết kế có đủ năng lực hoạt

động thiết kế xây dựng, hành nghề xây dựng thực hiện. Bản vê này bà Bích có thể
đã có và sử dụng vào việc thi công công trình nhưng cũng phải đảm bảo các yêu
cầu nói trên. Trường hợp bà Bích không đảm bảo các yêu cầu này thì có thể bị xử
phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định của Chính phủ số 23/2009/NĐ-CP.
Thứ sáu, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện thủ tục cấp giấy
phép xây dựng cho bà Nguyễn Ngọc Bích.
Bà Nguyễn Ngọc Bích phải nộp hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng tại Trung tâm
giao dịch một cửa của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội cho công chức tiếp nhận
16


hồ sơ; cán bộ kiểm tra hồ sơ khớp nối quy hoạch và đặt lịch khảo sát; càn bộ khảo
sát thực địa lập biên bản khảo sát; công chức thẩm định hồ sơ, soạn thảo Giấy phép
xây dựng; Ủy ban nhân dân thành phố duyệt hồ sơ, ký giấy phép xây dựng. Bà Bích
phải nộp lệ phí cấp giấy phép xây dựng và lệ phí đo đạc. Thời gian giải quyết của
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội là 15 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ của bà
Bích. bà Bích được nhận giấy phép xây dựng tại Trung tâm giao dịch một cửa theo
lịch hẹn của cán bộ tiếp nhận hồ sơ.
Trong trường hợp việc thực hiện các thủ tục nói trên quá 60 ngày, thì bà Bích
phải làm đơn xin hoãn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (có xác
nhận của Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng) gửi đến Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội để tam hoãn thị hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với mình,
đặc biệt là các biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng (buộc tháo dỡ công trình
xây dựng trái phép).

IV. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ
ĐƯỢC LỰA CHỌN
4.1. Biểu đồ công việc theo thời gian và phân công trách nhiệm
4.2. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát


V. KIẾN NGHỊ
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước
Không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản, chính sách pháp luật đối
với công tác cấp phép xây dựng sao cho phù hợp và sát với thực tế.
Chỉ đạo các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kịp thời tránh tình trạng để
sự việc diễn ra rồi mới đem sự việc ra xử lý.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
17


Để thực hiện các biện pháp nói trên, cần phối hợp của các cơ quan chức năng tại
địa phương. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng phải chủ động thực hiện tuyên
truyền, giải thích hướng dẫn và trực tiếp tham gia vào các khâu, các thủ tục từ việc
xin cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất đến xin cấp giấy phép xây dựng
của bà Bích. Bởi thực tế, các quy định này nếu không giải thích và hướng dẫn cụ
thể thì bà Bích hay người dân bình thường khác không thể biết được. Mặt khác, với
các thủ tục cần có sự tham gia của Ủy ban nhân dân phường thì Ủy ban này cần
hướng dẫn và trực tiếp thực hiện nhằm giúp bà Bích làm tốt quyền, nghĩa vụ của
mình trong lĩnh vực xây dựng, giữ gìn trật tự xây dựng đô thị tại địa bàn.
Thứ hai, phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Xây dựng là những cơ quan
chuyên môn có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết nhu cầu chính đáng của bà
Bích cần tích cực phát huy tinh thần trách nhiệm trong hướng dẫn các thủ tục pháp
lý cần thiết để bà Bích giải quyết được quyền lợi hợp pháp và thực hiện tốt nghĩa
vụ pháp lý của mình.
Thứ ba, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần căn cứ vào tình hình thực tế để
đôn đốc, giải quyết nhanh chóng các thủ tục pháp lý về đất đai, xây dựng cho bà
Bích phù hợp với thời hạn thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính để hạn
chế đến mức tối đa thiệt hại tới lợi ích kinh tế của công dân, đồng thời vẫn đảm bảo
trật tự xây dựng đô thị trên địa bàn.

Bên cạnh đó, cần công khai hóa các thủ tục về cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại Trung tâm giao dịch một cửa để người dân tiện
theo doi, giám sát.
Thứ tư, Bộ Xây dựng cần phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để nghiên
cứu các quy định hiện hành về thủ tục cấp giấy phép xây dựng để tránh các mâu
thuẫn, chồng chéo, cản trở lẫn nhau trong giải quyết các yêu cầu của công dân khi
tiến hành xây dựng nhà ở.

V. KẾT LUẬN
18


Qua tình huống trên ta nhận thấy vấn đề xây dựng nhà trái phép đang diễn ra
phổ biến tại nhiều địa phương từ đô thị đến nông thôn, làm ảnh hưởng xấu đến
công tác quản lý của Nhà nước. Khi pháp luật can thiệp buộc chủ đầu tư phải tháo
dỡ công trình trái phép sẽ gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho nhiều gia đình, cá
nhân, gây lãng phí về tiền của cho xã hội. Điều này không chỉ bắt nguồn từ sự thiếu
hiểu biết các quy định về xây dựng của người dân mà còn do sự thiếu chủ động,
thiếu kịp thời trong theo doi, kiểm tra, giám sát và giải quyết các quyền lợi chính
đáng của người dân từ phía các cơ quan chức năng. Đặc biệt tại không ít địa
phương, tình trạng cán bộ sách nhiễu, gây phiền hà cho dân trong việc giải quyết
các thủ tục hành chính để trục lợi vẫn còn phổ biến. Trong khi đó các quy định
pháp luật về xây dựng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ và chưa được các cấp chính
quyền tuyên truyền, giải thích nên dẫn tới thiếu công khai, minh bạch trong đáp
ứng các yêu cầu của công dân.
Để khắc phục vấn đề này trước hết cần có sự chủ động phối hợp của các cấp,
các cơ quan chức năng tại địa phương vì chính quyền địa phương là cấp gần dân
nhất, nắm chắc nhất các vấn đề pháp lý cũng như thực tế liên quan đến quyền hợp
pháp trong sử dụng nhà, đất ở và nhu cầu xây dựng nhà ở của dân. Thông qua các
thủ tục pháp lý trong giải quyết các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nói

chung, trong lĩnh vực xây dựng nhà ở nói riêng, thái độ và mối quan hệ người dân
với Nhà nước, với địa phương ngày càng nâng cao, là cơ sở cho việc xây dựng nền
dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Xây dựng, Chỉ thị số 02/2007/CT-BXD ngày 7 tháng 2 năm 2007 về
việc đẩy mạnh công tác cấp giấy phép xây dựng và tăng cường quản lý trật tự xây
dựng
2. Bộ Xây dựng, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-BXD BNV ngày 16/01/2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý Nhà nước ngành xây
dựng tại địa phương.
3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số
23/2009/NĐ – CP ngày 27/02/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
4 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số
27/2007/NĐ – CP ngày 7/02/2007 về quản lý kiến trúc đô thị.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số
180/2007/NĐ – CP ngày 07/12/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thị hành một
số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
6. Luật nhà ở năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành .-H.:Chính trị quốc
gia, 2005.-349 Tr.; 21 cm.
7. Luật Xây dựng.-H.:Chính trị quốc gia, 2007.-112 Tr.; 19 cm.
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Luật số
16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 về xây dựng.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Luật số

25/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 về nhà ở.

20


21



×