Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bai tap quan tri tac nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.27 KB, 11 trang )

Câu 1:
Công nghiệp phụ trợ là gì?
Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có
vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản
phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v..và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian,
những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực
hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong thực tiễn kinh doanh có 2 cách hiểu về công nghiệp phụ trợ:

Ở góc độ hẹp, CNPT là các ngành sản xuất phụ tùng, linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp ráp sản
phẩm hoàn chỉnh;toàn bộ các ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo ra các máy móc, thiết
bị hay những yếu tố vật chất khác góp phần tạo thành sản phẩm. Khái niệm công nghiệp phụ trợ trên thực
tế chủ yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự kết nối của nhiều chi tiết phức
tạp, tính chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. Hai ngành
công nghiệp hay sử dụng khái niệm công nghiệp phụ trợ là ngành ô tô và điện tử.

Nếu đặt góc nhìn rộng hơn, công nghiệp phụ trợ phải được hiểu một cách tổng quát như một hình
dung về toàn bộ quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì
mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác
nhau về yếu tố phụ trợ.
1. Phân loại
Chúng ta có thể phân loại công nghiệp phụ trợ theo 2 hướng :
Phân loại theo ngành sản xuất:
o
o
o

Các ngành cứng như sản xuất nguyên vật liệu và linh kiện…
Các ngành mềm như thiết kế sản phẩm, mua sắm, marketing quốc tế, viễn thông, vận tải, năng
lượng, cấp nước…
Các ngành phục vụ nhu cầu nội địa như thép, hóa chất, giấy, ximăng…



Phân loại từ góc độ doanh nghiệp:
o
o
o

Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc ở nước ngoài (import).
Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc nước ngoài ở thị trường trong nước (foreign
suppliers).
Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc ở nội địa (dosmetic suppliers)

2.
Đặc điểm, vai trò của ngành công nghiệp phụ trợ
Trong hoạch định chiến lược và chính sách công nghiệp của một quốc gia, quan hệ giữa một ngành sản
xuất công nghiệp với các ngành phụ trợ của nó là vấn đề quan trọng.


2.1.
Đặc điểm

Tỷ lệ của chí phí cho CNPT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về
lao động.

Cơ sở hạ tầng còn bất cập, thủ tục hành chính rườm rà… nguyên nhân cốt lõi là do chính sách phát
triển công nghiệp phụ trợ trong nước chưa phát triển đúng mức.
2.2.
Vai trò

CNPT có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút dòng vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp, đồng
thời kích thích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước.


CNPT thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Dưới áp
lực cạnh tranh, các công ty CNPT phải tỏ ra có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất lượng và
giá thành cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Tiềm năng đó sẽ thành hiện thực nhờ chuyển giao công
nghệ từ doanh nghiệp FDI.

CNPT góp phần tạo công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa trên các địa bàn sản xuất của doanh
nghiệp và khu vực lân cận. Mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công
nghiệp.

Michael Porter (sinh ngày 23/5/1947) là Giáo sư của Đại học Harvard, Hoa Kỳ_nhà tư tưởng chiến
lược và là một trong những “bộ óc” quản trị có ảnh hưởng nhất thế giới. Mô hình kim cương của Porter
là khối tứ giác gồm: doanh nghiệp (chiến lược, cơ cấu, cạnh tranh), các yếu tố cung, các yếu tố cầu, các
ngành công nghiệp bổ trợ và liên quan. Ông cho rằng, những lợi ích từ việc đầu tư vào các yếu tố sản xuất
tiên tiến trong các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ lan truyền đến các ngành công nghiệp khác.CNPT góp
phần tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo
hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu. CNPT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công
ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu.

Nhìn nhận lại vai trò của công nghiệp hỗ trợ
Trước hết, CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. CNHT là ‘bệ đỡ’ cho sự
phát triển sản xuất công nghiệp, là nền tảng, cơ sở để sản xuất công nghiệp phát triển mạnh hơn. Chất
lượng sản phẩm đầu ra cuối cùng của các sản phẩm công nghiệp phụ thuộc vào chất lượng của các sản
phẩm chi tiết, linh kiện được sản xuất từ ngành công nghiệp hỗ trợ. Do vậy, nếu công nghiệp hỗ trợ kém
phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng sẽ bị giới hạn trong
một số ít các ngành.
Thứ hai, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp (DN) trong ngành CNHT thường có xu hướng tập
trung chuyên môn hóa vào các công đoạn hoặc chi tiết sản phẩm có thế mạnh, mặt khác các doanh nghiệp
cũng đồng thời thực hiện hợp tác liên kết với nhau nhằm hoàn thiện, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Do sự

chuyên môn hóa sâu, chuyên tâm vào lĩnh vực của mình và kết hợp với sự hợp tác hóa chặt chẽ nên sẽ tạo
năng suất sản xuất và hiệu quả mới tăng lên.


Thứ ba, công nghiệp hỗ trợ chính là cơ sở để thực hiện hội nhập công nghiệp toàn cầu. Các tập đoàn
công nghiệp đa quốc gia hàng đầu trên thế giới ngày càng có vai trò chi phối, điều tiết và gần như quyết
định với tầm ảnh hưởng rất rộng đến hệ thống kinh tế thế giới. Các nước đang phát triển, đi sau, cũng
chịu sự chi phối, điều tiết này và không thể một bước phát triển vượt bậc, để đạt được sức mạnh ngang
tầm mà cần phải có quá trình từng bước tương thích, hợp tác và hội nhập. Điều này chỉ có ngành công
nghiệp hỗ trợ mới phát huy được vai trò đó. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác
được thiết lập, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ là một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong
các sản phẩm của các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu thế giới của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu,…
Công nghiệp hỗ trợ nhờ đó mà trở thành một bộ phận tham gia vào hệ thống sản xuất chuyên môn hóa
quốc tế. Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ sẽ được nằm trong chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp của
khu vực cũng như toàn cầu.
Hội nhập quốc tế quan trọng hơn là hội nhập ở thượng nguồn, tức là phối hợp với nhau trong quá trình
tham gia sản xuất linh kiện, để tham gia vào chuỗi sản
xuất toàn cầu. Công nghiệp hỗ trợ chính là mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu chứ không
phải công nghiệp lắp ráp. Công nghiệp lắp ráp lại thuộc khâu hạ nguồn, nó không mang tính sản xuất, chế
tạo, thiếu yếu tố năng động, sáng tạo. Đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, nếu như
công nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm
cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với
giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chúng loại quá nhiều, chi phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu
vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa quốc gia sẽ gặp
khó khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, bộ phận, và các
sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác.
Thứ tư, công nghiệp hỗ trợ phát triển có hiệu quả tạo điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài và tạo
tăng trưởng bền vững. Nhân tố lao động giá rẻ ngày nay cũng không còn sức hấp dẫn nhiều trong thu hút
đầu tư, phát triển bền vững. CNHT phát triển sẽ thu hút FDI, tỷ lệ của chí phí về CNHT cao hơn nhiều so
với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho

môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Đối với công nghiệp lắp ráp và tận dụng lao động giá rẻ, đến một mức độ
nào đó khi các tập đoàn kinh tế không thấy cơ hội nữa họ sẽ rời bỏ đi. Thay vào đó, xu thế ngày nay các
tập đoàn kinh tế, công ty nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ chú trọng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh,
xây dựng nhà máy vào những khu vực mà tại đó họ có thể tận dụng được một ngành công nghiệp hỗ trợ
tốt, đáp ứng được nhu cầu mua sắm linh kiện, chi tiết sản phẩm hay như các hợp đồng cung cấp, đặt hàng
sản xuất các chi tiết, đơn vị sản phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm.
Các DN hoạt động trong ngành CN hỗ trợ nội địa cũng không phải mất phí tổn và thời gian về nghiên cứu
phát triển do công đoạn này đã được các tập đoàn đầu tư, các công ty đa quốc gia thực hiện. Do vốn đầu
tư được rải ra cho nhiều DN nên phân tán, hạn chế được rủi ro, khủng hoảng nếu có. Phần lớn các DN
công nghiệp hỗ trợ có quy mô nhỏ, nên có thể thay đổi mẫu mã, đổi mới hoạt động sản xuất nhanh, ứng
phó linh hoạt với biến động của thị trường. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải là CNHT phát triển
đồng bộ rồi mới có FDI. Giữa FDI và ngành CNHT có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong nhiều
trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty khu vực địa
phương) đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Thứ năm, phát triển CNHT sẽ có tác động khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực
lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề. Lao động trong công nghiệp hỗ trợ sẽ
khuyến khích, phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, trong khi hoạt động lắp ráp là những công việc đơn
thuần, lặp đi lặp lại, trình độ tay nghề của công nhân không có cơ hội được nâng cao, tiếp cận với tiến bộ
khoa học kỹ thuật.
Thứ sáu, ngành công nghiệp hỗ trợ còn có những đóng góp quan trọng trong sự ổn định kinh tế, xã hội,
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa. Khi các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp tự sản xuất được các chi tiết,
linh kiện sản phẩm, đồng nghĩa với việc không còn phải nhập khẩu để phục vụ cho xuất khẩu, từ đó sẽ có
tác động hạn chế nhập siêu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời giảm được tình trạng lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô. Ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển tự động nó sẽ có tác động tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm


giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, ngành CNHT phát triển sẽ
tạo ra hiệu ứng kéo các ngành công nghiệp khác phát triển, giải quyết công ăn việc làm, tạo giá trị gia
tăng cho nền kinh tế, kích thích tiêu dùng trong nước, đóng góp tăng trưởng kinh tế và làm giảm tỷ lệ
người nghèo.

Cuối cùng, phát triển CNHT là điều kiện đủ để phát triển các cụm liên kết ngành (industrial cluster)–
công cụ rất hữu hiệu giúp nâng cao cạnh tranh, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế vùng – thông qua
xây dựng mạng lưới các nhà cung ứng sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp khác.

Câu 2
Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến 2020
Từ nay đến 2020, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu: linh kiện phụ
tùng, công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may và hỗ trợ công nghiệp công nghệ cao.
Ngày 8 tháng 10 năm 2014, Bộ Công thương đã có Quyết định số 9028/QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Mục tiêu chung của Quy hoạch nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030,
tỷ lệ này là 70%) tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp.
Thực hiện mục tiêu chung, từ nay đến năm 2020, Việt Nam tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc
3 lĩnh vực chủ yếu và theo các định hướng sau:
- Lĩnh vực linh kiện phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử, đến năm 2020 đáp ứng 60% nhu cầu
sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp của ta. Năm 2030, đáp ứng 80% nhu cầu này.
Các ngành công nghiệp cơ khí, ô tô, máy nông nghiệp, điện tử… được ưu tiên phát triển. Hỗ trợ doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng tham gia thị trường khu vực và quốc tế.
- Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may - da giày: đạt tỷ lệ cung cấp trong nước 65% ngành dệt
may, 75%-80% ngành da giày.
Ưu tiên thu hút vào lĩnh vực nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày, hình thành các
cụm liên kết ngành trong sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, da giày tại các vùng kinh tế trọng
điểm.
- Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao, đồng thời phát triển hệ thống doanh
nghiệp cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dùng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này; hình thành
các doanh nghiệp bảo trì, sửa chữa máy móc đạt tiêu chuẩn quốc tế làm tiền đề phát triển doanh nghiệp
sản xuất thiết vị, phần mềm phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Ưu tiên thu hút đầu tư vào sản xuất vật liệu chế tạo như thép chế tạo, nhựa, cao su, composit, gốm phục
vụ công nghiệp công nghệ cao, hóa chất cơ bản, hóa chất chuyên dụng trong công nghiệp công nghệ sinh

học, vật liệu điện tử…
Quy hoạch xác định rõ các giải pháp và chính sách chủ yếu:
- Hoàn thiện cơ chế chính sách cho phát triển công nghiệp hỗ trợ
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ
- Phát triển số lượng và nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa.
- Phát triển khoa học công nghệ cho công nghiệp hỗ trợ.


- Đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp hỗ trợ.
- Giải pháp:
Kết nối doanh
nghiệp vốn đầu
tư nước ngoài
với doanh nghiệp
nội địa

Củng cố, Nâng cao tính Hỗ trợ doanh Tăng
Xây
dựng
quy
nâng cao chuyên nghiệp nghiệp công cường
hoạch, khuyến khích
vai
trò của hội chợ nghiệp hỗ trợ hoạt động đầu tư sản xuất
Hiệp hội công nghiệp tìm kiến đối hợp tác nguyên, vật liệu
ngành
hỗ trợ…
tác
quốc tế
phục vụ sản xuất

nghề
công nghiệp hỗ trợ
Các dự án sản xuất công nghiệp hỗ trợ được hưởng chính sách khuyến khích, ưu đãi theo Quyết định số
12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 2 năm 2011, Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2011
của Thủ tướng Chính phủ.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ được hưởng các chương trình
theoQuyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực vực công nghiệp hỗ trợ”.
Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành (Minh Tú).

Câu 3
Phát triển công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển. Bài viết phân tích thực
trạng công nghiệp hỗ trợ ở nước ta nhằm tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém mà ngành này đang
gặp phải, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong thời gian tới.
Vấn đề cơ bản của công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là động lực trực tiếp tạo ra giá trị
gia tăng, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa quốc gia. Ở tầm vĩ mô, phát triển CNHT giúp giảm kim ngạch nhập khẩu đầu vào sản xuất, giúp hạn
chế các căng thẳng về thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế (nhất là cán cân thương mại) cũng như ngoại
tệ đối với những nước nhập khẩu hàng hóa.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của CNHT, trong đó có thể kể đến:
Thứ nhất, quy mô cầu. Điều này xuất phát từ thực tế là ngành CNHT đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ hiện
đại. Để giảm thiểu chi phí trên một đơn vị sản phẩm, các DN phải tính đến lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Đó
là lý do tại sao các nhà đầu tư muốn đảm bảo một thị trường có quy mô lớn (hoặc ít ra có tiềm năng quy
mô lớn trong tương lai) trước khi ra quyết định đầu tư.
Thứ hai, tình trạng thiếu thông tin và sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng giữa nhà cung cấp linh phụ
kiện và các DN lắp ráp cũng là các nhân tố cản trở sự phát triển của ngành CNHT.
Thứ ba, yếu tố nguồn nhân lực. Hiện nay, đa phần các ý kiến cho rằng nguồn nhân lực có trình độ cao còn
quan trọng hơn máy móc hiện đại. Điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề



cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp
mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc.
Ngoài ra, những chính sách của Chính phủ như chính sách thuế (giảm thuế và ưu đãi về thuế) và các
chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ công nghệ, tài chính, đào tạo...) là công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy
CNHT phát triển.
Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Thực trạng chung:
Tại Việt Nam, các vấn đề lý luận cũng như chính sách phát triển ngành CNHT chỉ được bàn thảo nhiều
trong thời gian gần đây. Trong những năm qua, việc năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng như doanh
nghiệp (DN) ít được cải thiện, chính sách nội địa hóa không đạt kết quả như mong muốn, những bất ổn vĩ
mô kéo dài và việc chậm trễ trong quy hoạch, xây dựng và ban hành chính sách cho CNHT đã tạo nhiều
bất cập và là sức ép lớn cho phát triển CNHT ở Việt Nam trong những năm tới.
Theo tính toán của Bộ Công Thương, ngành CNHT hiện lệ thuộc đến gần 80% vào nguồn nguyên liệu
nhập khẩu. Rất nhiều lĩnh vực công nghiệp đặt ra mục tiêu, kế hoạch nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cùng với
đó là các chính sách ưu đãi được triển khai mạnh mẽ nhưng hầu như chưa có lĩnh vực nào đạt kết quả như
mong muốn. Thực trạng này là do có quá ít DN Việt Nam làm CNHT, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu
đóng gói, bao bì. Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước ngoài chủ
yếu là các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các
DN trong và ngoài nước còn khá lớn. Phần lớn các DN trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng
đáp ứng về yêu cầu chất lượng kém. Trong khi đó, các DN nhà nước trong ngành CNHT vẫn duy trì
phong cách làm ăn tự cung tự cấp; thiếu liên kết để tham gia thầu phụ công nghiệp. Vì vậy, không tìm
kiếm được những thông tin về khả năng giao thầu của DN lớn, nhất là DN nước ngoài và ngược lại, các
DN nước ngoài cũng ít thông tin về DN Việt Nam. Cùng với đó, các cụm công nghiệp cũng được hình
thành thiếu quy hoạch tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên chuỗi
giá trị thông qua việc liên kết DN… Điển hình cho thực trạng này là ngành xe máy, ô tô.
Ngành xe máy có thể xem là đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao nhất trong các ngành. Với các DN có vốn đầu
tư nước ngoài, tỷ lệ nội địa hóa đạt được xấp xỉ 70-75%, có thể coi đây là một tiến bộ trong việc phát
triển ngành CNHT.

Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước đã có chủ trương bảo hộ cho các liên doanh sản xuất ô tô, các hãng
đưa ra cam kết sẽ nội địa hóa 30 - 40% sau khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ nội địa
hóa chỉ đạt từ 5 - 10%. Chỉ có một vài DN đạt tỷ lệ nội địa hóa 20%.
Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, sở dĩ ngành công nghiệp xe máy đạt được tỷ lệ trên là sau một thời gian
dài hưởng rất nhiều chính sách ưu đãi, các DN chỉ nhập linh kiện về lắp ráp. Trước tình trạng này, Chính
phủ nâng mức thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện từ 30-50% nên DN phải tập trung đầu tư chiều sâu,


nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để giảm giá thành sản phẩm. Mặc dù tỷ lệ nội địa hóa đã cao nhưng thực tế
cũng cho thấy, ngành CNHT xe máy còn tồn tại nhiều vấn đề. Sản phẩm của các DN hoạt động trong
ngành CNHT cho xe máy chỉ là các chi tiết linh kiện sản xuất với kỹ thuật công nghệ đơn giản như: giảm
xóc, đồng hồ báo xăng, bộ dây điện, yên xe. Chưa có DN nào sản xuất các bộ phận chính quan trọng đòi
hỏi kỹ thuật, công nghệ cao như động cơ, hộp số…
Với ngành ô tô, sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, đến nay Việt Nam có khoảng 70 DN sản xuất linh
kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Số DN này thực sự còn quá mỏng, quy mô còn
nhỏ và thậm chí năng lực còn rất yếu. Nếu ví ngành công nghiệp ôtô như một quả núi thì các DN sản
xuất, lắp ráp là phần ngọn, còn phần quan trọng nhất là chân núi chính là CNHT.
Theo Bộ Công Thương, công nghiệp sản xuất phụ tùng ô tô tại Việt Nam là ngành mới nổi nên khó khăn
còn nhiều, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước đã
có chủ trương bảo hộ cho các liên doanh sản xuất ô tô, các hãng đưa ra cam kết ban đầu là sẽ nội địa hóa
30 - 40% sau khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, công nghiệp ô tô đạt được tỷ lệ nội địa hóa
thấp nhất trong các ngành, trung bình từ 5 - 10%. Chỉ có một vài DN đạt tỷ lệ nội địa hóa là 20%.
Bất cập về nhận thức:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chiến lược phát triển công nghiệp được xây dựng trên khả năng cạnh
tranh quốc tế. Khả năng cạnh tranh quốc tế lại được xây dựng bằng nhiều yếu tố như chi phí sản xuất,
chất lượng sản phẩm, chi phí thời gian, chuyên môn hóa tiếp thị và dịch vụ hậu mãi. Nhân tố chi phí sản
xuất, như đã nói ở chính là việc sẵn có sản phẩm CNHT ở trong nước.
Trong một thời gian dài, các DN Việt Nam đã quen với việc sản xuất tích hợp theo chiều dọc. Theo đó,
mọi khâu của quá trình sản xuất sản phẩm đều được khép kín trong nội bộ DN, bất cứ DN nào cũng muốn
có sản phẩm mang thương hiệu, trong khi khả năng cạnh tranh kém do cách tổ chức sản xuất. Trên thực

tế, có rất ít các sản phẩm công nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh và có thương hiệu quốc tế, chiếm lĩnh
được thị trường trong và ngoài nước.
Trình độ công nghiệp Việt Nam có thể sản xuất được nhiều sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu, khái niệm "sản xuất được" phải hiểu theo nghĩa là có khả
năng trình độ công nghệ sản xuất được sản phẩm, đồng thời sản phẩm phải mang tính cạnh tranh và tồn
tại được trên thị trường. Trong điều kiện hội nhập quốc tế với nhiều hiệp định tự do thương mại, thuế
quan, sự cạnh tranh toàn cầu của các sản phẩm công nghiệp ngày càng gay gắt, phải thay đổi nhận thức
của cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng DN về tầm quan trọng của CNHT, nếu không phát triển
ngành CNHT sẽ không có ngành công nghiệp chế tạo.
Đầu tư của Nhà nước còn hạn chế:
Mặc dù, nhận thức được vai trò quan trọng của CNHT đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
công nghiệp nói riêng, nhưng sự đầu tư các nguồn lực cho ngành CNHT chưa tương xứng.


Các chủ trương mới mang tính chất động viên, tuyên truyền, Nhà nước chưa đầu tư đủ nguồn lực bao
gồm ngân sách và nhân lực cho CNHT. Sự quan tâm và đầu tư phát triển ngành CNHT chưa tương xứng
với vai trò đặc biệt quan trọng của nó.
Hiện nay, các chính sách và đầu tư cho CNHT đang mang tính dàn trải, lồng ghép trong nhiều chính sách
và chương trình khác nhau. Có nhiều đầu mối cùng triển khai các hoạt động trợ giúp phát triển CNHT
nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng rất khó khăn và chưa thực sự nhịp nhàng, ăn khớp. Với
nguồn lực ngân sách nhà nước còn eo hẹp, phần đầu tư cho ngành CNHT rất hạn chế, các DN rất khó tiếp
cận sự hỗ trợ của Nhà nước.
Thiếu vốn và công nghệ:
Một thực tế hiện nay, khoảng cách giữa khả năng các DN cung ứng nội địa với các DN nước ngoài hiện
nay là rất lớn về yêu cầu chất lượng, giá bán cũng như thời gian giao hàng.
Nguyên nhân do các DN CNHT gặp rất nhiều khó khăn về vốn và công nghệ để có thể đầu tư trang thiết
bị, chuyển giao công nghệ sản xuất phù hợp.
Chất lượng nguồn nhân lực thấp:
Việt Nam có nhiều thuận lợi về nguồn nhân lực như nguồn lao động trẻ, dồi dào. Tuy nhiên, đối với
CNHT thì nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng chuyên môn mới là điều quyết định. Nguyên nhân của

việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp do nội dung đào tạo tại các trường
kỹ thuật lạc hậu, không gắn với thực tiễn sản xuất. Bên cạnh đó, sự mất cân đối trong phát triển kinh tế
cũng tạo ra tâm lý lao động xã hội chỉ quan tâm đến các ngành thương mại và dịch vụ. Về trung hạn, Việt
Nam sẽ tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thay cho việc nghiên cứu, phát hiện công nghệ, trong việc gia
công, sản xuất các chi tiết quan trọng thay cho việc nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng để tiếp thu tốt các kỹ
năng, kỹ thuật và công nghệ thì yêu cầu cấp bách phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Môi trường kinh tế vĩ mô:
Môi trường kinh tế Việt Nam trong thời gian dài vừa qua chưa tạo đủ điều kiện thuận lợi để thu hút các
thành phần kinh tế đầu tư vào công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng. Một số lĩnh vực đem lại tỷ suất
lợi nhuận cao như bất động sản, chứng khoán đã làm nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất công nghiệp
hạn chế. Ngoài ra, việc khởi tạo DN công nghiệp chế tạo khó khăn và nhiều rủi ro hơn nhiều việc thành
lập DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Cùng với đó là việc thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi
nhuận thấp do lãi suất tín dụng cao.
Ngoài ra, sự liên kết giữa các DN CNHT với các DN sản xuất lắp ráp còn yếu kém, thiếu sự phối hợp liên
kết giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất CNHT với nhau, giữa các DN FDI
và nội địa. Sự liên kết này cần phải có sự hỗ trợ và tác động của Nhà nước.
Một số đề xuất, khuyến nghị


Từ thực trạng trên, để giải quyết được những tồn tại, bất cập và thúc đẩy ngành CNHT Việt Nam phát
triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng, các cơ quan hữu quan, DN nên quan tâm đến một số kiến nghị, đề
xuất sau:
Một là, đẩy mạnh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển CNHT.
Từ năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành
CNHT đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 nhưng có thể nhận thấy rất nhiều mục tiêu mà quy hoạch
đó đề ra đến năm 2010 đã không thực hiện được. Sở dĩ có tình trạng này là vì các mục tiêu được đưa ra
nhưng không có đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, không có kế hoạch tài chính đủ mạnh hay rất
nhiều mục tiêu đề ra còn mang tính dàn trải...
Chính vì vậy, khâu đột phá đầu tiên để phát triển ngành này là hoàn thiện lại quy hoạch phát triển CNHT.
Trong đó từng ngành, từng lĩnh vực phải rà soát và đề ra mục tiêu phát triển các sản phẩm phụ trợ của

ngành mình theo phương châm “làm đến đâu chắc đến đó” và đề ra tiến độ cụ thể việc nội địa hóa cho
từng sản phẩm, từng chi tiết chứ không đề ra theo kiểu “phong trào” như thời gian vừa qua.

Hai là, đổi mới các chính sách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển CNHT. Cụ thể:
- Về chính sách đất đai, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các DN sản xuất các sản
phẩm phụ trợ được thuê lâu dài và ổn định theo luật định. Các DN này được thuê đất với mức giá ưu đãi
để các chủ DN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.
- Về chính sách tín dụng, Chính phủ phải có chính sách ưu đãi, hỗ trợ thông qua quỹ tín dụng ưu đãi trong
CNHT. Chính phủ phải là “bà đỡ” để giúp DN lớn dần.


- Về chính sách thuế, cần xếp các DN sản xuất các sản phẩm phụ trợ vào nhóm các DN được ưu đãi về
thuế, để các DN này khi thành lập được hưởng thời gian miễn giảm thuế như các DN được ưu đãi đầu tư
khác.
- Về chính sách đầu tư, để phát triển ngành CNHT một cách hiệu quả thì Nhà nước cần đầu tư hình thành
một số DN chủ chốt ở một số lĩnh vực như cơ khí chế tạo, nhựa, cao su, sản xuất linh kiện... theo hình
thức Nhà nước đầu tư thành lập mới DNNN ở lĩnh vực này, sau khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ
triển khai cổ phần hóa. Đây là kinh nghiệm khá thành công khi được áp dụng ở Singapore và một số quốc
gia châu Á khác.
Để tạo sự phát triển đột phá của ngành CNHT, Nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng cho ngành này, bao
gồm cả các dự án đầu tư và sự hỗ trợ DN. Đồng thời, cần dành riêng nguồn lực đầu tư mạnh mẽ cho
ngành CNHT, không lồng ghép với các chương trình khác. Với đặc điểm các DN Việt Nam có năng lực
còn yếu, cần phải thành lập Quỹ Đầu tư CNHT riêng cho ngành CNHT Việt Nam. Hiện nay, điểm yếu cơ
bản của ngành CNHT Việt Nam là chưa chủ động được vật liệu đầu vào cơ bản như sắt, thép chế tạo,
nhựa, chất dẻo…
Trong đó, Việt Nam có lợi thế so sánh với nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú như các loại
quặng kim loại và dầu mỏ. Để tạo sự chủ động được vật liệu đầu vào của ngành CNHT, Nhà nước phải
tham gia đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản cơ bản. Các dự án mang tính chất thượng nguồn này
thường có quy mô lớn, yêu cầu về vốn đầu tư rất lớn, thường là hàng tỷ USD các thành phần kinh tế khác
không đủ năng lực để đầu tư.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT.
Chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT cũng phải được không ngừng nâng cao. Để thực hiện được
điều này mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có
uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo, từ các trường đại học cho đến
các trường dạy nghề để nâng dần chất lượng của những người lao động trong tương lai.
Bốn là, tăng cường sự liên kết giữa các DN trong quá trình phát triển CNHT.
Cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các DN trong nước với nhau cũng như giữa các DN trong và ngoài nước
trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm phụ trợ. Bộ Công Thương và Phòng Công nghiệp và Thương
mại Việt Nam cần phối hợp với các DN có nhu cầu về các sản phẩm hỗ trợ cũng như các DN có khả năng
sản xuất những sản phẩm này để tổ chức các buổi hội thảo về phát triển các sản phẩm hỗ trợ của từng
ngành, từng lĩnh vực; tổ chức các hội chợ, triển lãm về sản phẩm. Thông qua đó làm cầu nối cho các DN
trong và ngoài nước liên kết, hợp tác với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc thành lập liên
doanh để cùng nhau sản xuất các sản phẩm phụ trợ.
Năm là, hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển.


Hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những giải pháp hết sức quan trọng trong việc đẩy
mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Việc hiện đại hóa hệ
thống kết cấu hạ tầng sẽ góp phần giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư, giúp cho hàng hóa của họ (linh
kiện, vật tư, phụ tùng...) thuận lợi hơn trong việc lưu thông cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Sáu là, Nhà nước cần tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch phát
triển CNHT.
Cần thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi việc triển khai kế hoạch phát triển các sản phẩm phụ
trợ cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế (có thể trực thuộc Bộ Công Thương). Để bộ phận này hoạt
động có hiệu quả, cần bố trí những cán bộ chuyên trách có năng lực để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
quy hoạch cũng như các kế hoạch phát triển ngành CNHT.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×