Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA3 TẠI TIỂU KHU 350 BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ ĐẠI NINH, HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.13 KB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC
RỪNG TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA3 TẠI TIỂU KHU 350
BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ ĐẠI NINH,
HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN NAM HẢI
Ngành: Lâm nghiệp
Niên khóa: 2004 - 2009

Tháng 07/2009


BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG
TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA3 TẠI TIỂU KHU 350, BAN QUẢN LÝ
RỪNG PHÒNG HỘ ĐẠI NINH, HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM
ĐỒNG

Tác giả

NGUYỄN NAM HẢI

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
Cấp bằng Kỹ sư ngành
LÂM NGHIỆP

Giáo viên hướng dẫn


ThS. Nguyễn Minh Cảnh

Tháng 07 năm 2009


LỜI CẢM ƠN
Để có được thành quả như ngày hôm nay, tôi xin chân thành cảm ơn công ơn
nuôi dưỡng và động viên của Cha, Mẹ trong suốt quá trình học tập.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến:
• Quý Thầy Cô giáo Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh đã
giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập.
• Quý Thầy Cô giáo Khoa Lâm nghiệp đã giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và thực hiện luận văn.
• Xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Minh Cảnh đã tận tình hướng dẫn tôi
thực hiện và hoàn thành luận văn nàỵ
• Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ viên chức đơn vị Ban quản lý rừng phòng
hộ Đại Ninh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện
ngoại nghiệp.
• Cảm ơn các bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi trong công
việc cũng như trong thời gian học tập.
• Do thời gian thực hiện khóa luận và trình độ chuyên môn còn hạn chế, nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự nhận xét, đóng
góp ý kiến của quý Thầy Cô giáo, các bạn bè và đồng nghiệp để khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp.HCM, tháng 07 năm 2009
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Nam Hải



TÓM TẮT
Nguyễn Nam Hải, sinh viên Khoa Lâm nghiệp tại chức Lâm Đồng, Trường
Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài: “Bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên
trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 350, Ban Quản Lý rừng phòng hộ Đại Ninh, huyện
Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng” được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 02
năm 2009 đến tháng 07 năm 2009.
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Minh Cảnh
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng các quy trình điều tra trong công tác
ngoại nghiệp. Thu thập số liệu trên các ô tiêu chuẩn tạm thời. Sử dụng phần mền
Excel 2003 hoặc Statgraphics Plus 3.0 để xử lý số liệu thu thập.
Kết quả nghiên cứu bao gồm những nội dung chính sau:
1. Tổ thành loài thực vật
Số loài thực vật thống kê được ở trạng thái rừng IIIA3 tại khu vực nghiên cứu
là 23 loài. Loài chiếm tổ thành cao nhất lần lượt là Giẻ, Thông 2 lá, Chò, Dầu trà beng,
Vang.
Công thức tổ thành loài:
0,3785 Gi + 0,1276 Th + 0,0755 Ch + 0,0727 Da + 0,0571 V + 0,2886 Lk
2. Quy luật phân bố số cây theo cấp đường kính D1,3
Phân bố số cây theo cấp đường kính nhìn chung có dạng của hàm Korsun.
Phương trình cụ thể: Ln(N%) = -18,34 + 14,0304*Ln(D1,3) - 2,3344*Ln(D1,3)2. Số
cây tập trung lớn nhất ở cấp kính từ 16 – 24 cm chiếm 36,59 %, sau đó giảm dần ở
các cấp kính tiếp theo. Đường kính bình quân lâm phần D = 26,6 cm.
3. Quy luật phân bố số cây theo cấp chiều cao H
Đường biểu diễn phân bố số cây theo cấp chiều cao cũng có dạng hàm
Korsun. Phương trình cụ thể: Ln(%N) = -5,96393 + 1,15488*H – 0,036824*H2.
Chiều cao bình quân của rừng là: H = 15,43 m, với hệ số biến động Cv = 21,97 %.
4. Phân bố trữ lượng theo cấp đường kính



Trữ lượng phân bố không đều ở các cấp đường kính, chủ yếu tập trung ở các
cấp kính ở giữa và cấp cuối của lâm phần.Trữ lượng bình quân lâm phần tại khu
vực nghiên cứu M = 221,6 m3/ha.
5. Tương quan giữa chiều cao H và đường kính D1,3
Giữa chiều cao và đường kính của rừng tự nhiên ở trạng thái rừng IIIA3 tại
khu vực nghiên cứu có mối tương quan rất chặt (r = 0,955).
Phương trình cụ thể:

H = sqrt (88,6866 + 5,81021.D1,3)

6. Phân bố của lớp cây tái sinh
Mật độ cây tái sinh là cây 5600 cây /ha, trong đó số cây có triển vọng là
5190 cây/ha chiếm 92,68 %. Các loài cây tái sinh chủ yếu là Giẻ, Dầu trà beng,
Thông hai lá …
7. Độ tàn che
Độ tàn che trung bình của lâm phần trạng thái IIIA3 tại khu vực nghiên cứu
là 0,64 (64 %).
8. Độ hỗn giao
Độ hỗn giao của rừng là khá thấp (với K = 0,08)


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới. Rừng nước ta
nổi tiếng về tài nguyên gỗ, nhất là đặc sản có giá trị. Rừng là nguồn tài nguyên sinh
vật quý giá nhất của cả đất nước. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế – xã
hội, mà còn giữ nhiều chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Trước đây, rừng Việt
Nam có độ che phủ rừng khá cao, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng đã bị suy

thoái nặng nề.
Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng hoặc do những lợi
ích kinh tế trước mắt nên rừng bị phá hoại nghiêm trọng. Sự mất mát và suy giảm
rừng là không thể bù đắp được và đã gây ra nhiều tổn thất về kinh tế, công ăn việc
làm và cả về phát triển xã hội một cách lâu dài. Các trận lụt lớn trong những năm
gần đây diễn ra ở khắp các vùng của đất nước, từ Bắc chí Nam, từ miền núi đến
miền đồng bằng đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề về tính mạng, mùa màng, nhà cửa,
ruộng vườn, đường sá … Theo bản đồ rừng của Paul Maurand vào năm 1945 thì
nước ta có 14,352 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đạt 43,8 %. (dẫn nguồn
). Theo số liệu điều tra của Viện Điều tra và Qui hoạch
rừng thì đến năm 1975, nước ta chỉ còn 9,5 triệu ha rừng, độ che phủ chỉ còn 29,1
%. Đến năm 1981 còn 7,4 triệu, độ che phủ 24 %, đến năm 1989 có 9,3 triệu, trong
đó có những rừng mới trồng.
Trong thời gian từ năm 1990 đến năm 2005, trên toàn lãnh thổ Việt Nam hơn
78 % diện tích rừng già nguyên sinh đã biến mất, chỉ còn lại khoảng 85.000 hecta
rừng già, với tổng tỷ lệ rừng bị xóa sổ 38 %, một tỷ lệ khá cao so với các nước trên
thế giới. Tỷ lệ các khu rừng nguyên thủy bị mất ở Việt Nam xếp hàng thứ 2 trên thế
giới, sau Nigeria (Theo thống kê của Tổ chức Lương - Nông Liên Hợp Quốc
(FAO), 2005).

1


Trong những năm qua, các kế hoạch và một số biện pháp phục hồi, nuôi
dưỡng rừng tự nhiên đang được các nhà khoa học lâm nghiệp quan tâm nghiên cứu.
Trong đó, nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng là một vấn đề khá quan trọng trong
các hoạt động lâm nghiệp nhằm đưa ra được các biện pháp quản lý, bảo vệ và sử
dụng rừng một cách bền vững. Những cố gắng của cơ quan quản lý rừng là Bộ Lâm
nghiệp thật ra cũng đã có những kết quả nhất định, như hạn chế việc xẻ gỗ phục vụ
xây dựng và đẩy mạnh việc trồng cây gây rừng nhằm phủ xanh khoảng 5 triệu hecta

đất trống và đồi trọc.
Kể từ năm 1990, đã có hơn 2,7 triệu hecta đồi trọc đã được trả lại màu xanh;
song, vẫn còn tồn tại những tiêu cực khi rừng tiếp tục bị chặt phá công khai hoặc
lén lút, có khi bởi chính những doanh nghiệp địa phương hoặc có sự tiếp tay của
những người có trách nhiệm mà nhiều vụ đã được phanh phui trên báo chí và đã
được luật pháp xử lý nghiêm minh. Ngoài ra, những phong trào tích cực nhưng
thiếu quy hoạch hợp lý như phá rừng lấy đất canh tác trồng cây công nghiệp, làm
sân golf hay những dự án khác cũng góp phần không nhỏ trong việc gây ra tác hại
cho cả nguồn tài nguyên rừng và môi trường sinh thái. Hệ lụy của tất cả những điều
tiêu cực này là sự khan hiếm nguyên liệu gỗ, khiến Việt Nam phải nhập đến 80 %
gỗ nguyên liệu để thực hiện các đơn hàng xuất khẩu đồ gỗ cho các nước thuộc khối
EU, Mỹ, và Nhật ...
Tình trạng mất rừng và khai thác gỗ trái phép vẫn còn tiếp diễn ở mức độ
nghiêm trọng, rừng phòng hộ vẫn đang bị phá hoại. Diện tích rừng trồng có tăng lên
hàng năm nhưng với số lượng rất khiêm tốn và phần lớn rừng được trồng lại với
mục đích kinh tế, sản xuất cây lấy gỗ ngắn ngày, cây mọc nhanh mà chưa ưu tiên
trồng rừng tại các khu vực đầu nguồn.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn tài nguyên rừng, với mong
muốn đóng góp một phần công sức vào việc nghiên cứu và đề xuất các biện pháp kỹ
thuật nhằm quản lý, bảo vệ, duy trì và phát triển vốn rừng, trong khuôn khổ của một
khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Minh Cảnh,
Bộ môn Quản lý tài nguyên rừng, Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm
Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên

2


cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 350,
Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu cùa đề tài

Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản nhất về cấu trúc rừng trạng thái IIIA3 tại
Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng nhằm làm
cơ sở đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp.
1.3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện trình độ và thời gian có hạn nên đề tài chỉ đi vào nghiên cứu
một số đặc điểm cơ bản của cấu trúc rừng tự nhiên ở một phần diện tích điển hình
trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 350, Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh, huyện Đức
Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung như: Cấu trúc tổ thành loài,
độ hỗn giao của rừng, phân bố số cây theo cấp đường kính D1.3, phân bố số cây theo
cấp chiều cao H, phân bố trữ lượng theo cấp đường kính D1.3, tương quan giữa
chiều cao và đường kính, tình hình tái sinh dưới tán rừng và độ tàn che của rừng.
Mặc dù đã rất cố gắng trong việc điều tra, khảo sát, tham khảo, kế thừa các
tài liệu có liên quan để thực hiện đề tài, nhưng do những hạn chế nhất định, nhất là
sự phức tạp và phong phú về mặt lâm học của rừng nhiệt đới, nên đây chỉ là những
kết quả bước đầu nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu một số đặc điểm
cấu trúc rừng tự nhiên và các hệ sinh thái rừng tại địa bàn nghiên cứu.

3


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm chung về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần
thể thực vật rừng theo không gian và thời gian. Phân bố của quần thể thực vật trong
không gian biểu hiện ở hai khía cạnh: theo chiều thẳng đứng (tính thành tầng, tầng
phiến) và theo chiều nằm ngang của rừng (trạng thái khảm).
Cấu trúc rừng là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình
cạnh tranh giữa thực vật và cơ chế tác động lẫn nhau giữa chúng trong hệ sinh thái

rừng. Để tồn tại, mỗi loài cây yêu cầu một diện tích dinh dưỡng (không gian sinh
trưởng) nhất định, mà diện tích này lại biến động theo tuổi của cây, điều kiện khí
hậu và đất. Số lượng cây quá nhiều sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa thực vật và
phương tiện sống làm cho cây bị chèn ép mạnh, khả năng bị chết cao, làm suy yếu
và đôi khi mất khả năng tái sinh hạt và năng lực sinh sản bằng chồi (VN.Xukasov,
1953; Knapp, 1954).
Cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng trong nghiên cứu sinh thái học, hệ sinh thái
rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh hiệu quả. Trong nghiên cứu
cấu trúc rừng người ta chia thành ba dạng cấu trúc là cấu trúc sinh thái, cấu trúc không
gian và cấu trúc thời gian. Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn
lọc tự nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và
giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là
hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng. Thực tế cấu
trúc rừng có tính trật tự và theo quy luật của quần xã.
2.2. Tình hình nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên trên thế giới
Thuật ngữ “cấu trúc rừng” đã được các nhà khoa học lâm nghiệp trên thế
giới nghiên cứu và sử dụng khá phổ biến nhưng ý nghĩa khác nhau theo từng tác
4


giả. Tùy theo mục đích, đối tượng mà các tác giả đã nghiên cứu các qui luật cấu trúc
lâm phần theo các phương pháp khác nhau.
Theo tác giả PW.Richards (năm 1939) định nghĩa “cấu trúc” là sự phân bố
của cây rừng theo chiều thẳng đứng
Tác giả Meyer (năm 1952); Turnbull (năm 1963); Rollet (năm 1969) dùng
thuật ngữ “cấu trúc” để chỉ rõ sự phân bố cây gỗ theo các cấp kính hoặc là phân bố
diện ngang thân cây theo cấp kính.
Tác giả T.A. Rabotnov (năm 1978), định nghĩa “cấu trúc” quần xã thực vật
đó là đặc điểm phân bố các cơ quan, các thành phần tạo nên quần xã trong không
gian và thời gian (dẫn nguồn Nguyễn Đức Trung, 2005)

Chuỗi phân bố số cây theo đường kính chỉ ra cơ sở và quy luật cấu trúc trung
tâm của những chỉ tiêu điều tra rừng không chỉ đối với rừng trồng đều tuổi cùng
loài mà còn đối với tất cả các kiểu rừng. Nghiên cứu chúng là bắt buộc đối với bất
kỳ ai muốn hiểu biết về cấu trúc rừng trên thế giới. Những nhà khoa học điều tra
rừng và thậm chí cả các nhà lâm sinh học đã nghiên cứu quy luật này từ thế kỷ
trước.
Góp phần nghiên cứu trong lĩnh vực này phải kể đến hàng loạt những nhà
bác học và những nhà nghiên cứu về điều tra rừng như: Weise W. (1880), Schiffel
(1898, 1899, 1902), N.V. Tretiakov (1921, 1927, 1934, 1937, 1952), A.V Tiurin
(1923, 1927, 1931…), Prodan (1951), N.R. Anuchin (1931, 1936, 1954), V.S.
Moisev (1966, 1969 và 1971), B. Rollet (1974), N.N. Xvalov (1977), A.G.
Moskalov (1978, 1982), và một số tác giả khác (dẫn theo Hoàng Sĩ Động, 2002).
Khi nghiên cứu đường kính bình quân của rừng, Weise đi đến kết luận: số
cây có đường kính nhỏ hơn cây có đường kính trung bình tạo thành 57,5 % từ tổng
số cây quan sát chung kể từ cây nhỏ nhất nếu sắp xếp tất cả cây trong lâm phần theo
thứ tự từ đường kính nhỏ đến lớn. Trong nghiên cứu vấn đề này rất nhiều tác giả
cũng nhận được kết quả tương tự.
Schiffel khi nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo cấp đường kính bình
quân của rừng cây lá rộng rụng lá, tác giả đã biểu thị chúng theo dạng phân bố
giảm, và ông nhận thấy rằng, phương pháp xác định phần trăm số cây có sự tương
5


quan với cấp đường kính, theo đó tác giả đã nhận được sự phù hợp với chỉ tiêu điều
tra rừng (dẫn nguồn Nguyễn Đức Trung, 2005).
Giáo sư A.V Tiurin (1954) đưa ra tương quan số cây phân theo cấp đường
kính từ nhỏ đến lớn và cũng chỉ ra được sự phân bố đó là ổn định trong lâm phần và
ông còn chỉ ra rằng, nó không phụ thuộc vào loài cây, cấp lập địa và độ đầy của lâm
phần. Phân bố số cây theo độ đầy như vậy chỉ phụ thuộc vào đường kính trung bình
của lâm phần.

Giáo sư N.V.Tretiakov đã đưa ra quy luật cấu trúc của những phân tử rừng
thường xuyên mang những đặc điểm đặc trưng hiện tại, không phụ thuộc vào tuổi
rừng, loài cây, điền kiện sinh trưởng và thậm chí điều này cũng được chỉ ra đúng
ngay cả lâm phần phức và hỗn loài.
Theo Prodan (1951) đã nghiên cứu quy luật phân bố, chủ yếu là phân bố
đường kính có liên hệ với giai đoạn phát dục của lâm phần và biện pháp kinh
doanh. Theo ông, sự phân bố số cây theo cỡ đường kính co giá trị tiêu biểu nhất cho
lâm phần, phản ánh được cấu trúc lâm sinh của lâm phần. Những quy luật phân bố
mà ông xác định được ở rừng tự nhiên được chấp nhận và được kiểm chứng ở rất
nhiều nơi trên thế giới. Đó là phân bố đường kính của rừng tự nhiên có quy luật một
đỉnh lệch trái, số cây tập trung rất nhiều ở các cấp đường kính nhỏ do bởi có nhiều
loài, nhiều thế hệ cùng tồn tại. Song ở các cỡ đường kính lớn, chỉ có một số loài
nhất định do bởi đặc tính sinh học hay do bởi vị trí thuận lợi trong rừng chúng mới
có khả năng tồn tại và phát triển. Về phân bố chiều cao, rừng tự nhiên thường có
dạng nhiều đỉnh, rừng có nhiều thế hệ hay do bởi các biện pháp chặt chọn không
quy tắc nên phân bố chiều cao của rừng thường có nhiều đỉnh là phân bố giảm đặc
trưng cho rừng chặt chọn không đều tuổi (dẫn theo Nguyễn Đức Trung, 2005).
Môt số tác giả khác đã nghiên cứu phạm vi biến động của đường kính;
Rutkowki Boleslaw (1963) đã nghiên cứu bằng phương pháp biểu đồ sự phân bố số
cây theo đường kính trên một hecta theo đại lượng tương đối.
Cũng trong việc tìm hiểu cấu trúc rừng tự nhiên, Meyer (1934) và Prodan
(1949) (Theo giáo trình Điều tra – Quy hoạch và Điều chế rừng, Trường Đại Học

6


Lâm nghiệp, 1992) đã mô tả phân bố số cây (N) và đường kính ngang ngực (D1,3)
bằng hàm số giảm có dạng: N = α.e-β.D .
1,3


Đối với phân bố tán cây trong không gian, Okawa (1965) và phần lớn các tác
giả đã dùng phương pháp vẽ trắc đồ đứng để biểu thị phân bố tán cây của lâm phần
(dẫn theo Nguyễn Văn Trương 1983).
Theo Wenk (1995) nghiên cứu xác định cấu trúc của một loại hình rừng
nhằm mục đích không những đánh giá được nhiều hiện trạng rừng qua các quy luật
phân bố số cây theo chiều cao vút ngọn Hvn (cấu trúc đứng), theo đường kính D1,3,
theo tổng diện tích ngang G (cấu trúc ngang ),…mà còn có thể xác định chính xác
kích thước bình quân lâm phần phục vụ cho các công tác điều tra quy hoạch rừng
(dẫn theo Giang Văn Thắng, 2002).
Quy luật cấu trúc số cây theo cấp đường kính đã được xác định bằng những
hàm khác nhau hoặc cũng như vậy theo các dạng biểu đồ phần trăm khác nhau hay
trong biểu mẫu với giá trị cấu trúc cụ thể của chuỗi phân bố lý thuyết.
Trong sự phụ thuộc chỉ vào đường kính trung bình của lâm phần
(N.Vtretiakov, năm 1952; A.V.Tiurin, năm 1956) hay từ những yếu tố liên quan
khác nhau của cây rừng (A.I. Moskolev, năm 1974; B.Rollet, năm 1974), và những
nhà khoa học đã sử dụng những hàm toán học (dẫn theo Hoàng Sĩ Động, 2002) như
sau:
Khi nghiên cứu quy luật cấu trúc N/D, hàm Meyer (1953) thường được ứng
dụng ở các nước trong vùng nhiệt đới.
Hàm Poisson, Nguyễn Văn Trương (1983) đã nghiên cứu đối với rừng gỗ lá
rộng thường xanh hỗn loài.
Hàm Charlie (kiểu A), V.S.Moisev (1971), Nguyễn Ngọc Lung (1987) đã sử
dụng đối với rừng Thông và rừng Vân sam non.
Hàm Pearson, V.S.Moisev (1971),Đồng Sỹ Hiền và B.Rollet (1974) đã
nghiên cứu đối với rừng Thông, rừng Vân sam non và rừng thường xanh mưa ẩm
nhiệt đới.
Hàm Gamma, S.N.Xvalov (1984) đã sử dụng đề nghiên cứu rừng Thông ở
Liên bang Nga thuộc Liên Xô cũ.
7



Hàm Weibull, O.A.Atrosenko (1980), Vũ Tiến Hinh (1980), Trần Văn Con
(1986) và Hoàng Sỹ Động (1986) đã sử dụng đối với rừng Thông, rừng khộp và
rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Việt Nam.
2.3. Tình hình nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu các đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam từ những
năm đầu thế kỷ thứ XX đã được nhiều tác giả Việt Nam trong và ngoài nước nghiên
cứu. Góp phần nghiên cứu trong lĩnh vực này phải kể đến hàng loạt những nhà khoa
học và những nhà nghiên cứu về điều tra rừng như sau: Trần Ngũ Phương (1965),
Thái Văn Trừng (1970-1978), Đồng Sĩ Hiền (1974), Nguyễn Văn Trương (1983),
Nguyễn Ngọc Lung (1973-1983 và 1989), Giang Văn Thắng (1986-1990) và một số
tác giả khác.
Theo Thái Văn Trừng (1970-1978), trước năm 1954 hầu như chỉ có người
pháp thực hiện về các nghiên cứu về rừng Đông Dương. Trong đó, đáng kể nhất là
nghiên cứu của Paul Maurand (năm 1943) tác giả cuốn “Lâm nghiệp Đông Dương”;
Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil (năm 1952) tác giả cuốn “Những quần thể thực
vật thưa Nam Đông Dương”.
Những năm 1954 – 1960 rừng bắt đầu được để mắt đến nhưng hầu nhưng
các công trình nghiên cứu cứu vẫn còn rất ít ỏi.
Năm 1965, Trần Ngũ Phương sau khi sưu tập đã công bố tập “Bước đầu
nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam”.
Năm 1974, Đồng Sĩ Hiền khi lập biểu thể tích và biểu độ thon cây đứng cho
rừng gỗ hỗn loài ở miền Bắc nước ta, tác giả đã nghiên cứu quy luật phân bố đường
kính, phân bố chiều cao và phân bố của các nhân tố hình dạng thân cây. Qua các kết
quả nghiên cứu, tác giả đã rút ra kết luận quy luật cấu trúc của rừng tự nhiên hỗn
loài nước ta có dạng phân bố theo đường kính và dạng phân bố nhiều đỉnh theo
chiều cao và sự phân bố của các chỉ tiêu hình dạng f0,1 và f1,3 của các loài cây trong
rừng tự nhiên hỗn loài có dạng phân tiệm cận với phân bố và các quy luật này khác
hẳn so với rừng thuần loại đều tuổi. Tác giả cũng đã phân tích mối tương quan giữa
chiều cao (Hvn) với đường kính (D1,3) và hình số thân cây (f) đã đánh dấu và mở ra

một bước ngoặc mới cho vấn đề nghiên cứu và đánh giá rừng tại Việt Nam.
8


Hoàng Dung và Lê Hữu Cường khi nghiên cứu về quy luật cấu trúc ở một số
rừng ở miền Bắc từ 1962 đến 1967 đã đưa ra một số quy luật cấu trúc về rừng kín
thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (dẫn theo Trần Hoàng Hải, 2005) như:
+ Kết cấu tổ thành loài có 3 kiểu chính đó là: cây ưu thế tuyệt đối tạm
thời, loài cây ưu thế ổn định và loài cây ưu thế không rõ rệt.
+ Đặc điểm cấu trúc đường kính, tác giả nhận thấy rằng những lâm phần
bị tác động ít thì quy luật phân bố số cây theo cấp kính là phân bố giảm,
một số lâm phần có dạng một đỉnh gần đường kính nhỏ và phân bố theo
chiều cao là dạng một đỉnh lệch trái.
Qui luật cấu trúc rừng gỗ hỗn loài đã được Nguyễn Văn Trương đề cập từ
những năm 1983. Tác giả đã tập trung nghiên cứu một số quy luật về cấu trúc đứng,
cấu trúc thân cây và tổng diện tích ngang trên mặt đất …và mô phỏng cấu trúc rừng
hỗn giao nhiệt đới bằng các mô hình toán học để từ đó phát họa ra khái niệm về cấu
trúc rừng chuẩn có giá trị nâng cao lý luận đồng thời cũng có ý nghĩa phục vụ thực
tiễn sau này.
Về phân bố N/D1,3, Đồng Sĩ Hiền (1974) và Nguyễn Văn Trương (1978) đã
dùng phương trình Meyer để nắn phân bố N/D1,3 của rừng tự nhiên lá rộng nước ta.
Về vấn đề phục hồi rừng bằng khoanh nuôi bảo vệ đã có đề cập trong qui
phạm 84 của Bộ Lâm nghiệp, 1993. Tuy nhiên những tài liệu nghiên cứu về vấn đề
này còn rải rác, chưa mang tính hệ thống.
Năm 1983-1986, Nguyễn Ngọc Lung và Trương Hồ Tố đã nghiên cứu đặc
điểm cấu trúc rừng Thông ba lá ở Lâm Đồng, tác giả đã sơ kết trên những cơ sở tài
liệu lớn, đã đo đạc trên những ô chuẩn có kích thước khác nhau từ 1000 m2 – 10000
m2 đều thấy sự phân bố cây theo cỡ kính, chiều cao, theo tuổi và trong không gian,
đồng thời xây dựng được các quy luật phân bố theo kiểu Ii, Ij, VI của hàm Pearson
cho số cây theo cỡ kính.

Tiếp theo sau đó, các luận văn tốt nghiệp của sinh viên Khoa Lâm nghiệp,
Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây,
bước đầu đã quan tâm và từng bước đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm về cấu trúc
rừng của rừng tự nhiên ở nhiều trạng thái khác nhau … nhưng nhìn chung, các
9


nghiên cứu này còn mang nặng tính lý thuyết, sách vở và chưa được ứng dụng sau
nghiên cứu.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu đạt được của một số tác giả về cấu trúc rừng
sẽ là tài liệu tham khảo quí báu và bổ ích để tác giả học tập, kế thừa và định hướng
nghiên cứu để thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
2.4. Tình hình nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới
Nghiên cứu quá trình tái sinh là một vấn đề đặc biệt được quan tâm trong quá
trình nghiên cứu về đặc điểm lâm học của rừng
Theo Richards (1952), quá trình tái sinh của rừng tự nhiên rất phức tạp, tuy
nhiên sự hiểu biết của con người còn hạn chế mặc dù có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Theo tác giả, cây tái sinh tự nhiên có thời gian ức chế kéo dài ảnh hưởng đến sinh
trưởng của chúng, nếu đạt được chiều cao 2 m thì chúng có khả năng tồn tại và
tham gia vào quần thể rừng. (dẫn theo Nguyễn Cao Cường, 2007)
Khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới ở Châu Á Bara (1954),
Budowski (1956) nhận định: dưới rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ lượng cây tái
sinh có giá trị kinh tế, nên việc đề xuất, xây dựng các biện pháp lâm sinh để bảo vệ
lớp cây tái sinh là cần thiết (dẫn theo Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng
nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống), kiểu tái
sinh này phổ biến ở rừng nguyên sinh và thứ sinh – đối tượng khá phổ biến ở nhiều
nước nhiệt đới.
Khi nghiên cứu cây tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu
ô vuông theo hệ thống mẫu của Lowdermilk (1972), với ô đo đếm điều tra tái sinh

có diện tích từ 1 đến 4 m2. Diện tích ô điều tra nhỏ việc đo đếm thuận lợi nhưng số
lượng ô phải đủ lớn và trải đều trên diện tích khu rừng mới phản ánh trung thực tình
hình tái sinh rừng (dẫn theo Mai Trí Mân, 2007).
2.5. Những nghiên cứu về tái sinh rừng ở Việt Nam
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
mà biểu hiện là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ. Hiểu

10


theo nghĩa hẹp, tái sinh là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ
yếu là tầng cây gỗ.
Tái sinh rừng mưa nhiệt đới có đặc điểm là phân tán liên tục, ngoài ra còn có
tái sinh theo vệt. Rừng nhiệt đới Việt Nam thích hợp với cả hai kiểu tái sinh trên,
ngoài ra còn có cả hiện tượng nảy mầm đồng thời tạo ra một thế hệ rừng tiên phong
thuần loài, như rừng Sau Sau (Hữu Lũng – Lạng Sơn), rừng Bồ Đề (Vĩnh Phú)…
(dẫn theo Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Rừng tự nhiên nước ta tái sinh không theo quy tắc, nên quy luật tái sinh cũng
bị xáo trộn. Do đó, việc nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới rất phức tạp và gặp nhiều
khó khăn.
Từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra – Quy hoạch rừng đã điều tra tái
sinh ở một số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái, Quảng Ninh với sự trợ giúp của
chuyên gia Trung Quốc, ô tiêu chuẩn được lập với diện tích 2000 m2 cho từng trạng
thái rừng. Đo đếm tái sinh trên ô dạng bản có diện tích từ 100 m2 đến 125 m2, kết
hợp điều tra theo tuyến. Từ đó tiến hành phân chia trạng thái rừng và đánh giá tình
hình tái sinh rừng.
Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) khi nghiên cứu về thực vật rừng Việt
Nam đã có kết luận, ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và ảnh hưởng đến quá
trình tái sinh tự nhiên trong rừng.
Trần Ngũ Phương (2000) khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Việt Nam đã nhấn

manh, rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi tầng trên tầng trên già cỗi tàn lụi rồi tiêu
vong tầng kế tiếp sẽ thay thế…
Tóm lại, tái sinh tự nhiên nhiệt đới là một vấn đề rất đa dạng và phong phú.
Quá trình này bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như vị trí địa lý, biện pháp tác động
đến tầng cây cao, nguồn gốc hình thành rừng,… Chính vì thế cho dù hai quá trình
tái sinh có những quy luật nhất định, vốn tồn tại khách quan, nhưng do các tác động
trên làm cho chúng trở nên rất phức tạp. Tái sinh là vấn đề quan trọng, quyết định
đến quá trình kinh doanh rừng bền vững, vì thế nghiên cứu quá trình tái sinh là một
việc không thể thiếu được trong các nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên.

11


Chương 3
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
Theo tài liệu của phòng kỹ thuật - Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh,
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng cung cấp, điều kiện tự nhiên, hiện trạng sử dụng
đất rừng, đặc điểm dân sinh, kinh tế - xã hội có đặc điểm như sau:
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh nằm trên địa bàn hành chính của 6 xã
và 1 thị trấn thuộc huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (xã Phú Hội, Tà Năng, Tân
Hội, Liên Hiệp, Bình thạnh, N’thôn Hạ và thị trấn Liên Nghĩa), có vị trí tọa độ địa
lý, phạm vi ranh giới cụ thể như sau:
- Từ 1080 08’ 01’’ đến 1080 34’ 43’’ độ kinh Đông.
- Từ 110 33’ 47’’ đến 110 48’ 47’’ độ vĩ Bắc.
+ Phạm vi ranh giới:
- Phía Bắc giáp huyện Lâm Hà, huyện Đơn Dương - tỉnh Lâm Đồng.

- Phía Nam giáp xã: Ninh Gia, Tà In, Đà Loan và một phần rừng của xã
Tà Năng - huyện Đức Trọng - tỉnh Lâm Đồng.
- Phía Đông giáp Xã Pró - huyện Đơn Dương.
- Phía Tây giáp thị trấn Đinh Văn - huyện Lâm Hà.
+ Diện tích tự nhiên: 16.056 ha (gồm có 23 tiểu khu) trong đó có:
- Diện tích rừng sản xuất là 13.404 ha
- Diện tích rừng phòng hộ là 2.652ha
3.1.1.2. Địa hình - Đất đai
a. Địa hình

12


Rừng và đất lâm nghiệp ở khu vực nghiên cứu có hệ thống dãy núi cao bao
quanh trải dài theo hướng Đông Bắc sang hướng Tây Nam, đỉnh dông núi là ranh
giới giữa các huyện Đức Trọng và Lâm Hà; huyện Đức Trọng và huyện Đơn
Dương; huyện Đức Trọng và tỉnh Bình Thuận. Địa hình là đồi núi chia cắt mạnh, có
độ dốc từ 100 đến 450, sườn dốc nghiêng về phía Tây và Tây Nam. Độ cao tuyệt đối
của đỉnh cao nhất là 1.398 m, độ cao tuyệt đối của đỉnh thấp nhất là 850 m.
b. Đất đai
Trong khu vực nghiên cứu có các nhóm đất đai sau:
- Nhóm đất phù sa: Được hình thành trên mẫu chất được bồi đắp của các con
sông Đa Nhim, Đạ Queyon và các con suối xung quanh khu vực, thành phần cơ giới
thịt trung bình có màu xám đen, nhóm đất này thích hợp nhiều loại cây trồng như:
bắp, rau, đậu đỗ, mía, dâu, cây ăn trái ...
- Nhóm đất xám bạc màu: Được hình thành trên đá granite, tầng đất mỏng, tỷ
lệ sét thấp, độ dốc trên 200, thoát nước nhanh, loại đất này thích hợp cho các loại rau
màu.
- Nhóm đất đen: Được hình thành trên đá bazan và những sản phẩm bồi tụ
của đá bazan, thành phần cơ giới thịt từ trung bình đến nặng, tầng đất dày, độ phì

cao. Chúng phân bố ở địa hình thấp trũng. Loại đất này phù hợp với các loại cây
trồng như rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất đỏ: Được hình thành trên các loại đá bazan, granite và phiến sét,
tầng đất dày, thành phần cơ giới thịt trung bình đến nặng, loại đất này thích hợp cho
rau màu và cây công nghiệp lâu năm.
- Nhóm đất thung lũng do dốc tụ: Được hình thành và phát triển do quá trình
tích đọng các sản phẩm cuốn trôi từ các vùng đồi núi xung quanh xuống, được phân
bố dưới các thung lũng hẹp và bằng phẳng ven chân đồi núi, loại đất này thích hợp
cho trồng lúa nước, rau màu và dâu tầm.
- Nhóm đất mùn đỏ vàng: Được hình thành trên đá mẹ: andezit granit và
phiến sét, phân bố ở độ cao từ 1.000 m trở lên, thành phần cơ giới thịt trung bình.
Nhìn chung địa hình, đất đai tại khu vực Ban quản lý rừng phòng hộ Đại
Ninh thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp.
13


3.1.1.3. Khí hậu - Thuỷ văn
a. Khí hậu
Khu vực nghiên cứu tại Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh nằm trong khu
vực của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa: Từ tháng 04 đến tháng 10 dương lịch
- Mùa khô: Từ tháng 11 đến đầu tháng 04 năm sau.
- Nhiệt độ bình quân năm: 210C.
- Độ ẩm bình quân tương đối 80 %.
- Lượng mưa bình quân năm: 1.550 mm (thường tập trung vào các tháng 5,
6, 7, 8, 9, 10 dương lịch).
- Chế độ gió: Hàng năm có hai mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió
mùa Tây Nam, tốc độ gió bình quân khoảng 2 m/s - 3 m/s.
b. Thủy văn
Khu vực Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh có mặt nước hồ thủy điện

Đại Ninh rộng 2.000 ha, được đổ về bởi hai con sông Đa Nhim và sông Đa Queyon,
đây là nguồn nước lớn cung cấp nhà máy thủy điện và tưới tiêu cho phần lớn khu
vực.
Nhìn chung những đặc trưng của khí hậu trên là rất thuận lợi cho sự phát
sinh phát triển đất đai và bố trí cây trồng. Nhiệt độ trung bình không cao, chế độ
mưa và độ khô ẩm xen kẽ trong năm là động lực cho quá trình phân hủy và biến đổi
trạng thái vật chất trong đất. Mặt khác, nó là nguồn năng lượng dồi dào cho sự tăng
trưởng của thực vật. Mùa mưa kéo dài, lượng mưa lớn là điều kiện thuận lợi cho
việc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và làm cho khí hậu ở đây mát mẽ hơn.
Ngoài ra, do lượng mưa ở đây tương đối cao, nên tình hình xói mòn và rửa
trôi mạnh, bởi vì địa hình là đồi núi dốc nên làm cho đất bị bạc màu, do đó cần phải
tăng độ che phủ mặt đất, để hạn chế xói mòn và rửa trôi, nhằm tạo cho đất giàu chất
dinh dưỡng bởi những vật rụng của thực vật và làm cho đất có độ ẩm cao.
3.1.1.4. Hiện trạng tài nguyên rừng
Khu vực địa bàn Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh có tổng diện tích tự
nhiên: 16.056 ha (theo Quyết định số 1350/QĐ-UBND, ngày 17/5/2007 của UBND
14


tỉnh Lâm Đồng “V/v Phê duyệt kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng tại tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2006 – 2020) trong đó:
- Đất có rừng : 13.697 ha (rừng gỗ và lồ ô) chiếm 85 % tổng diện tích.
- Đất không có rừng: 2.359 ha (đất trống, đất quy hoạch cho nông nghiệp và
đất khác) chiếm 15 % tổng diện tích.
Tổng trữ lượng rừng là 1.365.957 m3 và 616.000 cây lồ ô
+ Đất rừng sản xuất: Diện tích 13.404 ha trong đó:
* Đất có rừng: 11.594 ha (chiếm 86 % diện tích rừng sản xuất). Trữ lượng
1.276.526 m3 Chia ra:
- Diện tích rừng tự nhiên: Diện tích 9.252 ha, trữ lượng 1.264.816 m3 gồm:
+ Rừng gỗ lá rộng 1.000 ha, trữ lượng 1.14240 m3.

+ Rừng gỗ lá kim (Thông 2, 3 lá) 4.948 ha, trữ lượng 912.504 m3.
+ Rừng gỗ rụng lá (Dầu, Cà chắc…) 908 ha, trữ lượng 28.023 m3.
+ Rừng hỗn giao lá rộng + lá kim 2.108 ha, trữ lượng 202.130 m3.
+ Rừng hỗn giao gỗ + tre nứa 188 ha, trữ lượng 7.919 m3.
- Diện tích rừng trồng (Thông ba lá): 2.342 ha, trữ lượng 11.710 m3.
* Đất không có rừng: 1.810 ha (chiếm 14 % diện tích rừng sản xuất) gồm đất
trống Ia, Ib, Ic; đất quy hoạch cho nông nghiệp và đất khác.
+ Đất rừng phòng hộ lòng hồ Đại Ninh: Diện tích 2.652 ha, trong đó:
* Đất có rừng: 2.103 ha (chiếm 79 % diện tích rừng phòng hộ), trữ lượng
89.431 m3. Chia ra:
- Rừng tự nhiên: Diện tích 1.510 ha, trữ lượng 86.466 m3 gồm có.
+ Rừng gỗ lá rộng 95 ha, trữ lượng 13.560 m3.
+ Rừng gỗ lá kim (Thông 2,3 lá) 238 ha, trữ lượng 11.558 m3.
+ Rừng gỗ rụng lá (Dầu, Cà chắc…) 129 ha, trữ lượng 3.860 m3.
+ Rừng hỗn giao lá rộng + lá kim 1.034 ha, trữ lượng 57.488 m3.
+ Rừng tre nứa 14 ha, trữ lượng 49.000 cây.
- Diện tích rừng trồng (Thông ba lá): 593 ha, trữ lượng 2.965 m3.
* Đất không có rừng: 549 ha (chiếm 21 % diện tích rừng phòng hộ) gồm đất
trống Ia, Ib, Ic; đất quy hoạch cho nông nghiệp và đất khác.
15


3.1.2 Hiện trạng sử dụng đất rừng
Khu vực Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh quản lý, diện tích rừng và đất
lâm nghiệp được quy hoạch theo chức năng của rừng như: rừng phòng hộ, rừng sản
xuất. Từ đó đơn vị còn tổ chức quản lý, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp một cách
hợp lý theo kế hoạch hàng năm đến từng hộ dân, để mỗi người dân là một chủ rừng
thực thụ, nhằm dần dần tiến tới xã hội hoá nghề rừng như: giao khoán quản lý bảo
vệ rừng, giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02/1995 của Chính phủ, khoán rừng và
đất rừng theo Quyết định 178/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ tự đầu tư

hưởng lợi, phát triển rừng (gây trồng rừng ở những nơi đất trống) cụ thể như sau:
a. Giao khoán quản lý bảo vệ rừng
Gồm có 3 chương trình dự án như khoán cho mỗi hộ bình quân dưới 30 ha:
- Giao khoán quản lý bảo vệ rừng chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng:
Tổng diện tích giao khoán là 5.707,88 ha, khoán cho 257 hộ đồng bào dân
tộc tại chỗ và một đơn vị huyện đội.
- Giao khoán quản lý bảo vệ rừng chương trình cây đứng (kế hoạch tỉnh):
Tổng diện tích giao khoán là 1.325,9 ha, khoán cho 52 hộ đồng bào dân tộc
tại chỗ và một tập thể.
- Giao khoán quản lý bảo vệ rừng chương trình dự án Thủy Điện Đại Ninh :
Tổng diện tích giao khoán là 1.314,7 ha, khoán cho 55 hộ đồng bào dân tộc
tại chỗ;
b Giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02/1995/NĐ-CP
Khoán cho 2 tổ chức để đầu tư trồng rừng và quản lý bảo vệ rừng với diện
tích là 291,5 ha;
c. Khoán đất lâm nghiệp (đất không có rừng) theo Quyết định
178/2001/QĐ-TTg
Khoán đất lâm nghiệp cho cho 33 hộ cá nhân và gia đình, tự đầu tư hưởng
lợi theo Quyết định 178/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ với diện tích là
395,7 ha (số liệu đến 31/12/2007).
d Phát triển rừng (Gây trồng rừng)

16


Từ năm 1993 đến 2007 Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh đã trồng được
2.935 ha rừng Thông ba lá ở các chương trình dự án như dự án 5 triệu ha rừng, kế
hoạch tỉnh (nguồn vốn cây đứng), dự án Thủy Điện Đại Ninh, nguyên liệu giấy và
khoán cho 293 hộ (bình quân 10,0 ha/ hộ) trồng và chăm sóc trong 4 năm.
e. Diện tích rừng và đất rừng đơn vị trực tiếp quản lý bảo vệ rừng

Ngoài diện tích giao khoán trên Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh trực
tiếp quản lý diện tích rừng và đất rừng là 4.085,32 ha gồm có: Đất có rừng, đất
không có rừng, và đất rừng bị lấm chiếm làm nương rẫy (đất bị lấn chiếm làm
nương rẫy là 1.800 ha)
Mặc dù, Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh có diện tích khoán cho các hộ
nhận khoán rất lớn, nhưng Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Ninh là một chủ rừng
phải chịu trách nhiệm với các ngành chức năng cấp trên và thường xuyên tuần tra,
kiểm tra với các hộ nhận khoán. Đồng thời hàng quý có biên bản kiểm tra và
nghiệm thu với các hộ nhận khoán, để làm cơ sở thanh lý hợp đồng của từng năm
(đối với giao khoán quản lý bảo vệ rừng và trồng rừng) và hàng tháng đơn vị có báo
cáo tình hình thực hiện và diễn biến về rừng cho cấp trên. Việc giao khoán quản lý
bảo vệ rừng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm với người dân và cũng là tạo thêm
công ăn việc làm cho người dân nghèo có lao động mà thiếu việc làm (chủ yếu đồng
bào dân tộc thiểu số), để góp phần ổn định đời sống của người dân tại chỗ.
3.1.3 Tình hình dân sinh - kinh tế - xã hội
Khu vực nghiên cứu tại Ban quản lý rừng phòng hộ Đại Đinh nằm trên địa
bàn hành chính 6 xã và một thị trấn Liên Nghĩa. Theo số liệu thống kê năm 2006
của phòng thống kê huyện Đức Trọng, khu vực này có tổng số 23.011 hộ với
111.108 khẩu, tổng số lao động là 51.000.
Trong 7 xã nói trên có 3 xã: N’Thôn hạ, Phú Hội, Tà Năng là những xã có
đồng bào dân tộc thiểu số sống tại chỗ nhiều nhất.
Tình hình cơ sở hạ tầng: Tại trung tâm các xã, thị trấn có đường nhựa đi qua,
đường cấp phối liên thôn, điện đường, trường học cấp 1, 2, có trạm xá, bưu điện,
truyền thông, viễn thông và đã có chợ.

17


Do tình hình phát triển kinh tế của đất nước, thời gian qua Nhà nước có
những quan tâm cho những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số về

các chính sách kinh tế - xã hội, nên đời sống của người dân ở khu vực này có thay
đổi và phát triển rõ rệt.
Đa số dân cư trên khu vực nghiên cứu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp,
trình dộ dân trí còn thấp (chủ yếu là dân tộc thiểu số) nên việc áp dụng kỹ thuật vào
sản xuất còn rất hạn chế, do đó hiệu quả kinh tế chưa cao. Riêng người kinh có trình
độ văn hoá tương đối nên họ đã có tiến bộ trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất và kinh doanh.
Trong sản xuất người dân còn gặp nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật, vốn và
nguồn tiêu thụ sản phẩm, giá cả đầu ra nên nguồn thu nhập của họ còn rất bấp bênh,
mặc dù sản phẩm hàng hoá họ tạo ra đạt chất lượng và giá trị cao.
Ngoài ra người dân còn tham gia sản xuất lâm nghiệp, mặc dù đây không
phải là nguồn thu nhập chính nhưng cũng góp phần đáng kể trong việc ổn định cuộc
sống người dân trong vùng qua các công trình giao khoán như: nhận khoán trồng
rừng, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng, quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, các nội dụng nghiên cứu
được thực hiện trong đề tài bao gồm:
+ Cấu trúc tổ thành loài
+ Phân bố số cây theo cấp đường kính (N/D1,3)
+ Phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H)
+ Phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1,3)
+ Tương quan giữa chiều cao và đường kính (H/D1,3)
+ Tình hình tái sinh dưới tán rừng:
+ Độ tàn che của rừng
+ Độ hỗn giao của rừng
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Nội dung thu thập số liệu

18



Số liệu điều tra, thu thập được ghi vào phiếu mẫu theo quy định trong quy
trình điều tra lâm học, cụ thể:
+ Mô tả tình hình chung của lâm phần.
+ Đo đếm các chỉ tiêu D1,3, Hvn, DT, phẩm chất cây, tình hình vật hậu.
+ Vẽ trắc đồ dọc, ngang thể hiện cấu trúc tầng tán rừng và phân bố số cây
trong lâm phần, từ đó xác định độ tàn che của rừng.
+ Điều tra, đánh giá tình hình tái sinh dưới tán rừng.
+ Đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài, kế thừa những tài liệu có sẵn (điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu …), kế thừa thành quả nghiên cứu của
các tác giả đi trước làm cơ sở lựa chọn hướng nghiên cứu đơn giản, phù hợp với đối
tượng nghiên cứu.
- Trên cơ sở tài liệu thu thập được về diện tích đất đai và bản đồ hiện trạng
tài nguyên rừng, tiến hành điều tra, khảo sát sơ bộ khu vực nghiên cứu.
3.3.2.1. Phương pháp điều tra
* Lập ô tiêu chuẩn:
Áp dụng các quy trình điều tra trong các công tác ngoại nghiệp để điều tra
trên các ô mẫu điển hình. Đề tài tiến hành lập 3 ô tiêu chuẩn tạm thời theo phương
pháp điều tra lâm học, diện tích mỗi ô là 2000 m2 (40 m x 50 m). Số lượng ô mẫu
cho trạng thái này là 3 ô.
* Điều tra tầng cây cao (cây gỗ lớn):
Cây gỗ lớn (cây đứng) được quy định ở đây là những cây có đường kính
ngang ngực (D1,3) lớn hơn hoặc bằng 8 cm (kí hiệu ≥ 8 cm). Xác định tên loài và các
chỉ tiêu sinh trưởng của tầng cây gỗ, loài nào chưa rõ ghi ký hiệu sp1, sp2.
- Đường kính ngang ngực (D1,3, cm) được đo bằng thước mét dây và ghi số
hiệu cây ở vị trí 1,3 m. Đo toàn bộ cây đứng có đường kính D1,3 ≥ 8 cm.
- Chiều cao vút ngọn (Hvn, m) và chiều cao dưới cành (Hdc, m) được đo bằng bằng
gậy đo cao kết hợp mục trắc. Chiều cao Hvn của cây rừng được xác định từ gốc cây đến


19


đỉnh sinh trưởng của cây. Chiều cao Hdc được xác định từ gốc cây đến cụm cành đầu tiên
tham gia vào tán của cây rừng.
- Đường kính tán lá (DT, m) được đo bằng thước mét dây. Đo hình chiếu tán lá
trên mặt phẳng ngang theo hai hướng Đông Tây và Nam Bắc, sau đó tính trị số bình
quân.
- Xác định phẩm chất cây: phẩm chất cây phân theo ba loại a, b,c và ghi chú
tình hình dây leo ảnh hưởng trực tiếp đến cây đứng.
+ Loại a: Cây thân thẳng, phát triển tốt, tán cân đối, không có hiện tượng
sam bọng, sâu bệnh, cụt ngọn, hai thân.
+ Loại b: Thân cong, phát triển trung bình, tán mất cân đối, không có hiện
tượng sam bọng, sâu non.
+ Loại c: Thân cong queo, phát triển kém, cụt ngọn, có từ hai thân trở lên, có
hiện tượng sam bọng, sâu bệnh.
- Kết quả đo được thống kê vào phiếu điều tra tầng cây gỗ lớn.
* Xác định độ tàn che:
Dùng phương pháp vẽ trắc đồ rừng theo phương pháp của David và Richards
(1934), biểu diễn trên giấy kẻ ô ly với dải rừng có diện tích 500 m2 (10 m x 50 m), vẽ
với tỷ lệ 1/200. Sử dụng các yếu tố đã xác định để vẽ như: chiều cao, đường kính,
đường kính tán, chiều dài tán lá, và xác định toạ độ từng cây, sau đó tính diện tích
tán che trên giấy kẻ ly, tính tỷ lệ %.
* Điều tra cây tái sinh:
Trong ô tiêu chuẩn 2000 m2, tiến hành lập 4 ô dạng bản, diện tích của mỗi ô
dạng bản là 25 m2 (5 m x 5 m) được thiết kế ở 4 góc của ô tiêu chuẩn. Thống kê tất
cả cây tái sinh vào phiếu điều tra cây tái sinh theo các chỉ tiêu:
+ Tên loài cây tái sinh
+ Đo chiều cao cây tái sinh bằng sào khắc vạch có độ chính xác đến cm.

+ Điều tra số lượng cây tái sinh.
+ Số liệu điều tra được ghi biểu riêng cho từng ô dạng bản.

20


×