Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA2 TẠI TIỂU KHU 225 BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ YALY HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.99 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC
RỪNG TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA2 TẠI TIỂU KHU 225
BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ YALY
HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN THỊ THÙY LÂM
Ngành: Lâm nghiệp
Niên khóa: 2005 - 2009

Tháng 07/2009


BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG
TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIIA2 TẠI TIỂU KHU 225, BAN QUẢN LÝ
RỪNG PHÒNG HỘ YALY, HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

Tác giả

NGUYỄN THỊ THÙY LÂM

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
Cấp bằng Kỹ sư ngành
LÂM NGHIỆP

Giáo viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Minh Cảnh



Tháng 07 năm 2009
2


LỜI CẢM ƠN
Để có được thành quả như ngày hôm nay, tôi xin chân thành cảm ơn công ơn
nuôi dưỡng và động viên của Cha, Mẹ trong suốt quá trình học tập.
Nhân dịp này, tôi cũng xin chân thành cảm ơn:
Quý Thầy Cô giáo Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh,
cùng Thầy Cô giáo tại Phân hiệu Gia Lai, Thầy Cô giáo Khoa Lâm nghiệp đã tận
tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Minh Cảnh đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Cảm ơn tất cả bạn bè trong và ngoài lớp, đặc biệt là bạn Hoàng Nam Thao,
đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thời gian thực hiện ngoại nghiệp.
Chân thành cảm ơn!
Tp.HCM, tháng 07 năm 2009
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thùy Lâm

i


TÓM TẮT
Nguyễn Thị Thùy Lâm, sinh viên Khoa Lâm nghiệp phân hiệu Gia Lai,
Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài: “Bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên
trạng thái IIIA2 tại tiểu khu 225, Ban quản lí rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư

Păh, tỉnh Gia Lai” được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 03 năm 2009
đến tháng 05 năm 2009.
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Minh Cảnh
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng các quy trình điều tra trong công tác
ngoại nghiệp. Thu thập số liệu trên các ô tiêu chuẩn tạm thời. Sử dụng phần mền
Excel 2003 hoặc Statgraphics Plus 15.1 để xử lý số liệu thu thập.
Kết quả nghiên cứu bao gồm những nội dung chính sau:
1. Kết cấu tổ thành loài
Số loài thực vật thống kê được ở trạng thái rừng IIIA2 tại khu vực nghiên cứu
là 30 loài. Loài chiếm tổ thành cao nhất lần lượt là Giẻ, Trâm, Bứa, Bời lời, Trường vải,
Sơn huyết. Công thức tổ thành: 0,1867 Gi + 0,1267 Tr + 0,0629 Bu + 0,0537 Bl +
0,0535 Trg + 0,0517 Sh + 0,4648 Lk.
2. Độ hỗn giao
Với K = 0,074 cho thấy độ hỗn giao của rừng là khá thấp.
3. Phân bố số cây theo cấp đường kính (N/D1,3)
Phân bố cây theo cấp đường kính của lâm phần IIIA2 là một phân bố giảm
theo hàm Meyer. Phương trình cụ thể: LnN = 4,84201 – 0,121824*D1,3 hay N =
126,72.e-0,121824*D1,3. Số cây tập trung lớn nhất ở cấp kính từ 8 – 16 cm chiếm 66,59
%. Đường kính bình quân lâm phần D = 16,4 cm.
4. Phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H)

ii


Đường biểu diễn phân bố số cây theo cấp chiều cao có dạng hàm Korsun.
Phương trình cụ thể: Ln(N%) = – 28,3127 + 28,3302*LnH – 6,45213*(LnH)2. Chiều
cao bình quân lâm phần H = 15,7 m, hệ số biến động Cv = 20,34 %.
5. Phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1,3)
Trữ lượng phân bố không đều ở các cấp đường kính, chủ yếu tập trung ở các
cấp kính đầu tiên và ở giữa lâm phần. Trữ lượng bình quân lâm phần tại khu vực

nghiên cứu là: M = 132,77 m3/ha.
6. Tương quan giữa chiều cao và đường kính (H/D1,3)
Giữa chiều cao và đường kính của rừng tự nhiên ở trạng thái IIIA2 tại khu
vực nghiên cứu có mối tương quan chặt (r = 0,75). Phương trình cụ thể:
H = (2,0022 + 0,711899*Ln(D1,3))2
7. Phân bố của lớp cây tái sinh dưới tán rừng
Mật độ cây tái sinh là cây 5868 cây /ha, trong đó số cây có triển vọng là 5333
cây/ha chiếm 90,9 %. Các loài cây tái sinh chủ yếu là Giẻ, Giổi, Bời lời, Bứa, Trâm
và Re.
8. Độ tàn che
Độ tàn che trung bình của lâm phần trạng thái IIIA2 tại khu vực nghiên cứu
là 0,65 (65 %).

iii


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn-------------------------------------------------------------------------------------- i
Tóm tắt ------------------------------------------------------------------------------------------ii
Mục lục----------------------------------------------------------------------------------------- iv
Danh sách các chữ viết tắt ------------------------------------------------------------------- vi
Danh sách các bảng-------------------------------------------------------------------------- vii
Danh sách các hình ------------------------------------------------------------------------- viii
CHƯƠNG 1.MỞ ĐẦU -----------------------------------------------------------------------1
1.1. Đặt vấn đề ---------------------------------------------------------------------------------1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ---------------------------------------------------------------------3
1.3. Phạm vi nghiên cứu ----------------------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ---------------------------------------------5
2.1. Khái niệm cấu trúc rừng -----------------------------------------------------------------5

2.2. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên có liên quan -------------------------5
2.2.1.Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng trên thế giới ------------------------------5
2.2.2.Tình hình nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới----------------------------8
2.2.3.Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng ở Việt Nam -------------------------------9
2.2.4.Tình hình nghiên cứu tái sinh rừng ở Việt Nam ------------------------------ 12
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ------------------------------------------------------------------------------ 14
3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu -------------------------------------------------------- 14
3.2. Nội dung nghiên cứu------------------------------------------------------------------- 21
3.3. Phương pháp nghiên cứu -------------------------------------------------------------- 21
3.3.1. Cơ sở phương pháp luận -------------------------------------------------------- 21
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu--------------------------------------------------- 22
3.3.3. Nội dung điều tra và các biện pháp kỹ thuật --------------------------------- 22

iv


3.3.4. Phương pháp phân tích số liệu ------------------------------------------------- 24
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN------------------------- 30
4.1. Kết cấu tổ thành loài ------------------------------------------------------------------- 30
4.2. Độ hỗn giao của rừng ----------------------------------------------------------------- 32
4.3. Phân bố số cây theo cấp đường kính (N/D1.3) -------------------------------------- 32
4.4. Phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H) ------------------------------------------- 37
4.5. Phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1.3) ---------------------------------- 40
4.6. Tương quan giữa chiều cao H và đường kính D1.3 --------------------------------- 43
4.7. Phân bố của lớp cây tái sinh ---------------------------------------------------------- 45
4.8. Độ tàn che của rừng ------------------------------------------------------------------- 47
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ------------------------------ 49
5.1. Kết luận ---------------------------------------------------------------------------------- 49
5.2. Tồn tại------------------------------------------------------------------------------------ 50

5.3. Kiến nghị -------------------------------------------------------------------------------- 51
* Tài liệu tham khảo------------------------------------------------------------------------- 52
* Phụ biểu
* Phiếu nhận xét của giáo viên hướng dẫn
* Phiếu nhận xét của giáo viên phản biện

v


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL: Ban quản lý
BVR: Bảo vệ rừng
Cv%: Hệ số biến động, %
D1,3: Đường kính thân cây tại tầm cao 1,3 m, cm
D1,3_tn: Đường kính 1,3 m thực nghiệm, cm
D1,3_lt : Đường kính 1,3 m tính theo lý thuyết, cm
Ex: Hệ số biểu thị độ nhọn của phân bố
H: Chiều cao cây, m
Hvn: Chiều cao vút ngọn, m
H_tn: Chiều cao thực nghiệm, m
H_lt: Chiều cao lý thuyết, m
Hdc: Chiều cao dưới cành, m
G: Tiết diện ngang thân cây, m2
Log: Logarit thập phân (cơ số 10)
Ln: Logarit tự nhiên (cơ số e)
LRTX: lá rộng thường xanh
M: Trữ lượng rừng, m3
N_tn: Phần trăm số cây thực nghiệm
N_lt: Phần trăm số cây tính theo lý thuyết
P: Mức ý nghĩa (xác suất)

r: Hệ số tương quan
R: Biên độ biến động
R2: Hệ số xác định
S: Độ lệch tiêu chuẩn
S2: Phương sai mẫu
Sk: Hệ số biểu thị độ lệch của phân bố
Sy/x:Sai số của phương trình hồi quy
Tk: Tiểu khu

vi


DANH SÁCH CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Diện tích các loại đất tại Ban quản lí rừng phòng hộ ---------------------- 20
Bảng 4.1. Tổ thành loài thực vật trạng thái rừng IIIA2 tại tiểu khu 225, Ban quản lý
rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai ------------------------------------- 30
Bảng 4.2. Phân bố số cây theo đường kính (N/D1,3) trạng thái rừng IIIA2 và các đặc
trưng mẫu ------------------------------------------------------------------------------------ 34
Bảng 4.3. Bảng so sánh các chỉ số thống kê từ các hàm thử nghiệm (N/D1,3) ------ 34
Bảng 4.4. Phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H) trạng thái rừng IIIA2 và các đặc
trưng mẫu ------------------------------------------------------------------------------------- 37
Bảng 4.5. Bảng so sánh các chỉ số thống kê từ các hàm thử nghiệm (N/H) --------- 38
Bảng 4.6. Phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1,3) --------------------------- 41
Bảng 4.7. Bảng so sánh các chỉ số thống kê từ các hàm thử nghiệm (H/D1,3) ------ 43
Bảng 4.8. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng tại khu vực nghiên cứu --------- 46
Bảng 4.9. Phân bố của lớp câytái sinh dưới tán tại khu vực nghiên cứu---------------- 46

vii



DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 4.1. Biểu đồ biểu diễn tỷ lệ tổ thành loài thực vật trạng thái IIIA2 tại tiểu khu
225, Ban quản lý rừng phòng hộ Yaly, tỉnh Gia Lai ------------------------------------ 31
Hình 4.2. Đồ thị biểu diễn phân bố N/D1,3 từ các hàm thử nghiệm ------------------- 35
Hình 4.3. Biểu đồ phân bố % số cây theo cấp đường kính (N/D1,3) ------------------ 36
Hình 4.4. Đồ thị biểu diễn phân bố N/H từ các hàm thử nghiệm --------------------- 38
Hình 4.5. Biểu đồ phân bố % số cây theo cấp chiều cao (N/H) ----------------------- 39
Hình 4.6. Biểu đồ biểu diễn phân bố trữ lượng theo cấp đường kính D1,3 của trạng
thái rừng IIIA2 tại khu vực nghiên cứu --------------------------------------------------- 42
Hình 4.7. Biểu đồ biểu diễn quy luật tương quan giữa H và D1,3 của trạng thái rừng
IIIA2 tại khu vực nghiên cứu --------------------------------------------------------------- 44
Hình 4.8. Biểu đồ phân bố % số cây tái sinh theo cấp chiều cao --------------------- 47

viii


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, nó có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với con người, là bộ máy tái tạo khí ôxi nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn
của các loài sinh vật trên trái đất, nơi cư trú và tạo môi trường sống cho con người
và các sinh vật khác, là nguồn cung cấp nguyên liệu cho rất nhiều ngành sản xuất,
kho dược liệu phong phú của nhân loại. Rừng còn thể hiện ở tác dụng phòng hộ,
bảo vệ môi trường, tham quan du lịch, nghiên cứu khoa học, vui chơi giải trí và khả
năng bảo vệ di tích lịch sử.
Rừng phân bố không đồng đều trên các châu lục cả về diện tích cũng như
thể loại. Cùng với sự phát triển của nhân loại và sự gia tăng dân số trên thế giới,
rừng ngày càng bị thu hẹp lại do con người phá hoại rừng để khai thác nguyên liệu

phục vụ sản xuất, mở rộng đất để trồng cây nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ
sở hạ tầng phục vụ đô thị hoá …
Nước ta trải qua nhiều năm đô hộ của thực dân xâm lược, cùng với quá trình
đô thị hóa, dân số tăng nhanh, làm cho nhiều diện tích rừng bị khai thác, tàn phá.
Trước năm 1945, độ che phủ của rừng tính trên phạm vi cả nước là 43 %, thì đến
năm 1990 chỉ còn lại 28,4 %, làm tăng các ảnh hưởng bất lợi của môi trường sống
đối với con người như bão, lũ, hạn hán, ô nhiễm không khí và gần đây nhất là vấn
đề môi trường và sự nóng lên của bầu khí quyển đang có nguy cơ đe dọa tính mạng
của nhân loại. Theo kết quả của chương trình "Tổng kiểm kê toàn quốc, tháng
1/2001", tính đến năm 2000, nước ta có khoảng 10,9 triệu ha rừng, trong đó bao
gồm 9,4 triệu ha rừng tự nhiên kể cả những rừng nghèo đã được phục hồi và 1,5
triệu ha rừng trồng, với độ che phủ chung của cả nước là 33,2 % đất tự nhiên. Tuy
diện tích rừng có tăng nhưng chất lượng ngày càng giảm sút. Trong số đó, rừng

1


giàu chiếm khoảng 30 %, rừng trung bình khoảng 35 %, còn lại là rừng phục hồi
(nguồn Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 2001). Đặc biệt miền Bắc Việt Nam
là nơi có độ che phủ rừng suy giảm nhiều nhất, diện tích rừng nguyên sinh giảm từ
95 % xuống còn 17 % trong vòng 48 năm. Từ 1995 đến 1999, ở 4 tỉnh Tây Nguyên
có hơn 18.500 ha rừng bị khai phá, nhiều nơi trở thành đất hoang cằn cỗi. Đến nay,
cả nước có hơn 33 triệu ha đất trống đồi núi trọc. Độ che phủ của rừng phòng hộ
đầu nguồn chỉ còn 20 % so với mức báo động là 30 %. Trước đây, Tây Nguyên và
miền Nam rất ít xảy ra những trận lụt và úng kéo dài nhưng trong những năm gần
đây lũ lụt thường xuyên xảy ra ở khắp các vùng trong cả nước, từ Bắc tới Nam, gây
ra nhiều thiệt hại về người và của (nhà cửa, hoa màu, súc vật, đường xá, cầu cống,
nhiều cơ sở hạ tầng bị nước lũ cuốn trôi), gây tổn thất hàng nghìn tỉ đồng. Vấn đề
được đặt ra là: Vì sao nhân loại ngày càng phải đối đầu nhiều hơn với các thiên tai
như lụt lội, bão tố, và ô nhiễm môi trường ? Phải chăng mọi việc tương tự như các

động vật thuộc Sách Đỏ dù được cảnh báo và xử lý cực kỳ nghiêm khắc tại nhiều
quốc gia vẫn dần biến mất khỏi hành tinh này ? Hậu quả của việc gieo trồng không
hiệu quả và khai thác kiểu tàn diệt đã và đang làm cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng.
Tài nguyên thiên nhiên dẫu có dồi dào đến đâu cũng sẽ cạn kiệt nếu con người sử
dụng tùy tiện và không tái đầu tư và phát triển rừng hợp lý. Do vậy, nhất thiết cần
có một cái nhìn toàn cục cho việc phát triển kinh tế khi hoạch định các nguồn tài
nguyên quốc gia mà trong đó rừng luôn đóng vai trò quan trọng trong sự tồn vong
của hệ sinh thái.
Trước thực trạng này, để phục hồi, nuôi dưỡng, tiếp tục phát triển những
diện tích rừng hiện còn và trồng thêm nhiều ha rừng góp phần phủ xanh đất trống
đồi núi trọc, trong những năm qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
trực tiếp điều khiển các hoạt động liên quan đến khai thác và quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên như luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật khoáng sản, Luật tài
nguyên nước … Nhiều nỗ lực khôi phục rừng đã được tiến hành, tuy nhiên nước ta
là nước nghèo, dân số đông, để đảm bảo cuộc sống hàng ngày con người vẫn tiếp
tục khai thác, dẫn đến nhiều diện tích rừng bị suy thoái trở nên nghèo kiệt, những

2


khu rừng đầu nguồn bị tàn phá mạnh. Ước tính tỉ lệ mất rừng hàng năm là 120.000
– 150.000 ha (www.thiennhien.net).
Mặc dù chương trình 5 triệu ha rừng đã hoàn thành, tốc độ trồng rừng đẩy
nhanh mức độ mong muốn là 300.000 ha/ năm thì cũng chưa bù đắp được diện tích
rừng bị thiệt hại. Do đó, việc bảo vệ và khôi phục nguồn tài nguyên rừng để đảm
bảo cân bằng sinh thái môi trường, bảo tồn tính đa dạng sinh học là một việc làm
hết sức cấp bách và cần thiết phải thực hiện. Nhiệm vụ đặt ra cho các nhà lâm
nghiệp là nghiên cứu và đề xuất các biện pháp bảo vệ, nuôi dưỡng khôi phục rừng
tự nhiên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về gỗ, củi và bảo vệ môi trường sống cho
con người. Đây cũng chính là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lâm nghiệp.

Để công tác tổ chức, quản lý và bảo vệ rừng, phục hồi rừng có hiệu quả cần
phải có những hiểu biết sâu sắc về các đặc trưng của cấu trúc rừng nhằm lựa chọn
và đề ra các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp và hiệu quả. Với mong muốn
đóng góp một phần công sức vào công cuộc chung của đất nước, trong khuôn khổ
một khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Minh
Cảnh, Bộ môn Quản lý tài nguyên rừng – Khoa Lâm nghiệp – Trường Đại học
Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, đề tài: “Bước đầu nghiên cứu một số đặc
điểm cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA2 tại tiểu khu 225, Ban quản lý
rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư păh, tỉnh Gia Lai” được thực hiện trong
khoảng thời gian từ tháng 02 đến tháng 07 năm 2009.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA2
tại Ban quản lí rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Trên cơ sở đó đề
xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp nhằm góp phần phục vụ cho công
tác quản lý bảo vệ rừng tại khu vực nghiên cứu theo hướng tích cực.
1.3. Phạm vi và giới hạn ngiên cứu
Do điều kiện về trình độ cũng như thời gian có hạn, đề tài chỉ thực hiện ở
một số diện tích rừng điển hình trạng thái IIIA2 tại tiểu khu 225 thuộc Ban quản lý
rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Đề tài chỉ giới hạn trong việc
nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tổ thành loài, độ hỗn giao của rừng, phân bố

3


số cây theo cấp đường kính D1,3, phân bố số cây theo cấp chiều cao, phân bố trữ
lượng theo cấp đường kính D1,3, tương quan giữa chiều cao và đường kính D1,3,
đánh giá tình hình tái sinh dưới tán rừng và xác định độ tàn che của rừng.
Do hạn chế nhất định về mặt thời gian, trình độ chuyên môn, nhất là sự phức tạp và
phong phú về mặt lâm học của rừng tự nhiên nhiệt đới Việt Nam nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót khi đưa ra những nhận định và đánh giá chung về cấu trúc rừng tại khu vực

nghiên cứu nên đây chỉ là kết quả bước đầu nhằm góp phần vào việc tìm hiểu một số đặc điểm
cấu trúc rừng tại tiểu khu 225 thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ Yaly, huyện Chư Păh, tỉnh
Gia Lai. Vì vậy rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô giáo và bạn bè cùng
chuyên môn để đề tài này được hoàn chỉnh hơn.

4


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên
quần thể thực vật rừng theo không gian và thời gian. Phân bố của quần thể thực vật
trong không gian biểu hiện ở hai khía cạnh: theo chiều thẳng đứng (tính thành tầng,
tầng phiến) và theo chiều nằm ngang của rừng (trạng thái khảm).
Cấu trúc tổ thành: Tổ thành là nhân tố diễn tả số loài tham gia và số cá thể
của từng loài trong thành phần tầng cây gỗ của rừng. Hiểu một cách khác, cấu trúc
tổ thành loài cho biết sự tổ hợp và mức độ tham gia của các loài cây khác nhau trên
cùng đơn vị diện tích.
Cấu trúc tầng thứ: Sự phân bố theo không gian của tầng cây gỗ theo chiều
thẳng đứng, phụ thuộc vào đặc tính sinh thái học, nhu cầu ánh sáng của các loài
tham gia tổ thành. Cấu trúc tầng thứ của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới thường
nhiều tầng thứ hơn các hệ sinh thái rừng ôn đới.
Độ tàn che: Là mức độ che phủ của tán cây. Người ta thường phân chia theo
các mức từ: 0,1; 0,2;...0.9;1.
Độ che phủ: Là tỷ lệ diện tích rừng trên một đơn vị diện tích hay lãnh thổ.
2.2. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng có liên quan
2.2.1. Tình hình nghiên cứu về cấu trúc rừng trên thế giới
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng nói chung và rừng
nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình nghiên cứu công

phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Các nhà khoa học lâm
nghiệp đã đưa ra nhiều khái niệm “cấu trúc rừng” được xác định bằng nhiều
phương pháp khác nhau, phục vụ cho nhiều mục tiêu nghiên cứu khác nhau.

5


Theo P.W.Richard (1939) “cấu trúc” có nghĩa là phân bố cây rừng theo tầng
theo chiều thẳng đứng (Dẫn theo Phạm Vũ Phượng Trâm, 2008).
Theo Meyer (1952); Turnbull (1963), “cấu trúc” dùng để chỉ rõ sự phân bố
cây gỗ theo cấp kính hoặc là phân bố tiết diện ngang thân cây theo cấp đường kính
(dẫn theo Hoàng Sĩ Động, 2002).
Theo Prodan (1952) nghiên cứu quy luật phân bố rừng, chủ yếu theo đường
kính D1,3 có liên hệ với giai đoạn phát dục của rừng và các biện pháp kinh doanh.
Theo ông, sự phân bố số cây theo đường kính có giá trị đặc trưng nhất cho rừng,
đặc biệt là rừng tự nhiên hỗn loài, nó phản ánh được các đặc điểm lâm sinh của
rừng (Dẫn theo Nguyễn Minh Cảnh, 2003). Những quy luật phân bố mà ông xác
định được ở rừng tự nhiên đã được kiểm chứng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Đó là
phân bố đường kính của rừng tự nhiên có quy luật một đỉnh lệch trái, số cây tập
trung rất nhiều ở các cấp kính nhỏ do bởi có nhiều loài, nhiều thế hệ cùng tồn tại.
Song ở các cỡ kính lớn chỉ có một số loài nhất định do bởi đặc tính sinh học là cây
gỗ lớn hay do nhờ vị trí thuận lợi trong rừng chúng mới có khả năng tồn tại và phát
triển. Về phân bố chiều cao, rừng tự nhiên thường có quy luật nhiều đỉnh do có
nhiều thế hệ cùng tồn tại hay do khai thác chọn không đúng quy tắc và giới hạn
đường cong phân bố nhiều đỉnh là phân bố giảm đặc trưng cho rừng chặt chọn
không đều tuổi
Kraft (1884) tiến hành phân chia cây rừng thành 5 cấp dựa vào khả năng
sinh trưởng, kích thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh
được tình hình phân hóa cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản dễ áp
dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loại đều tuổi (Dẫn theo Nguyễn Văn

Thêm, 1992).
Richards P.W (1968) đi sâu vào nghiên cứu rừng mưa nhiệt đới về mặt hình
thái. Ông cho rằng đặc trưng nổi bật của “Rừng mưa nhiệt đới”. Là tuyệt đại bộ
phận thực vật thân gỗ đều có lá rộng thường xanh, ưa ẩm, thân có bạnh vè, hoa quả,
ngoài ra còn có một số thực vật ở miền ôn đới. “Rừng mưa thực sự là một quần lạc
hoàn chỉnh và cầu kì nhất về mặt cấu tạo và cũng phong phú nhất về mặt loài cây”.

6


Mặt khác, ông cũng cho rằng: “Một quần xã thực vật gồm những loài cây có hình
dạng khác nhau, dạng sống khác nhau nhưng tạo ra một hoàn cảnh sinh thái nhất
định và được sắp xếp một cách tự nhiên và hợp lý trong không gian”. Theo
Richards P.W cách sắp xếp được xem xét theo hướng thẳng đứng và hướng nằm
ngang, cách sắp xếp này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt với các quần xã
thực vật khác và có thể mô tả bằng các biểu đồ. Các biểu đồ mặt cắt có giá trị
không những mô tả được cấu trúc tầng tán mà còn là những chỉ dẫn cho các nhà
lâm sinh lựa chọn các biện pháp kỹ thuật thích hợp tác động vào rừng, nhằm giúp
cho rừng có một cấu trúc bền vững và ổn định.
Các nhà khoa học khi nghiên các quy luật kết cấu lâm phần đã sử dụng
nhiều hàm toán học và các phương pháp khác nhau (Dẫn theo Tô Quang, 2008):
- Rollet B. L. (1971) đã biểu diễn mối quan hệ chiều cao và đường kính
bằng hàm hồi quy, phân bố đường kính ngang ngực, đường kính tán bằng các dạng
phân bố xác suất. Belly (1973) sử dụng hàm Weibul để mô hình hóa cấu trúc
đường kính thân cây loài Thông … Tuy nhiên, việc sử dụng các hàm toán học
không thể phản ánh hết những mối quan hệ sinh thái giữa các cây rừng với nhau và
giữa chúng với hoàn cảnh xung quanh.
- Schiffel là tác giả đầu tiên nghiên cứu về phân bố số cây theo cấp đường
kính trung bình trong lâm phần rừng cây lá rộng và biểu hiện chúng theo phân bố
giảm của số cây theo cấp độ dày. Phương pháp xác định phần trăm số cây trong sự

tương quan với cấp đường kính, theo tác giả đã nhận được sự phù hợp với chỉ tiêu
điều tra rừng.
- Giáo sư A.V.Tiurin (1945) đưa ra tương quan số cây phân bố theo cấp
đường kính từ nhỏ tới lớn và cũng chỉ ra sự phân bố đó là ổn định trong lâm phần.
Và ông cũng chỉ ra rằng nó không phụ thuộc vào loài cây, cấp lập địa và độ dày của
lâm phần.
Theo Wenk (1995), nghiên cứu cấu trúc của một loại hình rừng mục đích
không những đánh giá được hiện trạng rừng qua các quy luật phân bố số cây theo
chiều cao H (cấu trúc đứng), theo đường kính D1,3, theo tổng diện ngang G (cấu

7


Để mô tả cấu trúc ngoại mạo và thành phần loài cây, sử dụng phương pháp
vẽ biểu đồ trắc diện David và Richards đề ra năm 1933 - 1934 trong khi nghiên cứu
thảm thực vật ở Moraballi của Guyana thuộc nước Anh (Tập san sinh thái, số 21,
trang 350 - 384 và số 22, trang 406 - 455), là một phương pháp có giá trị nhất về
mặt nghiên cứu lý luận thực tiễn sản xuất (dẫn theo Phạm Vũ Phượng Trâm, 2008).
2.2.2. Tình hình nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới
Nghiên cứu quá trình tái sinh cũng là một vấn đề đặc biệt được quan tâm
trong quá trình nghiên cứu về đặc điểm lâm học của rừng. Mặc dù, trong ngành lâm
nghiệp thế giới đã hình thành xu thế thay thế rừng tự nhiên bằng rừng nhân tạo
năng suất cao hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Nhưng sau thất bại về tái
sinh nhân tạo ở và một số nước nhiệt đới mà Beard (1947) đã gọi là “bệnh sởi trồng
rừng” vì thiếu nhân tố sinh thái học, các nhà khoa học đã nghĩ tới việc quay lại với tái sinh tự
nhiên. (dẫn theo Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005)
Theo Richards (1952), quá trình tái sinh của rừng tự nhiên rất phức tạp, tuy
nhiên sự hiểu biết của con người còn hạn chế mặc dù có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Theo tác giả, cây tái sinh tự nhiên có thời gian ức chế kéo dài ảnh hưởng đến sinh
trưởng của chúng, nếu đạt được chiều cao 2 m thì chúng có khả năng tồn tại và

tham gia vào quần thể rừng. (dẫn theo Nguyễn Cao Cường, 2007)
Khi nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy tầng cỏ và tầng cây bụi, quá
trình sinh trưởng thu nhận ánh sáng, các chất dinh dưỡng sẽ làm ảnh hưởng đến cây
tái sinh. Những lâm phần thưa, rừng đã bị khai thác nhiều, tạo ra nhiều khoảng
trống lớn, tạo điều kiện cho thảm tươi và cây bụi phát triển mạnh. Trong điều kiện
đó chúng sẽ là nhân tố cản trở sự phát triển và khả năng sinh tồn của cây tái sinh.
Nếu lâm phần kín, đất khô, nghèo dinh dưỡng cây bụi thảm tươi phát triển chậm sẽ
tạo điều kiện cho cây tái sinh vươn lên (Xannikow, 1967, Vipper, 1973) (dẫn theo
Nguyễn Văn Thêm 1992).
Khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới ở Châu Á Bara (1954),
Budowski (1956) nhận định: dưới rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ lượng cây tái

8


Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai dặc điểm tái sinh phổ biến của rừng
nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống), kiểu tái
sinh này phổ biến ở rừng nguyên sinh và thứ sinh – đối tượng khá phổ biến ở nhiều
nước nhiệt đới (dẫn theo Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Khi nghiên cứu cây tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu
ô vuông theo hệ thống mẫu của Lowdermilk (1972), với ô đo đếm điều tra tái sinh
có diện tích từ 1 đến 4 m2. Diện tích ô điều tra nhỏ việc đo đếm thuận lợi nhưng số
lượng ô phải đủ lớn và trải đều trên diện tích khu rừng mới phản ánh trung thực
tình hình tái sinh rừng (dẫn theo Mai Trí Mân, 2007).
2.2.3. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng ở Việt Nam
Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Vì vậy việc sử dụng
rừng hợp lý là rất cấp thiết để bảo tồn nguồn tài nguyên này. Trong nuôi dưỡng, tái
sinh, phục hồi rừng, nghiên cứu về cấu trúc rừng và phân loại rừng là hướng đi hiệu
quả. Rừng tự nhiên nước ta thuộc kiểu rừng nhiệt đới, rất phong phú đa dạng về
thành phần loài, phức tạp về cấu trúc. Công tác nghiên cứu rừng ở Việt Nam thực

sự mới được tiến hành khi người Pháp tiến hành khai thác thuộc địa ở nước ta.
Năm 1918, nhà bác học người Pháp, Chevalier là người đầu tiên đã đưa ra
một bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc Bộ Việt Nam (đây được xem là bảng
phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng
phân loại này, rừng ở miền Bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu.
Năm 1943, kỹ sư lâm học người Pháp, Maurand đã chia Đông Dương thành
3 vùng thảm thực vật:
Thảm thực vật Bắc Đông Dương.
Thảm thực vật Nam Đông Dương.
Thảm thực vật vùng trung gian.
Theo bảng phân loại này vùng Đông Dương có 8 kiểu rừng.
Năm 1953, ở miền Nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật
rừng miền Nam Việt Nam của Maurand là tổng kết về các công trình nghiên cứu

9


Năm 1960, bảng phân loại đầu tiên của Cục điều tra và quy hoạch rừng
thuộc ngành Lâm nghiệp, về thảm thực vật rừng ở Việt nam là bản phân loại tổng
Cục Lâm nghiệp Việt Nam, theo bảng phân loại này, rừng trên toàn lãnh thổ Việt
nam được chia làm 4 loại hình lớn:
Loại I: Đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần phải
trồng rừng.
Loại II: Gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc tỉa
thưa.
Loại III: Gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh nên trở thành
nghèo kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái
sinh, tu bổ, cải tạo.
Loại IV: Gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa bị
phá hoại, cần khai thác hợp lý.

Phân loại này không phân biệt được kiểu rừng nguyên sinh với các kiểu phụ
thứ sinh và các giai đoạn diễn thế.
Năm 1964, Lê Viết Lộc trong cuốn “ Bước đầu điều tra thảm thực vật trong
khu rừng nguyên sinh Cúc Phương” ông cùng các cộng tác viên trong khi điều tra
các loại hình ưu thế trong loại rừng này, ông đã dùng một số chỉ tiêu khác ngoài số
lượng cá thể cây để tính sinh khối trên diện tích điều tra như chiều cao, tiết diện
ngang… để tính toán độ ưu thế của loài. Ông là người đầu tiên đề ra một số tiêu
chuẩn và chỉ tiêu để phân biệt “loại hình ưu thế” trong kiểu rừng kín thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới ở Cúc Phương. Ngoài ra còn có nghiên cứu của Nguyễn Tiến
Bân về cấu trúc của rừng Cúc Phương trong cuốn “Cấu trúc sinh thái trong rừng Cúc
Phương” (Dẫn theo Phạm Vũ Phượng Trâm, 2008).
Năm 1965, Trần Ngũ Phương và các cộng tác đã thu thập được khá nhiều tài
liệu trên những vùng đại lý khác nhau ở Miền Bắc Việt Nam và cho công bố tập
“Bước đầu nghiên cứu rừng gỗ miền Bắc Việt Nam”. Năm 1970, Trần Ngũ Phương
đưa ra bảng phân loại rừng ở miền Bắc Việt nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao:

10


Đai rừng nhiệt đới mưa mùa
Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa
Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao
(Dẫn theo Phạm Vũ Phượng Trâm, 2005)
Năm 1974, Đồng Sĩ Hiền khi lập biểu thể tích và biểu độ thon cây đứng cho
rừng gỗ hỗn loài ở miền Bắc nước ta, tác giả đã nghiên cứu phân bố đường kính,
phân bố chiều cao và phân bố của các nhân tố hình dạng thân cây. Qua các kết quả
nghiên cứu, tác giả đã rút ra kết luận là: quy luật cấu trúc của rừng tự nhiên hỗn
loài nước ta có dạng phân bố giãm theo đường kính, dạng phân bố nhiều đỉnh theo
chiều cao và sự phân bố của các chỉ tiêu hình dạng f0,1 và f1,3 của các loài cây trong
rừng tự nhiên hỗn loài có dạng phân bố tiệm cận với phân bố chuẩn và quy luật này

khác hẳn so với rừng thuần loại đều tuổi.
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại
hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat, 1975), Thái Văn Trừng đã đưa
ra bảng phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan điểm sinh thái, đây được
xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt nam phù hợp nhất trên quan điểm
sinh thái cho đến nay. Phân loại của Thái Văn Trừng bao gồm 14 kiểu
Nuôi dưỡng rừng sau khai thác cũng đã được đặt ra khá lâu nhưng chỉ sau
năm 1975 và thập kỷ 80 mới có các nghiên cứu sâu về cấu trúc của rừng làm nền
tảng cho các biện pháp lâm sinh trong đó có kỹ thuật nuôi dưỡng rừng, tái sinh,
phục hồi rừng.
Nguyễn Ngọc Lung (1983) với công trình “Những cơ sở bước đầu để xây
dựng quy phạm khai thác gỗ” đã đề cập đến khái niệm “rừng chuẩn” và năng suất
tối ưu. Trên cơ sở đó, mọi tác động lâm sinh là hướng khu rừng kinh doanh tới gần
một rừng chuẩn mục đích cung cấp tối ưu gỗ lớn. Tác giả cũng đã nêu các nguyên
nhân làm cho rừng bị xuống cấp và đặt vấn đề phải sửa đổi bổ sung quy trình khai
thác gỗ ban hành năm 1963.
Nguyễn Hồng Quân (1983 - 1984) cũng đã nghiên cứu về điều chế rừng ở
nước ta và chỉ rõ những bất hợp lý trong quá trình khai thác chọn và sự lạc hậu về
nội dung kỹ thuật lâm sinh đã dẫn đến hậu quả là rừng ngày một nghèo đi và đưa ra

11


Vũ Đình Phương (1988) trong “Nghiên cứu xác định cấu trúc quần thể phù
hợp cho từng đối tượng và mục tiêu điều chế” đã nêu lên quan điểm là phải tìm
trong thiên nhiên các cấu trúc mẫu có năng suất cao đáp ứng được mục tiêu kinh tế
cho từng khu vực và hướng rừng theo các mẫu chuẩn đó (dẫn theo Phạm Văn
Thưởng, 2007).
Trần Văn Con (1990) đã sử dụng mô hình Weibull để mô phỏng cấu trúc số
cây theo cấp đường kính (N/D1,3) của rừng khộp và đã cho rằng khi rừng còn non

phân bố có dạng giảm, khi rừng càng lớn thì càng có xu hướng chuyển sang phân
bố đỉnh và lệch dần từ trái sang phải. Đó là sự biến thiên về lập địa có lợi hoặc
không có lợi cho quá trình tái sinh (dẫn theo Nguyễn Cao Cường, 2007).
Bảo Huy (1993) đã vận dụng lý thuyết mẫu chuẩn tự nhiên để lựa chọn thiết
lập các mô hình cấu trúc N/D1,3 chuẩn cho các đơn vị phân loại của rừng bằng lăng
Tây Nguyên và đề xuất điều chỉnh cấu trúc N/D1,3 theo cấu trúc chuẩn (dẫn theo
Phạm Văn Thưởng, 2007).
Và các khóa luận cuối khoá kỹ sư chuyên ngành Lâm nghiệp của sinh viên
Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đã
nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng như: Phạm Văn Thưởng, Nguyễn Cao
Cường, Phạm Vũ Phượng Trâm, Tô Quang …
2.2.4. Tình hình nghiên cứu về tái sinh rừng ở Việt Nam
Ở nước ta, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách đầy đủ về hệ
thống tái sinh rừng, đặc biệt là tái sinh tự nhiên. Một số kết quả nghiên cứu thường
được đề cặp trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo
khoa học và một phần trên các tạp chí.
Nhận thấy được vai trò qua trọng của tái sinh rừng nên các nghiên cứu đã đi
sâu vào nghiên cứu quá trình này. Bao gồm một số công trình như:

12


- Từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều Tra – Quy hoạch rừng đã điều tra
tái sinh ở một số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái, Quảng Ninh với sự trợ giúp
của chuyên gia Trung Quốc, ô tiêu chuẩn được lập với diện tích 200 m2 cho từng
trạng thái. Đo đếm tái sinh trên ô dạng bản có diện tích từ 100 m2 đến 125 m2, kết
hợp điều tra theo tuyến. Từ đó tiến hành phân chia trạng thái rừng và đánh giá tái
sinh (dẫn theo Tô Quang, 2008).
Phùng Ngọc Lan (1964) đã nêu kết quả tra dâm hạt Lim xanh dưới tán rừng
ở Lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Trong giai đoạn nảy mầm bọ xít là nhân tố

gây ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ nảy mầm (dẫn theo Phạm Văn Thưởng, 2007).
Vũ Đình Huề (1969) phân chia khả năng tái sinh thành 5 cấp: rất tốt, tốt,
trung bình, xấu và rất xấu với mật độ tái sinh tương ứng là trên 12000 cây/ha, 8000
– 12000 cây/ha, 4000 – 8000 cây/ha, 2000 – 4000 cây/ha và dưới 2000 cây/ha. Tác
giả đã tổng kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam mang
những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ thành
loài cây tái sinh tương tự như tãng cây gỗ; dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài
cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo tán được thể hiện rõ nét tạo nên
sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng (dẫn theo Phạm Văn Thưởng,
2007).
Thái Văn Trừng (1978) khi nghiên cứu thảm thực vật rừng Việt Nam, tác
giả cho rằng nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở
cả rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh.
Với thực trạng nước ta hiện nay chỉ có xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên mới có
thể khôi phục lại nhiều diện tích rừng đã bị tàn phá, việc tái sinh nhân tạo chỉ áp
dụng trên quy mô hạn chế. Do đó những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên cho từng
đối tượng rừng cụ thể là hết sức quan trọng để đề xuất các biện pháp kỹ thuật chính xác.
Tóm lại, những nghiên cứu về tái sinh rừng cho chúng ta hiểu biết về
phương pháp nghiên cứu và quy luật tái sinh tự nhiên của một số vùng, đặc biệt là
sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh phù hợp nhằm quản lý rừng. Tái sinh là vấn đề quan trọng, quyết định đến
quá trình kinh doanh rừng bền vững, vì thế nghiên cứu quá trình tái sinh là một
việc làm không thể thiếu được trong các nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên.

13


Chương 3
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Ban quản lý rừng phòng hộ Yaly nằm trong khu vực quản lý hành chính của
xã Ia M’nông, xã Ia Ka, xã Ia Nhin huyện Chư Păh và xã Ia Bă huyện Ia Grai tỉnh
Gia Lai.
Tọa độ địa lý như sau:
- Từ 15055’00’’ đến 15073’00’’ độ vĩ Bắc.
- Từ 04009’00’’ đến 04029’30’’ độ kinh Đông.
Giới cận:
Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum.
- Phía Nam giáp các xã Ia Khai, Ia Grăng, Ia Bă huyện Ia Grai.
- Phía Đông giáp tiểu khu 214, 220 (xã Ia M’nông) và tiểu khu 236, 241 (xã
Ia Ka, xã Ia Nhin và xã Ia Ly).
- Phía Tây giáp tỉnh Kon Tum.
Các đặc điểm khác:
- Cự ly từ trung tâm lâm phần đến trụ sở Ban quản lý là 30 km.
- Cự ly từ trung tâm lâm phần đến quốc lộ 14 là 45 km.
- Cự ly từ trung tâm lâm phần đến thành phố Pleiku là 60 km.
Diện tích:
Tổng diện tích tự nhiên hiện do Ban quản lý rừng phòng hộ Yaly đang quản
lý là: 22.886,9 ha nằm trên 23 tiểu khu trong lâm phần mang số hiệu như sau: 213,
215, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 227, 237, 239, 240, 242,

14


243, 244, 245, 246A, 246B, 272, và 2 tiểu khu ngoài lâm phần mang số hiệu: 228
và 234.
3.1.1.2. Địa hình

- Độ dốc: Trung bình toàn lâm phần là 15 – 250, cá biệt có nơi > 450.
- Độ cao: So với mặt nước biển cao nhất là 1.485 m (đỉnh Chư Păh) thấp
nhất 220 m (ranh giới phía Tây Ban quản lý), trung bình 900 – 1000 m.
3.1.1.3. Khí hậu - Thủy văn
a) Khí hậu
Ban quản lý rừng phòng hộ Yaly nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa.
- Nhiệt độ bình quân hàng năm

: 21 – 230C

- Nhiệt độ cao nhất

: 35 – 370C

- Nhiệt độ thấp nhất

: 6 – 70C

- Nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất

: 240C

- Nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất

: 6 – 70C

- Độ ẩm trung bình hàng năm

: 85 %


- Tổng lượng mưa hàng năm

: 2300 mm

Một năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài 6
tháng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô 6 tháng từ tháng 11 dến tháng 4 năm sau.
- Lượng bốc hơi bình quân năm

: 1058 mm

- Hướng gió thịnh hành
* Gió mùa đông- Bắc thổi về mùa khô.
* Gió mùa Tây – Nam thổi về mùa mưa.
* Tốc độ gió: 3 – 5m/giây.
Trong vùng không có gió bão và sương muối.
b) Thủy văn
Sông Krông Bơlah là ranh giới phía Bắc và phía Tây, suối lớn Ry Nhin là
ranh giới phía Đông của Ban quản lý. Hệ thống khe suối của các sông, suối trên
phân bố tương đối đều trên lâm phần. Đặc điểm của hệ thống các sông , suối là có
nước lớn trong mùa mưa, về mùa khô ít nước có nơi khô cạn, có sự chênh lệch lớn
về lượng nước giữa 2 mùa.

15


×