Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA RỪNG TRỒNG THÔNG 3 LÁ (Pinus kesiya Royle ex Gordon) TẠI BAN QLR D’RAN TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA RỪNG
TRỒNG THÔNG 3 LÁ (Pinus kesiya Royle ex Gordon)
TẠI BAN QLR D’RAN TỈNH LÂM ĐỒNG.

Họ và tên sinh viên: PHẠM VĂN ĐÍNH
Ngành: LÂM NGHIỆP
Niên khóa: 2004 - 2009

Tháng 6/2009


NGHIÊN CỨU QUI LUẬT SINH TRƯỞNG CỦA RỪNG
TRỒNG THÔNG 3 LÁ (Pinus kesiya Royle ex Gordon)
TẠI BAN QLR D’RAN TỈNH LÂM ĐỒNG.

Tác giả

PHẠM VĂN ĐÍNH

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Kỹ sư ngành Lâm nghiệp

Giáo viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Ngọc Kiểng

Tháng 6 năm 2009


i


LỜI CẢM TẠ

Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô là các giảng viên của khoa Lâm
Nghiệp đã nhiệt tình giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập.
Xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới thầy TS. Nguyễn Ngọc Kiểng, người đã hết
lòng giúp đỡ, hướng dẫn tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể CB-CNV của BQL Rừng D’Ran đã
giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian thực đề tài nghiên cứu hoàn tất khóa học.
Đề tài nghiên cứu này được thực hiện và hoàn thành tốt còn có sự giúp đỡ trực
tiếp của Cán bộ Kỷ Thuật ở BQL Rừng D’Ran. Xin cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã
nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp các thông tin, các tài liệu khoa học, cũng như đóng góp
các ý kiến quí báu trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn
Đà Lạt, ngày 09 tháng 06 năm 2009
PHẠM VĂN ĐÍNH

ii


TÓM TẮT
Đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của rừng trồng Thông 3 lá
(Pinus kesiya Royle ex Gordon) tại BQLR D’Ran – Lâm Đồng”
Thời gian thực hiện: Từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2009
Đề tài được thực hiện trên các lâm phần rừng Thông 3 lá thuộc BQLR D’Ran,
tỉnh Lâm Đồng được tiến hành trồng vào các năm 1986, 1987, 1990 và 1995, kết quả
như sau:
- Rừng Thông 3 lá trồng năm 1986 có mật độ hiện tại là 420 – 520 cây/ha,

đường kính 26,5 – 27,5 cm, chiều cao 17 – 18 m; trồng năm 1990, có mật độ hiện tại
900 cây/ha, đường kính 23 cm, chiều cao 16,5 m; trồng năm 1995 có mật độ hiện tại
880 – 1000 cây/ha, đường kính 20 cm, chiều cao 15 m. Riêng rừng trồng năm 1987 có
mật độ hiên tại 1000 cây/ha, vì trồng trên đất đồi dốc với điều kiện lập địa xấu nên
đường kính chỉ đạt 17,5 cm, chiều cao chỉ đạt 12 m.
- Phân phối đường kính và chiều cao trong hầu hết các lâm phần rừng Thông 3
lá trồng năm 1986, 1987, 1990 và 1995 đều không tuân theo đúng quy luật phân phối
chuẩn (cả độ nhọn K và độ lệch S đều khác zero).
- Mô hình tương quan và hồi quy giữa đường kính và chiều cao dạng tuyến tính
và các dạng phi tuyến (mũ, bội, logarit) không có sự khác biệt đáng kể, trong đó mô
hình dạng hàm logarit cho kết quả tốt hơn cả (H = -0,663 + 5,710lnD ; r(lnD,H) =
0,907; P = 1,44.10-8 << 0,05).

iii


MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

ix

Chương 1. MỞ ĐẦU


1

1.1 Đặt vấn đề

1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

2

Chương 2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về một số vấn đề liên quan

3
3

2.1.1. Sinh trưởng

3

2.1.2. Tăng trưởng

4

2.2. Các nghiên cứu về sinh trưởng, tăng trưởng trên thế giới

5

2.3. Các nghiên cứu về sinh trưởng, tăng trưởng ở Việt Nam


7

2.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu

9

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU 12
3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu

12

3.2 Đặc điểm tự nhiên và xã hội

13

3.2.1 Vị trí địa lý

13

3.2.2 Địa hình - Địa thế

13

3.2.3 Khí hậu - thuỷ văn

13

3.2.4 Đất đai


15

3.2.5 Tình hình giao thông

16

3.2.6 Tình hình dân sinh - kinh tế

16

3.3 Đặc điểm thực vật của Thông 3 lá

17

3.3.1. Đặc điểm sinh học

17

3.3.2. Phân bố

18

3.3.3. Đặc tính sinh thái

18

3.3.4. Công dụng

18


3.3.5. Kỹ thuật trồng Thông 3 lá

18

Chương 4. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
iv

21


4.1 Nội dung nghiên cứu

21

4.2 Phương pháp nghiên cứu

21

4.2.1 Ngoại nghiệp

21

4.2.2 Nội nghiệp

21

Chương 5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

22


5.1 Kết quả điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng

22

5.2 Sự phân phối của đường kính và chiều cao trong lâm phần

23

5.3 Sự tương quan và hồi quy của đường kính và chiều cao trong lâm phần

36

Chương 6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

39

6.1: Kết luận

39

6.2: Kiến nghị

39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

40

PHỤ LỤC


41

v


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Chữ viết tắt

Nội dung

1

C1,3

: Chu vi thân cây tại vị trí 1,3 m

2

D1,3

: Đường kính thân cây tại vị trí 1,3 m

3

Hvn

: Chiều cao thân cây vút ngọn


4

ÔTC

: Ô tiêu chẩn

5

BQLR

: Ban quản lý rừng

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Tiêu chuẩn kỹ thuật trong trồng rừng thông 3 lá

19

Bảng 5.1. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh trưởng của rừng trồng
Thông 3 lá ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

22

Bảng 5.2. Đặc điểm phân phối của D và H của rừng trồng Thông 3 lá ở BQLR D’Ran
23

– Lâm Đồng


Bảng 5.3: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với mật độ
hiện tại 420 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

24

Bảng 5.4: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với mật độ
hiện tại 420 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

25

Bảng 5.5: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với mật độ
hiện tại 520 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

26

Bảng 5.6: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với mật độ
hiện tại 520 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

27

Bảng 5.7: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1987 ở BQLR
28

D’Ran – Lâm Đồng

Bảng 5.8: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1987 ở BQLR
D’Ran – Lâm Đồng

29


Bảng 5.9: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1990 ở BQLR
30

D’Ran – Lâm Đồng

Bảng 5.10: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1990 ở BQLR
D’Ran – Lâm Đồng

31

Bảng 5.11: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với mật
độ hiện tại 880 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

32

Bảng 5.12: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với mật độ
hiện tại 880 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

33

Bảng 5.13: Phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với mật
độ hiện tại 1000 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

34

Bảng 5.14: Phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với mật độ
hiện tại 1000 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng.
vii


35


Bảng 5.15: Kết quả so sánh mô hình tương quan và hồi quy của D và H từ các dạng
hàm tuyến tính (H = a + bD), hàm mũ (H = ea + bD), hàm bội (H = aDb) và hàm logarit
(H = a + blnD) bằng ma trận tương quan và phân tích hồi quy của rừng Thông 3 lá
trồng năm 1986, với mật độ hiện tại 420 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

viii

36


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 5.1: Tổng quan khu vực nghiên cứu

24

Hình 5.2: Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với
mật độ hiện tại 420 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

25

Hình 5.3: Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với
mật độ hiện tại 420 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

25


Hình 5.4: Tổng quan khu vực nghiên cứu

26

Hình 5.6: Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với
mật độ hiện tại 520 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

27

Hình 5.5: Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1986, với
mật độ hiện tại 520 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

27

Hình 5.6: Tổng quan khu vực nghiên cứu

28

Hình 5.7: Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1987 ở
BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính, frequency là tần số, cumulative là
tần số tích lũy %)

29

Hình 5.8 Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1987 ở
BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao, frequency là tần số, cumulative là tần
số tích lũy %)


29

Hình 5.9: Tổng quan khu vực nghiên cứu

30

Hình 5.10 Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1990 ở
BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính, frequency là tần số, cumulative là
tần số tích lũy %)

30

Hình 5.11: Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1990 ở
BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao, frequency là tần số, cumulative là tần
số tích lũy %)

31

Hình 5.12: Tổng quan khu vực nghiên cứu

32

ix


Hình 5.13 Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với
mật độ hiện tại 880 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

33


Hình 5.14: Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với
mật độ hiện tại 880 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

33

Hình 5.15: Tổng quan khu vực nghiên cứu

34

Hình 5.16: Đồ thị phân phối cấp đường kính của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với
mật độ hiện tại 1000 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp đường kính,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

35

Hình 5.17: Đồ thị phân phối cấp chiều cao của rừng Thông 3 lá trồng năm 1995, với
mật độ hiện tại 1000 cây/ha, ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng (bin là cấp chiều cao,
frequency là tần số, cumulative là tần số tích lũy %)

35

Hình 5.18: Đồ thị hàm tuyến tính thể hiện mối tương quan giữa D và H (H = 12,482 +
0,205D ; r(D,H) = 0,897) rừng Thông 3 lá trồng năm 1986 ở BQLR D’Ran – Lâm
Đồng

37

Hình 5.19: Đồ thị hàm mũ thể hiện mối tương quan giữa D và H (H = e2,581 + 0,011D ;

r(D,lnH) = 0,882) rừng Thông 3 lá trồng năm 1986 ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng

37

Hình 5.20: Đồ thị hàm bội thể hiện mối tương quan giữa D và H (H = 6,326D0,319 ;
r(lnD,lnH) = 0,897) rừng Thông 3 lá trồng năm 1986 ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng 38
Hình 5.21: Đồ thị hàm logarit thể hiện mối tương quan giữa D và H (H = -0,663 +
5,710lnD ; r(lnD,H) = 0,907) rừng Thông 3 lá trồng năm 1986 ở BQLR D’Ran – Lâm
Đồng

38

x


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Từ nhiều năm qua, rừng và nghề rừng đã có những đóng góp xứng đáng vào
công cuộc phát triển vùng kinh tế, song do chưa nhận thức đầy đủ về rừng và vốn
rừng, người ta đã khai thác rừng đến cạn kiệt, làm trử và sản lượng rừng ngày càng bị
suy giảm một cách nhanh chóng, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, nhiều nguồn tài
nguyên động – thực vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng. Tình trạng chung như
vậy đã diễn ra trên khắp cả nước ta và rừng ở tỉnh Lâm Đồng cũng không bị loại trừ.
Hiện nay, nhà nước đã hạn chế mở cửa rừng tự nhiên, nhiều tỉnh phải đóng cửa
rừng trong thời gian dài và chuyển hướng chính sang kinh doanh rừng trồng. Các tỉnh,
các doanh nghiệp đã xác định được rằng, chỉ có đẩy nhanh tốc độ trồng rừng kinh tế và
nâng cao chất lượng rừng trồng mới đáp ứng được nhu cầu lâm sản, hàng hóa cho xã
hội, mà trước hết là cung cấp đủ nguyên liệu cho các khu công nghiệp, nhà máy lớn…
Vì vậy, rừng trồng nguyên liệu công nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế

nói chung và đặc biệt quan trọng trong kinh doanh lâm nghiệp nói riêng.
Mặc dù công tác trồng rừng ngày càng được đẩy mạnh nhưng chất lượng còn
thấp, một phần do giống chưa được cải thiện, biện pháp kỷ thuật lâm sinh chưa đồng
bộ… Nhìn chung, sự phát triển của rừng trồng chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp. Vì vậy công việc hàng đầu của ngành Lâm nghiệp nước
ta hiện nay là khôi phục lại diện tích rừng đã mất, đồng thời vừa nâng cao năng suất
vừa đảm bảo chất lượng rừng trồng, góp phần làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng
phát triển, tạo lập sự cân bằng sinh thái – xã hội, nâng cao độ che phủ, góp phần cải
thiện khí hậu khu vực và toàn cầu, phục vụ giải trí – du lịch sinh thái cho cộng đồng.
Chính vì vậy, việc mở rộng diện tích rừng trồng và tăng năng suất rừng trồng là một
việc làm cấp bách cần phải tiến hành giải quyết trong thời gian sớm nhất và nhanh
nhất.
1


Xuất phát từ những vấn đề mang tính thực tiễn đó, được sự phân công của bộ
môn Điều Chế Rừng, thuộc khoa Lâm Nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm TP. HCM,
dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy Nguyễn Ngọc Kiểng, đề tài “Nghiên cứu đặc
điểm sinh trưởng của rừng trồng Thông 3 lá (Pinus kesiya Royle ex Gordon) tại
BQLR D’Ran – Lâm Đồng” được tiến hành thực hiện trong khuôn khổ của một luận
văn tốt nghiệp Đại học thuộc chuyên ngành Lâm nghiệp.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các chỉ tiêu sinh trưởng (đường kính, chiều cao) và mật độ hiện tại
của các rừng trồng Thông 3 lá ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng.
- Đối chiếu các phân phối về đường kính và chiều cao của các rừng trồng
Thông 3 lá ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng so với phân phối chuẩn.
- Xác định các mô hình tương quan và hồi quy (tuyến tính, phi tuyến) giữa
đường kính và chiều cao của các rừng trồng Thông 3 lá ở BQLR D’Ran – Lâm Đồng.

2



Chương 2
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về một số vấn đề liên quan
2.1.1. Sinh trưởng
Trong kinh doanh và quản lý lâm nghiệp, sinh trưởng và tăng trưởng của cây
rừng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Theo V. Bertalanfly (1951) sinh trưởng là sự lớn lên của cơ thể thông qua quá
trình đồng hoá những nguồn năng lượng của môi trường dưới ảnh hưởng của các quy
luật vận động nội tại cũng như mối quan hệ giữa các nhân tố nội tại, ngoại cảnh trong
suốt thời gian tồn tại của nó.
Sinh trưởng của rừng là quá trình sinh trưởng của quần thể cây rừng, có quan hệ
chặt chẽ với điều kiện môi trường, trong đó có lập địa. Sinh trưởng của rừng là cơ sở
chủ yếu để đánh giá sức sản xuất của lập địa, điều kiện tự nhiên cũng như hiệu quả của
các biện pháp tác động đã được áp dụng.
Sinh trưởng của cây rừng là cơ sở hình thành nên sản lượng rừng, vì vậy muốn
nghiên cứu sinh trưởng của rừng (quần thể) trước hết phải bắt đầu từ việc nghiên cứu
cây cá thể.
Từ khi hình thành, phát triển, thành thục, già cỗi và chết đi kích thước cây rừng
không ngừng tăng lên và sẽ ổn định ở một trị số nào đó. Như vậy sinh trưởng là sự
biến đổi về chất và lượng của cây rừng theo thời gian, thông qua các nhân tố đặc trưng
nào đó, thí dụ D1,3, H,…(Giang Văn Thắng, 2006).
Về mặt toán học, nếu cho y là nhân tố sinh trưởng nào đó, t là thời gian thì sinh
trưởng sẽ là một hàm số biến thiên theo thời gian y = F(t). Đối với các thực thể sinh
vật nói chung và cây rừng nói riêng: đường cong đặc trưng cho sinh trưởng của chúng
là đường cong hình chữ S chia thành 3 giai đoạn: hình thành và phát triển, trưởng
thành, thành thục và già cỗi. (Giang Văn Thắng, 2006).
Theo Lâm Xuân Sanh (1987), sinh trưởng là một biểu thị động thái của rừng, là
căn cứ khoa học quan trọng để định ra những phương thức kỹ thuật lâm sinh thích hợp

3


với từng giai đoạn phát triển khác nhau của rừng để đáp ứng với mục tiêu kinh doanh
lâm nghiệp. Sinh trưởng của quần xã thực vật rừng và cá thể cây rừng là hai vấn đề
khác nhau nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau. Sinh trưởng cá thể có ý nghĩa rất lớn đối
với sự phát triển của rừng.
Nghiên cứu sinh trưởng và dự đoán sản lượng rừng đã được nhiều tác giả trên
thế giới và ở Việt Nam đề cập từ thế kỷ 19. Những nghiên cứu này đều có xu hướng
xây dựng các cơ sở khoa học và lý luận cho việc kinh doanh rừng có hiệu quả. Cơ sở
ban đầu để hình thành lĩnh vực này là những nghiên cứu sản lượng cho đối tượng cây
rừng và lâm phần. Từ những thí nghiệm ban đầu, con người đã có những hiểu biết về
sinh trưởng và sản lượng của một số loài cây chính. Những nghiên cứu bắt đầu từ định
tính chuyển sang định lượng các quy luật tự nhiên góp phần giải quyết nhiều vấn đề
trong thực tiễn sản xuất và kinh doanh rừng.
Nghiên cứu quá trình sinh trưởng của cây và loại hình rừng nào đó, là tìm hiểu
và nắm bắt được quy luật phát triển của chúng thông qua một số chỉ tiêu sinh trưởng
như: D1,3, Hvn, DT, V, … theo thời gian (hay còn gọi là tuổi của cây rừng). Những quy
luật này được mô tả và trình bày bằng những phương trình toán học cụ thể, chúng
được gọi là các hàm sinh trưởng hay các mô hình sinh trưởng. Từ những quy luật này,
người làm công tác lâm nghiệp sẽ có những đánh giá, nhận xét một cách khách quan
về ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh (như điều kiện tự nhiên, biện pháp tác động)
tới quá trình sinh trưởng của cây rừng. Trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp kỹ thuật
lâm sinh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cây rừng, nhằm đưa rừng đạt được
chất lượng tốt, năng suất cao và phù hợp với mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
2.1.2. Tăng trưởng
Tăng trưởng được hiểu như lượng gia tăng về gỗ của cây rừng ở 2 thời điểm
khác nhau. Có thể định nghĩa: tăng trưởng là hiệu số của một nhân tố sinh trưởng nào
đó ở các thời điểm khác nhau:
y∆t = yt - ∆t

Trong đó:

y là nhân tố sinh trưởng.
t: thời điểm điều tra.
∆: khoảng thời gian từ thời điểm nào đó tới thời điểm điều tra.
y: lượng tăng trưởng. (Giang Văn Thắng, 2006)
4


2.2. Các nghiên cứu về sinh trưởng, tăng trưởng trên thế giới
Như đã biết, sinh trưởng của cây rừng và lâm phần phụ thuộc tổng hợp vào các
yếu tố môi trường và những biện pháp tác động. Vì vậy, không có những nghiên cứu
thực nghiệm khoa học thì không thể làm sáng tỏ quy luật của các loài cây. Nhận thức
được điều này, từ thế kỷ 18 đã xuất hiện những nghiên cứu của các tác giả Octtelt,
Pauslen, Bause, Borggreve, Breymann, Cotta, Danckelmann, Draudt, Hartig, Weise ...
Nhìn chung, những nghiên cứu về sinh trưởng cây rừng và lâm phần phần lớn được
xây dựng thành các mô hình toán học chặt chẽ và được công bố trong các công trình
của Meyer, M.A, Stevenson (1949), Schumacher, F.X và Coile T.X (1960), Alder
(1980), ...
Phương pháp nghiên cứu sinh trưởng và sản lượng rừng của các tác giả chủ yếu
là áp dụng kỹ thuật phân tích thống kê toán học, phân tích tương quan và hồi quy qua
đó xác định sản lượng gỗ của lâm phần.
Trong lịch sử ra đời và phát triển của sản lượng rừng đã xuất hiện hàm sinh
trưởng của Gompertz (1825). Tiếp sau đó là hàm sinh trưởng của các tác giả khác như
Verhulst (1845), Kosun (1935), Frane (1968), Korf (1973), Wenk (1973), Schumacher
(1983), … hầu như những nghiên cứu về sinh trưởng của cây rừng và lâm phần, phần
lớn được xây dựng thành các mô hình toán học chặt chẽ và được công bố trong các
công trình của Meyer và Stevenson (1943), Schumacher và Coile (1960) hay gần đây
là của Wenk (1973). Nhìn chung, các hàm sinh trưởng đều có dạng toán học khá phức
tạp, biểu diễn quá trình sinh học dưới sự chi phối tổng hợp của các nhân tố nội và

ngoại cảnh. Đây là những hàm toán học mô phỏng được quy luật sinh trưởng của cây
rừng cũng như lâm phần dựa vào các nhân tố điều tra lâm phần để dự đoán giá trị lớn
nhất của các đại lượng sinh trưởng.
Từ nhiều thập kỷ trở lại đây, các nhà khoa học lâm nghiệp trên thế giới đã đi
sâu nghiên cứu với sự ứng dụng rộng rãi của thống kê toán học nhằm tìm ra các
phương trình toán học phù hợp cho việc mô tả quá trình sinh trưởng của các loài cây
rừng ở các vùng sinh thái khác nhau trên các châu lục.
Tuy nhiên các hàm toán học hay các hàm sinh trưởng được tìm ra chỉ thích hợp
với một số loài cây ở một số vùng sinh thái cụ thể nào đó, với các loài cây khác ở các
vùng sinh thái khác nhau, các hàm toán học này có phù hợp hay không cần phải có
5


những nghiên cứu ứng dụng và kết luận với mức độ phù hợp của chúng ở một mức độ
tin cậy nhất định.
Tiêu biểu và đại diện cho các kết quả nghiên cứu về sinh trưởng cây rừng được
công bố trên thế giới là những hàm sinh trưởng mang tên các tác giả như:
Hàm: Gompertz:

Trong đó:

y = m. e

−e

− a0 .

A
a1


Bachmann:

Log(Y) = a0 + a1Log(A) + a2Log2(A)

Korsun:

2
Y = a0.e( a1 ln A − a 2 ln A)

Mirscherlich:

(−a1.A)
]
Y = a0.[1- e

Thomasius:

−a1. A(1−e
Y = a0.[1- e

a2

− a2 . A

)

]

Y là đại lượng sinh trưởng như chiều cao, đường kính…
m là giá trị cực đại có được của Y.

a0, a1, a2 là các tham số của phương trình.
A là tuổi cây rừng hay lâm phần
e là số mũ tự nhiên Neper (e = 2,7182…)

Trong các hàm sinh trưởng được trình bày ở trên, có thể coi hàm Gompertz là
hàm cơ sở ban đầu cho việc phát triển tiếp theo của các hàm sinh trưởng khác.
Mặt khác, sinh trưởng cũng được thể hiện thông qua mối tương quan và ảnh
hưởng tương hổ giữa các bộ phận của cây hay giữa các chỉ tiêu sinh trưởng với nhau.
Cụ thể hóa vấn đề này R.W.J.Keay (1961) đã nhận thấy, tương quan giữa đường kính
tán lá và lượng tăng trưởng đường kính thân cây có mối tương quan chặt chẽ với nhau
ở loài cây Sterculia rhiropetala tại Nigeria.
Theo Lowe (1961), G.N.Baur (1964) với các cây gỗ ở khu vực khô, sinh trưởng
chậm hơn ở các cây gỗ ở vùng ẩm ướt.
Tốc độ tăng trưởng hay còn gọi là lượng tăng trưởng thường xuyên của cây rừng
cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm, mô tả và quy luật hóa quá trình tăng trưởng của
cây rừngbằng những hàm tăng trưởng như:
- Hàm Gompertz:

Y’= a0. e − a . A

- Hàm Korf:

Y’= a0. A − a

1

1

6



Trong đó:

Y’ là lượng tăng trưởng của nhân tố sinh trưởng nào đó
A là tuổi.
e là số mũ tự nhiên Neper (e = 2,7182 …).
a0, a1 là các tham số phương trình.

Theo Busson, lượng tăng trưởng về thể tích gỗ sẽ tăng lên đến một tuổi nào đó
lại giảm xuống. Prodan khi nghiên cứu quan hệ giữa đường cong sinh trưởng và đường
cong lượng tăng trưởng thấy rằng điểm uốn của đường cong sinh trưởng là điểm cực
đại của đường cong lượng tăng trưởng.
Thí dụ: H = F(A); ih = F’(A) = f(A)
Việc nghiên cứu về quy luật sinh trưởng và tăng trưởng của cây rừng về chiều
cao, đường kính, thể tích, … đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu sinh
trưởng trên thế giới. Qua đó đã đưa ra nhiều dạng hàm toán học khác nhau nhằm mô tả
chính xác quy luật sinh trưởng của mỗi loài cây ở từng vùng sinh thái khác nhau trên
thế giới và cũng là cơ sở khoa học rất quí giá cho những nghiên cứu khác về sinh
trưởng cây rừng trên thế giới.
2.3. Các nghiên cứu về sinh trưởng, tăng trưởng ở Việt Nam
Ở Việt Nam lĩnh vực này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đã
có nhiều công trình đóng góp đáng kể cho công tác kinh doanh, quản lý bảo vệ rừng.
Qua nghiên cứu về quy luật sinh trưởng các nhà khoa học đã tìm ra rất nhiều
dạng phương trình toán học khác nhau. Tuy nhiên, các dạng phương trình này chỉ phù
hợp cho một số loài cây ở những vùng sinh thái khác nhau.
Theo Vũ Đình Phương và cộng sự (1973) ( Trích dẫn từ Trương Văn Vinh,
2006), khi nghiên cứu quy luật sinh trưởng của rừng Bồ đề đã mô tả về quan hệ giữa
chiều cao bình quân với tuổi của quần thể Bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre) trồng
thuần loại đều tuổi bằng phương trình:
AH = a0 +a1.A + a2.A2

Trong đó:
- A: tuổi của cây
- AH: tích số giữa tuổi và chiều cao bình quân
- a1, a2, a3: các tham số của phương trình

7


Đồng Sỹ Hiền (1973) (trích dẫn từ Đặng Quốc An, 2007) trong công trình
nghiên cứu của mình đã đưa ra dạng phương trình toán học bậc đa thức để biểu thị mối
quan hệ giữa đường kính và chiều cao ở các vị trí khác nhau của cây, qua đó mô tả được
quy luật phát triển hình dạng thân cây của cây rừng, đặc biệt là cây rừng tự nhiên:
Y = b0 + b1.x1 + b2.x2 + b3.x3 +...+ bn.xn
Trịnh Đức Huy (1987) đã dùng các phương pháp toán học để xác lập quy luật
sinh trưởng của các nhân tố đo dưới nhiều dạng hàm khác nhau (hàm logarit, hàm mũ)
cho các lâm phần bồ đề thuần loại đều tuổi vùng trung tâm Bắc Việt Nam. Tác giả
nhận thấy rằng, hàm Schumacher Y=

a 0 .e − b / x

k

có độ liên hệ rất cao và ổn định cho

cả nhân tố đường kính, chiều cao và thể tích của cây rừng.
Trong đó:

Y là chỉ tiêu sinh trưởng của cây hay lâm phần.
X là tuổi của cây hay lâm phần.
a0, a1 là các tham số của phương trình.

k là hệ số biểu thị loài (k = 0,2 – 2)
e là số mũ tự nhiên Neper (e=2,7182…)

Đối với các loài cây trồng ở vùng nguyên liệu giấy phía Bắc, Đào Công Khanh
và các công sự (1994) bước đầu nghiên cứu quy luật sinh trưởng cho 4 loài cây trong
vùng là Thông Caribae, Keo tai tượng, Bạch đàn Camal và Bạch đàn Uro. Quan hệ
giữa các nhân tố đo với tuổi đã được mô phỏng bằng hàm Schumacher và đều có hệ số
tương quan rất cao.
Để lập biểu quá trình sinh trưởng ở rừng trồng Keo lá tràm, Vũ Tiến Hinh
(1996) cũng đã xác lập một loạt các hàm sinh trưởng, các mô hình dự đoán sản lượng
và tác giả đã đề xuất việc ứng dụng những kết quả này vào hoạt động sản xuất và kinh
doanh rừng trồng.
Bùi Việt Hải (1998), cũng đã chọn dạng hàm Schumacher để xây dựng mô hình
sinh trưởng cho các nhân tố đường kính d1,3, chiều cao Hvn, đường kính tán dT của cây
keo lá tràm làm cơ sở khoa học cho kỹ thuật tỉa thưa. Tác giả đã nhận định rằng, các
hàm sinh trưởng là các đường cong tăng và tăng nhanh ngay từ những năm đầu, mang
đặc tính chung của loài cây ưa sáng.

8


Nguyễn Ngọc Lung cũng nhận xét tương tự khi thử nghiệm một số hàm số để
biểu thị quá trình sinh trưởng D, H, V cho loài Thông ba lá. Qua nghiên cứu tác giả đã
cho những nhận xét: Hàm Gompertz và một số hàm sinh trưởng lý thuyết khác có
điểm xuất phát không phải tại gốc tọa độ. Tác giả cho rằng, đối với loài cây mọc chậm
thì cỡ tuổi đầu 5, 10 năm đều không quan trọng, nhưng trong điều kiện cây mọc nhanh
thì cần lưu ý vấn đề này. Và tác giả đã nhận xét rằng, hàm Schumacher có ưu điểm
tuyệt đối vì nó xuất phát từ gốc tọa độ, cuối cùng tác giả đề nghị dùng phương trình
Schumacher để mô tả quy luật sinh trưởng cho một số đại lượng D, H, V của loài
Thông ba lá tại Đà Lạt - Lâm Đồng.

Xu hướng sử dụng các mô hình toán học trong nghiên cứu sinh trưởng đã được
nhiều tác giả quan tâm như: Vũ Đình Phương, Vũ Tiến Hinh, Nguyễn Ngọc Lung,
Giang Văn Thắng, Bùi Việt Hải, Nguyễn Minh Cảnh, ... Các tác giả đã sử dụng
phương trình tương quan giữa các nhân tố điều tra lâm phần để xác định các quy luật
sinh trưởng. Những công trình nghiên cứu trên đều nhằm phục vụ cho việc xác định
cường độ tỉa thưa, dự đoán sản lượng gỗ, lập biểu cấp đất, biểu thể tích cho một số loài
cây trồng như: Thông, Mỡ, Bồ đề, Neem, Keo lá tràm, ...
Ngoài ra, còn có các dạng phương trình toán học khác được đề nghị nhằm mô tả
quy luật sinh trưởng của một số loại hình rừng ở Việt Nam.
2.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu
Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới cũng như các tác giả
trong nước về sinh trưởng sản lượng rừng đã được tham khảo và điểm qua ở trên cho
thấy: Có rất nhiều công trình nghiên cứu công phu về lĩnh vực này cho một số loài cây
trồng. Ngày nay xu hướng phát triển về phương pháp nghiên cứu là đi vào định lượng.
Vì vậy, những nghiên cứu đều xuất phát từ cơ sở lý luận về lâm sinh học, về quan hệ
giữa sinh trưởng và sản lượng với điều kiện lập địa, về sự phụ thuộc của sinh trưởng
và sản lượng vào không gian sinh trưởng cũng như ảnh hưởng của các biện pháp tác
động. Từ đó xây dựng các mô hình phù hợp cho từng loài cây ứng với mục đích kinh
doanh cụ thể.
Sinh trưởng của loài cây nói chung và của các nhân tố như đường kính, chiều
cao và thể tích nói riêng mang tính quy luật. Việc xây dựng các hàm sinh trưởng hay
mô hình hoá quá trình sinh trưởng của các nhân tố điều tra đang là một xu thế phát
9


triển của nền lâm sinh hiện đại. Quan điểm chung đều thống nhất rằng, trong hoàn
cảnh mà các yếu tố ảnh hưởng tương đối đồng nhất thì sinh trưởng được coi như một
hàm số chỉ phụ thuộc vào thời gian và phương trình khái quát có dạng y = f(A). Nắm
bắt được quá trình sinh trưởng của cây sẽ là một công cụ rất tốt để xác định lượng tăng
trưởng và từ đó định ra thời điểm chặt, chu kỳ chặt tỉa thưa hay xác định tuổi khai thác

một cách hợp lý.
Những kết quả nghiên cứu ở nước ta cho thấy, nhiều tác giả đã tìm kiếm một số
dạng hàm số toán học để biểu diễn quá trình sinh trưởng của cây, đó là các quan hệ
định lượng giữa nhân tố điều tra (D1.3, DT , Hvn, V…) với tuổi cây (A). Các hàm sinh
trưởng của Gompertz (1825), Korsun (1935), Korf (1973), Verhulst (1845) và của
Schumacher (1986) đều đã được vận dụng ở dạng này hay dạng khác. Vũ Đình
Phương đã mô tả quan hệ giữa H bình quân với tuổi bằng hàm parabol: Y = a+bX
+cX2 ở lâm phần Bồ đề thuần loại và dạng hàm mũ Y= a(1-e-kx)b cho một số loài cây
rừng tự nhiên. Phùng Ngọc Lan đã thử nghiệm các hàm sinh trưởng châu Âu cho một
vài loài cây rừng Việt Nam và nhận thấy những hàm sinh trưởng đó chưa phù hợp với
đặc tính sinh trưởng của cây rừng nước ta. Trịnh Đức Huy và Đào Công Khanh đã
phân tích hàng loạt những mối quan hệ giữa các nhân tố Hvn, D1.3, V với tuổi và rút ra
hàm sinh trưởng của Schumacher: Y=

a 0 .e − b / x

k

có thể ứng dụng tốt để biểu thị sinh

trưởng ở một số loài cây kinh doanh nguyên liệu giấy. Vũ Nhâm qua so sánh các hàm
Korf, Gompertz và Verhulst đã chọn dạng hàm Y=m.e-aX/b cho loài Thông đuôi ngựa.
Nguyễn Ngọc Lung đã đề nghị dùng phương trình Schumacher để mô tả quy luật sinh
trưởng cho một số đại lượng D1,3, Hvn, V của loài Thông ba lá tại Đà Lạt - Lâm Đồng.
Một số sinh viên Khoa Lâm nghiệp trong thời gian gần đây cũng đã đề nghị
một số dạng hàm số toán học của Schumacher, Meyer, Parabol để biểu diễn quá trình
sinh trưởng của một số đại lượng D1,3, Hvn, V ở một số loài cây như: Neem, Keo lá
tràm, ...
Tuy nhiên, việc lựa chọn một hàm sinh trưởng nào đó để biểu thị cho quá trình
sinh trưởng của nhân tố định lượng nói chung đều có chung một tinh thần là hàm đó

phải biểu diễn đúng nhất quá trình sinh trưởng của loài cây nghiên cứu và có sai số
tương đối nhỏ nhất, các tham số của mô hình đều tồn tại. Những dạng hàm mũ kép
10


như hàm Schumacher, Korf và Gompertz đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu
về sinh trưởng của loài cây và lâm phần. Trong trường hợp, cùng một số liệu thực
nghiệm có thể có nhiều hàm khác nhau đều phù hợp, cần thực hiện phương pháp so
sánh nhiều hàm để cuối cùng lựa chọn hàm tốt hơn. Đây chính là quan điểm mà luận
văn kế thừa và đi theo để giải quyết các vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài.

11


Chương 3
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
Lâm Đồng là một vùng đất cực Nam Tây nguyên, nơi tập trung một hệ thực vật
phong phú, đa dạng mang những đặc trưng vùng nhiệt đới núi cao, mưa mùa và những
nét của rừng Á nhiệt đới với nhiều kiểu rừng thưa (rừng lá kim), rừng kín thường
xanh, rừng rụng lá, rừng hỗn giao và rừng tre nứa, …
Rừng Lâm Đồng nói chung và Đà Lạt nói riêng là nơi nổi tiếng với nhiều loài
cây, loài con quý hiếm được đưa vào sách đỏ. Hiện nay, nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước đang chú ý đến các loài thông hai lá dẹt (Pinus krempfii), thông năm lá
(Pinus dalatensis), thủy tùng (Glyptostrobus pensisis), thông đỏ (Taxus willichiana).
Rừng Lâm Đồng còn là nơi cư trú và sinh sống của những loài động vật quý
hiếm như tê giác một sừng, voi, bò tót, sói xám, voọc xám, beo gấm, báo hoa mai, gấu,
vượn,… cùng với hàng trăm loài chim và bò sát. Mặc dù phong phú và đa dạng như
vậy, nhưng đáng tiếc lâu nay tình trạng khai thác bừa bãi, nạn phá rừng làm rẫy, nạn

cháy rừng đã làm suy giảm, có nơi cạn kiệt nguồn tài nguyên quý giá đó.
Ban quản lý rừng D’Ran quản lý diện tích rừng 17.045 ha là rừng phòng hộ đầu
nguồn cung cấp nguồn nước cho các nhà máy thủy diện như: thủy điện Đa Nhim.
Đồng thời là đầu nguồn của nhiều con sông lớn như sông Đa Nhim, Krông Nô, Đa
Dâng. Mục tiêu của Ban quản lý rừng D’Ran:
+ Xây dựng và phát triển rừng bền vững, nâng cao độ che phủ,tạo môi trường
sinh thái chông xói mòn,giảm nhẹ thiên ta, điều hoà khí hậu điều hoà nguồn nước tạo
nguồn sinh thuỷ đầu nguồn các sông, hồ thuỷ điện Đa Nhim.
+ Sử dụng có hiệu quả đất trống đồi núi trọc, xây dựng cơ cấu cây trồng hợp
lý để dần thu nhập cho nguời dân địa phương trong vùng, gắn kinh tế của nguời dân
vào rừng.
12


+ Tạo công ăn việc làm ổn định, từng bước cải thiện đời sống đồng bào dân
tộc trong vùng. Bảo đảm an toàn trật tự xã hội, hạn chế tình trạng khai thác, chặt phá
rừng bừa bãi và các lâm sản khác, lấn chiếm đất rừng, săn bắt động vật rừng trái phép,
gây cháy rừng.....
3.2 Đặc điểm tự nhiên và xã hội
3.2.1 Vị trí địa lý
Khu vực nghiên cứu nằm một phần trên các tiểu khu 324C, 325A – xã Đạ Ròn,
và tiểu khu 324B, 325B - thị trấn Thạnh Mỹ - huyện Đơn Dương - tỉnh Lâm Đồng,
thuộc BQLR D’Ran quản lý. Gồm có 4 tiểu khu, 7 khoảnh, 15 lô, cụ thể như sau:
Tiểu khu 324B: Khoảnh 1 - lô a,b ; Khoảnh 3 – lô a,b,c,d.
Tiểu khu 324C: Khoảnh 9 – lô a,b.
Tiểu khu 325A: Khoảnh 4 – lô a; Khoảnh 7 – lô a,b,c,d; Khoảnh 9 lô a.
Tiểu khu 325B: Khoảnh 1 – lô a.
3.2.2 Địa hình - Địa thế
(a) Địa hình:
- Nằm trong vùng đồi núi cao có độ dốc thoải theo hướng từ Tây Bắc - Đông

Nam.
- Độ cao tuyệt đối: 1450 m
- Độ cao tương đối: 40 m
- Độ dốc bình quân cho toàn khu vực: 180
(b) Địa thế:
Độ chia cắt trung bình tạo nên các khe vừa phải, hệ thống đồi núi thuộc dạng
trung bình thuận lợi cho việc đầu tư trồng rừng.
3.2.3 Khí hậu - thuỷ văn
(a) Khí hậu:
- Khí hậu: do có độ cao từ 800 – 1500 m so với mặt nước biển nên trong vùng
chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đời gió mùa vùng cao.
- Thời tiết: có 2 mùa rõ rệt
+ Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 10, mưa nhiều nhất từ tháng 7, 8, 9. Đầu mùa
mưa thường xuất hiện mưa đá.

13


+ Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, những tháng khô hanh nhất là
tháng 1, 2, 3 là những tháng thường xẩy ra cháy rừng mạnh .
+ Nhiệt độ trung bình hàng năm là: 17,9oC
Nhiệt độ thấp nhất là: 15,5 vào tháng 1.
Nhiệt độ cao nhất là:19,9 vào tháng 4.
+ Độ ẩm không khí trung bình năm là: 85%
Tháng có độ ẩm không khí thấp nhất là tháng 2 ( 73% ).
Tháng có độ ẩm không khí cao nhất là tháng 8 (92%).
+ Lượng mưa trung bình năm là 1896 mm.
Lượng mưa cao nhất là tháng 8 (396 mm).
Số ngày mưa trong năm 164 ngày.
+ Lượng bốc hơi trung bình hàng năm là : 82,7 mm.

Lượng bốc hơi cao nhất vào tháng 3 (138 mm).
Lượng bốc hơi thấp nhất vào tháng 8 (44 mm).
+ Hướng gió:
Hướng gió Bắc (N) thổi tháng 5, 7, 8, 9.
Hướng gió Tây Bắc (NW) thổi tháng 6.
Hướng gió Tây Nam (SW) thổi tháng 10.
Hướng gió Đông Bắc (NE) thổi từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm sau.
(b) Thuỷ văn:
Do knu vực kiểm kê là đỉnh đồi núi cao nên trong khu vực chỉ có khe suối
nhỏ nhưng có độ giữ nước tương đối tốt, cần có giải pháp đào hồ giữ nước để đáp ứng
nhu cầu trồng trọt.
- Nguồn nước mặt: Nhìn chung trong năm lưu lượng nước mặt có sự phân hoá
khá sâu sắc, mùa mưa chiếm ~ 80% lượng mưa cả năm. So với nhu cầu tưới tiêu hiện
nay thì lượng nước mặt trong vùng chưa đủ khả năng cung cấp cho sản xuất vào mùa
khô. Ðể đảm bảo nguồn nước tưới cho cây trồng cần đào đắp các hồ, ao để tích nước
cho mùa khô hoặc có biện pháp dẫn nước từ các ao, hồ từ trên cao xuống.
- Nguồn nước ngầm:
Trên địa bàn hiện chưa có tài liệu nghiên cứu, đánh giá chi tiết về nước ngầm,
song dựa vào kết quả điều tra của chương trình Tây nguyên II (48C-II) và chương
14


×