Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

khóa luận tốt nghiệp lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong dạy học địa lí lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.58 KB, 69 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ hội nhập và phát triển không chỉ trên lĩnh vực kinh tế,
chính trị mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới nền giáo dục các quốc gia trên thế giới. Cả thế
giới đều hướng loài người tới một tương lai tươi sáng vì ngày mai, việc đẩy mạnh hoạt
động giáo dục cho thế hệ trẻ là một yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu được ở
mỗi quốc gia, vì thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai thực sự của đất nước. Bởi thế, việc
giáo dục rèn các kĩ năng sống (KNS), kĩ năng nghề nghiệp là vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều này thì cần phải có thời gian, cần phải có
một chương trình dài hạn cho từng kế hoạch cụ thể. Việc giáo dục trước hết phải đi từ
những nguyên tắc, nguyên lí hay định nghĩa trước (lí thuyết), từ đó hình thành các kĩ
năng, kĩ sảo thực hành bộ môn để người học ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Hiện nay, trên thế giới có tới trên 155 nước đã đưa việc rèn kĩ năng sống cho
học sinh vào các chương trình giáo dục ở mọi lứa tuổi, ở các chương trình giáo dục
khác nhau đặc biệt là các chương trình môn học thuộc khoa học xã hội, trong đó có
môn Địa Lí.
Trong chương trình giáo dục cũng đã thực hiện việc đổi mới về mục tiêu, nội
dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo của thế kỷ XXI: Học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống – mà thực chất là cách tiếp
cận kĩ năng sống.
Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông(THPT) có vai trò hết
sức quan trọng, nó không chỉ góp phần củng cố vốn kiến thức từ sách vở mà còn củng
cố vốn kiến thức ngoài thực tế, củng cố cho học sinh(HS) kĩ năng, kĩ xảo, hành vi, cách
ứng xử và đối phó với những biến đổi ngoài môi trường sống, giúp cho các em tự tin
hơn trong các tình huống hay các sự cố sảy ra ngoài ý muốn của bản thân, từ đó học
sinh có thể vận dụng tốt hơn kiến thức và áp dụng KNS một cách hiệu quả hơn.
Trên thực tế cho thấy sau khi các em được rèn KNS, các em tự tin hơn rất nhiều,
không biểu hiện những thái độ tiêu cực và dần trở nên vững vàng hơn trong cuộc sống
và các mối quan hệ trong xã hội, mối quan hệ con người với tự nhiên ngày càng hoàn
1



thiện hơn. Mặt khác giúp HS củng cố nhân cách, phẩm chất đạo đức vốn có của người
Việt.
Như vậy, việc rèn KNS cho học sinh THPT là một yêu cầu bức thiết, nhằm khắc
phục những hạn chế ở lứa tuổi học sinh và phát huy những thế mạnh vốn có ở lứa tuổi
này.Việc rèn KNS không chỉ là mối quan tâm của nhiều nước trên thế giới, vì vai trò
tích cực đó nên ở Việt Nam trong những năm qua đã đẩy mạnh những hoạt động này và
đã mang lại hiệu quả cao.Ở tỉnh Bình Định việc rèn kĩ năng sống có vai trò hết sức
quan trọng, có tính ứng dụng thực tế rất cao, các kĩ năng được lồng ghép như kĩ năng
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên.Sở
dĩ những kĩ năng này rất quan trọng đối với học sinh ở tỉnh Bình Định vì đây là một
trong những tỉnh giàu có tài nguyên thiên nhiên, nhưng trong những năm qua các
nguồn tài nguyên đó đang bị suy giảm nghiêm trọng.Việc khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên chưa hợp lí.Hiện tượng chặt phá rừng, đốt nương làm rẫy bừa bãi dẫn đến
hệ quả mực nước ngầm bị hạ thấp, hiện tượng rửa trôi, sói mòn, sạt lở đất, lũ quét...
gây thiệt hại nặng nề cho người và tài sản.
Mặt khác, hiện nay ở tỉnh Bình Định, trình độ tri thức của một bộ phận học sinh
vẫn còn hạn chế, việc rèn kĩ năng sống sẽ góp phần nâng cao vốn hiểu biết, những tri
thức, giá trị cuộc sống cho các em HS, các kĩ năng sống mà học sinh tiếp thu được sau
này ra trường có thể ứng dụng vào cuộc sống.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Giáo dục kĩ năng sống trong dạy học một số bài học Địa lí lớp 11 – Ban cơ bản”
làm khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
2.1. Mục tiêu
Đề tài hoàn thành với mục tiêu cơ bản là: Giúp cho học sinh hiểu được KNS,
các kĩ năng ứng xử, từ đó trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng
phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho HS những thói quen, hành vi lành mạnh, tích
cực; Loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống
và hoạt động hằng ngày.

2


2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ cơ bản là:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận có liên quan đến KNS, giáo dục KNS, nội
dung giáo dục KNS.
- Thống kê, phân tích những bài, nội dung có liên quan đến KNS trong chương
trình Địa lí lớp 11 để lồng ghép giáo dục KNS trong chương trình địa lí lớp 11.
- Thiết kế một số giáo án và tiến hành thực nghiệm ở trường THPT Phù Cát 2,
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
- Nội dung, chương trình SGK Địa lí – Ban cơ bản lớp 11.
- Nội dung giáo dục KNS qua việc dạy học chương trình Địa lí – Ban cơ bản lớp
11.
- Khách thể nghiên cứu là giáo viên (GV) và học sinh (HS) trường THPT Phù
Cát 2, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nội dung giáo dục KNS trong chương trình Địa lí lớp 11 –
Ban cơ bản.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại trường THPT Phù Cát 2, huyện Phù Cát,
tỉnh Bình Định.
- Phạm vi thời gian: Thời gian thực hiện khóa luận từ tháng 02 đến tháng 06
năm 2015, trong đó có 2 tháng (từ ngày 02/03/2015 đến ngày 25 tháng 04 năm 2015)
thực tập và thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Phù Cát 2, huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4.1. Trên thế giới
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “Kĩ năng sống’’ đã xuất hiện khá phổ biến.

Theo một số tài liệu, kĩ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải
quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
3


con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não
bộ của con người. Kĩ năng có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua học tập hoặc
rèn luyện của con người.
Trong một số chương trình giáo dục của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc trước
tiên là chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần giáo dục
cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu về KNS trong giai đoạn này mong muốn thống nhất
được một quan niệm chung về KNS cũng như đưa ra được một bản danh mục các kĩ
năng cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần lớn các công trình nghiên cứu về KNS ở giai
đoạn này quan niệm về KNS theo nghĩa hẹp, đồng nhất nó với kĩ năng xã hội. Dự án
được Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) tiến
hành tại một số nước trong đó có các quốc gia Đông Nam Á là một trong những nghiên
cứu có tính hệ thống và tiêu biểu cho hướng nghiên cứu về KNS nêu trên [4].
Mặc dù, giáo dục KNS cho học sinh đã được nhiều nước quan tâm và cùng xuất
phát từ quan niệm chung về KNS của tổ chức Y tế thế giới hoặc của UNESCO nhưng
quan niệm và nội dung giáo dục KNS ở các nước không giống nhau. Ở một số nước,
nội hàm của khái niệm KNS được mở rộng, trong khi một số nước khác xác định nội
hàm của khái niệm này chỉ gồm những khả năng tâm lí, xã hội.
Quan niệm, nội dung giáo dục KNS được triển khai ở các nước vừa thể hiện cái
chung vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác, ngay trong một quốc gia,
nội dung giáo dục KNS trong lĩnh vực giáo dục chính quy và không chính quy cũng có
sự khác nhau. Trong giáo dục không chính quy ở một số nước, những kĩ năng cơ bản
như: Nghe, nói, đọc, viết, được coi là những KNS cơ sở trong khi giáo dục chính quy,
các KNS cơ bản lại được xác định phong phú theo các lĩnh vực quan hệ cá nhân.
Do phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục KNS nên những
nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song chưa thật toàn diện, sâu

sắc. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào đưa ra được kinh nghiệm hoặc hệ thống tiêu
chí đánh giá chất lượng KNS.
Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống hiện nay đã được xem như là mộtm môn
học trong nhà trường ở hầu hết các quốc gia (tiêu biểu là Mỹ và Cộng đồng châu Âu),
4


thậm chí tại Mỹ đã xuất hiện trường đại học, huấn luyện KNS; một tổ chức phi chính
phủ cũng đã thường xuyên vận động phổ biến về vấn đề này tại Việt Nam - đặc biệt là
UNESCO và UNICEF. Các môn học giáo dục KNS được đưa vào giảng dạy trong các
trường THPT trong đó có môn Địa lí.
Như vậy, có thể nói rằng việc rèn KNS cho học sinh các trường phổ thông
không chỉ riêng quốc gia nào, mà đây là một vấn đề mang tính toàn cầu, đã được nhiều
nước rất quan tâm nghiên cứu.
4.2. Ở Việt Nam
Kĩ năng sống đã và đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà trường chủ yếu
học sinh chỉ được dạy kĩ năng học tập và chính trị, còn việc giáo dục KNS chưa được
quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lí Huỳnh Văn Sơn, cố vấn trung tâm chăm sóc
tinh thần ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ kĩ năng sống được sử dụng khá phổ biến
nhưng có phần bị "lạm dụng" khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các
bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu gì về nó". Theo vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh
viên ( Bộ Giáo Dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu dài cần
xây dựng chương trình môn học giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 đến lớp 12.
Đặc biệt là trong trương trình Địa lí nói riêng là một yêu cầu hết sức quan trọng. Việc
giáo dục KNS cho học sinh ngày càng trở nên cắp thiết khi mà xã hội hiện đại đang tác
động tới các em từ quá nhiều phía.
Xuất phát từ nhu cầu của xã hội nên được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về
vấn đề rèn kĩ năng sống cho học sinh mà tiêu biểu là: “Cẩm nang tổng hợp kĩ năng
hoạt động thanh thiếu niên” của tác giả Phạm Văn Nhân[2002], [10]; “Kĩ năng thanh
niên tình nguyện”, tác giả Trần Thời (1998) [14]. Một trong những người đầu tiên có

những nghiên cứu mang tính hệ thống về kĩ năng sống và giáo dục KNS ở Việt Nam là
tác giả Nguyễn Thanh Bình, tác giả có nhiều bài báo, đề tài khoa học cấp Bộ, giáo trình
bàn về kĩ năng sống. Những công trình tiêu biểu của tác giả là “Giáo dục kĩ năng
sống”, Chuyên đề cao học, ĐHSP Hà Nội. “Giáo dục kĩ năng sống”, Giáo trình dành
cho sinh viên Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. “Những nghiên cứu
và thực hiện chương trình giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam”, Viện Chiến lược và
5


Chương trình giáo dục, Hà Nội. Những công trình này đặt cơ sở và tạo ra những hướng
nghiên cứu về kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình đã đề cập đến trong các nghiên cứu là xác định
những vấn đề lý luận cốt lõi về kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống. Tác giả đã trình
bày được khái niệm về kĩ năng sống, các loại kĩ năng sống. Điều đặc biệt là tác giả đã
trình bày được các phương pháp, cách thức giáo dục KNS. Những công trình này góp
phần đáng kể, mở ra hướng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Đức Thạc trong tạp chí giáo dục số 81/2004 cũng đã đề cập đến
việc “Rèn luyện kĩ năng sống một hướng tiếp cận mới về chất lượng 6 giáo dục đào
tạo”. Tác giả đã khẳng định việc rèn kĩ năng sống là một hướng tiếp cận mới, đó cũng
là hướng để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Ngoài ra, có một số tác giả khác nghiên cứu về KNS cho tuổi vị thành niên. Tác
giả Đào Thị Oanh có: “Một số cơ sở tâm lý học của việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh” tác giả đã phân tích rõ những cơ sở tâm lý học để rèn KNS. Dựa vào những
cơ sở tâm lý đó giáo viên có thể rèn luyện KNS cho học sinh đó là các kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng đương đầu với cảm xúc căng thẳng, kĩ năng giải
quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
Tác giả Nguyễn Thị Oanh trong “Kĩ năng sống cho tuổi vị thành niên” lại đề
cập đến những khía cạch khác. Tác giả đã quan niệm rằng: “ Kĩ năng sống với tư cách
là đối tượng của giáo dục KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với
những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”[12]

Gần đây tác giả Phan Thanh Vân đã nghiên cứu đề tài “Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”. Tác giả đã
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục KNS cho học sinh THPT thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp, biện pháp giáo dục KNS cho học sinh THPT thông qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tác giả cũng đã khẳng định: Giáo dục kĩ năng
sống là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ thống giáo dục, là kết quả của giáo
dục đồng thời là nhiệm vụ quan trọng của mọi hoạt động nhà trường.

6


Gần với hướng nghiên cứu của đề tài các tác giả Lê Minh Châu, Trần Thị Tố
Oanh, Phạm Thị Thu Phương, Lưu Thu Thủy, Đào Vân Vi có nghiên cứu “Giáo dục kĩ
năng sống trong môn Địa lí ở trường trung học cơ sở”. Tác giả đề cập đến 2 phần.
Phần 1 tác giả đề cập đến 4 nội dung cơ bản là: Quan niệm về kĩ năng sống, phân loại
kĩ năng sống, tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho học sinh, định hướng giáo
dục KNS cho học sinh. Các nội dung mà nhóm tác giả đề cập đến nhằm giúp cho giáo
viên nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo dục KNS, nội dung của
các KNS và việc lựa chọn các KNS cần giáo dục cho học sinh. Phần 2 nhóm tác giả đề
cập đến việc giáo dục KNS trong môn Địa lí ở trường trung học cơ sở (THCS). Trong
phần này, nhóm tác giả đề cập đến 3 nội dung cơ bản là: Thứ nhất, phân tích khả năng,
mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh trong môn Địa lí ở trường THCS. Nội dung này
giúp giáo viên có nhận thức về việc vận dụng kiến thức của môn Địa lí vào giáo dục
KNS cho học sinh THCS. Thứ hai, giới thiệu một số nội dung và địa chỉ các tiết
học/bài học tiêu biểu của môn Địa lí vào giáo dục KNS cho học sinh ở từng lớp. Thứ
ba, tiến hành soạn một số bài tham khảo về giáo dục KNS trong môn Địa lí 7 ở trường
THCS. Cuốn sách này là nguồn tài liệu giúp cho các thầy cô có thể vận dụng để rèn
KNS cho học sinh THCS.
Trong trường Đại học Tây Bắc cũng có những công trình nghiên cứu rèn kĩ năng sống
như công trình nghiên cứu của Tiến Sĩ Đỗ Thuý Mùi: “Rèn kĩ năng sống cho sinh viên

trường Đại học Tây Bắc trong môn Địa lí kinh tế”. Hay công trình nghiên cứu của
chính nhóm tác giả người thực hiện là Nguyễn Văn Đại (1991), Nguyễn văn Đại
(1990), Hà Văn Thắng.
Như vậy, vấn đề giáo dục KNS trong nhà trường nói chung đã có nhiều tác giả
đề cập đến. Các công trình này là những cơ sở giúp cho tác giả kế thừa phát huy để
nghiên cứu đề tài “Giáo dục kĩ năng sống trong dạy học một số bài học Địa lí lớp 11
– Ban cơ bản”.

7


5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
5.1.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
Đây là một phương pháp nghiên cứu rất quan trọng trong việc tiếp cận vấn đề.
Tài liệu thu thập được về mặt lí luận sẽ giúp chúng ta hiểu biết được các thành tựu
trong quá khứ và những vấn đề cập nhật hiện tại.
Sau khi phân tích và nhóm tài liệu, xử lý theo yêu cầu của đề tài sẽ giúp chúng
ta phát hiện những vấn đề trọng tâm cũng như những vấn đề đang bỏ ngỏ. Từ đó tổng
hợp được tài liệu toàn diện và khái quát những vấn đề nghiên cứu. Các tài liệu mà tác
giả thu thập được rất phong phú từ các sách báo, các đề tài nghiên cứu khoa học và các
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, các tài liệu bàn về KNS trên mạng internet… tất cả
các tài liệu đó tác giả nghiên cứu, phân tích, đánh giá để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc
về vấn đề nghiên cứu.
5.1.2. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài được thực nghiệm tại trường THPT số 2 Phù Cát , do đó kết quả thực
nghiệm sẽ được thống kê, xử lí và tính toán. Trên cơ sở những số liệu đã được xử lí để
rút ra một số kết luận cần thiết.
Các giáo án thiết kế được thực nghiệm ở trường THPT số 2 Phù Cát. Tác giả đã
tiến hành điều tra ở lớp thực nghiệm với 85 em học sinh, lớp đối chứng 87 em học

sinh,với những nội dung khác nhau. Sau khi phát phiếu điều tra xin ý kiến, tác giả đã
phân tích, xử lý số liệu thống kê. Những số liệu được phân tích, tính toán một cách tỉ
mỉ trong mối tương quan tổng thể, từ đó có những đánh giá và rút ra những kết luận
cần thiết.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát
Điều tra xã hội học có nhiều phương pháp giúp người thu thập có được thông tin
một cách toàn diện,tuy nhiên phương pháp phổ biến nhất và đem lại kết quả khá chính
xác là phương pháp phỏng vấn.

8


Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực trạng giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh THPT và tìm hiểu quan điểm của các đối tượng được
phỏng vấn về việc giáo dục KNS trong môn Địa lí lớp 11 trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi với nhiều giáo viên
và các em học sinh ở các trường phổ thông số 2 Phù Cát. Qua các cuộc tiếp xúc, nói
chuyện tác giả đã nhận thấy rằng việc lồng ghép kiến thức KNS cho học sinh rất cần
thiết. Trong quá trình phỏng vấn tác giả không chỉ phỏng vấn ở những lớp được lồng
ghép kiến thức KNS mà còn phỏng vấn cả những lớp không dạy.
Trên cơ sở những ý kiến đó tác giả xác định sự cần thiết phải rèn KNS cho học
sinh lớp 11 tại trường trung học phổ thông. Những thông tin mà tác giả thu được thông
qua phiếu điều tra đó là cơ sở cần thiết để khẳng định được kết quả nghiên cứu của đề
tài.
5.2.2. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình tiến hành thực nghiệm tại trường THPT Phù Cát 2, tác giả đã
gặp gỡ, xin ý kiến và thảo luận với các giáo viên trong trường về các bài giảng, các nội
dung giáo dục KNS được lồng ghép cũng như dự đoán sự phản hồi của các em. Ngoài
ra, tác giả cũng đã trao đổi và nhờ giáo viên tiến hành giảng dạy một số bài trong

chương trình. Sau mỗi tiết dạy và sau quá trình thực nghiệm, tác giả và các giáo viên
đã tiến hành đánh giá và rút kinh nghiệm.
5.2.3. Phương pháp thực nghiệm
Đề tài đã thiết kế được 2 giáo án liên quan đến giáo dục KNS qua một số bài
học Địa lí ở lớp 11. Tác giả đã vận dụng thử nghiệm trong các bài giảng để tăng khả
năng ứng dụng của đề tài. Đề tài được thực nghiệm ở các trường THPT số 2 Phù Cát.
Khi đã thực nghiệm ở trường phổ thông có bài tác giả đã xin ý kiến của giáo
viên đóng góp cho giáo án và trực tiếp giảng dạy, có bài tác giả nhờ giáo viên phổ
thông trực tiếp giảng dạy hộ. Khi dạy học xong các bài đó tác giả đã phát phiếu xin ý
kiến của học sinh. Tại các trường đến thực nghiệm tác giả cũng xin ý kiến ở cả các lớp
không lồng ghép kiến thức KNS. Tuy nhiên, với thời gian nghiên cứu cũng như những
điều kiện khác, tác giả chỉ tiến hành thực nghiệm được ở một trường và một số bài cụ
9


thể mà chưa tiến hành trên diện rộng. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả vẫn tiếp tục
thử nghiệm để sau này khi ra trường sẽ vận dụng tốt hơn kết quả nghiên cứu của đề tài.
5.2.4. Phương pháp bổ trợ (Phương pháp biểu đồ)
Đây là một phương pháp phổ biến và thông dụng trong môn Địa lí. Các biểu đồ
đều mang một thông tin nhất định. Vì vậy, trong đề tài để thể hiện kết quả nghiên cứu
tác giả đã xây dựng biểu đồ cột, biểu đồ tròn. Đề tài đã xây dựng được 3 biểu đồ thể
hiện kết quả nghiên cứu về sự cần thiết phải lồng ghép nội dung giáo dục KNS cho học
sinh trung học phổ thông qua môn Địa lí lớp 11.
5. Đóng góp của đề tài
5.1. Về lí luận
Đề tài hoàn thành sẽ góp phần phát triển lí luận về giáo dục KNS cho học sinh
lớp 11 và bước đầu thiết lập cơ sở lí luận về giáo dục KNS trong môn Địa lí thông qua
việc lồng ghép những nội dung cụ thể trong từng môn học. Những vấn đề trên thể hiện
qua một số quan điểm sau :
Giáo dục KNS nói chung và thông qua môn Địa lí lớp 11 trên địa bàn tỉnh Bình

Định nói riêng nhằm giúp phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh để các em rèn
KNS. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng xử với cuộc sống, con người và vận dụng các
kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau này để có thể trở thành công dân tốt, đáp
ứng được nhu cầu lao động trong tương lai của tỉnh nói riêng và của cả nước nói
chung.
Việc tích hợp và lồng ghép thông qua một số bài học cụ thể không chỉ đem lại
sự sinh động, phong phú trong nội dung bài giảng mà còn góp phần hình thành những
suy nghĩ, tư duy nhận thức mới cho học sinh lớp 11 tại trường THPT số 2 Phù Cát.
5.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng định:
Học sinh lớp 11 tại trường THPT số 2 Phù Cát còn rất hạn chế về KNS. Một
trong những nguyên nhân của thực trạng này là do giáo dục THPT, đặc biệt là nội dung
môn học chưa được quan tâm thỏa đáng đến vấn đề giáo dục KNS cho học sinh, chưa

10


xác định phương pháp hiệu quả để lồng ghép các nội dung liên quan tới KNS vào từng
môn học, trong đó có môn Địa lí.
Tính tích hợp và lồng ghép nội dung, vấn đề cụ thể vào một số bài học trong
môn Địa lí lớp 11, là nội dung cần được triển khai nhằm giúp cho học sinh lớp 11 ở
tỉnh Bình Định được trang bị những kĩ năng cơ bản và hiệu quả nhất, phù hợp với sự
phát triển của nền giáo dục gắn với thực tiễn. Đề tài hoàn thành là nguồn tư liệu giúp
cho các sinh viên và giáo viên ở trường THPT tham khảo để có thể lồng ghép các KNS
trong các bài học Địa lí ở trường phổ thông.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn giáo dục KNS trong dạy học một số bài
Địa lí lớp 11 – Ban cơ bản.
Chương 2: Cách thức giáo dục KNS trong dạy học một số bài Địa lí lớp 11 –

Ban cơ bản.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

11


NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIÁO DỤC KI NĂNG SỐNG
TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ BÀI ĐỊA LÍ LỚP 11 – BAN CƠ BẢN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm về KNS
Kĩ năng sống là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong
lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về
KNS. Tuy nhiên cho đến nay, KNS vẫn chưa có một định nghĩa nào rõ ràng và đầy đủ.
Có nhiều quan niệm cho rằng kĩ năng sống được coi trọng vì có tác dụng lớn
trong việc hình thành tư duy, nhân cách mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị căn bản,
như sống trung thực, cam đảm đối mặt sự thật, biết yêu thương và biết cách vượt lên
nghịch cảnh. Ai học được kĩ năng sống thì có cơ hội rèn kĩ năng sống, ứng biến tích
cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu, vượt qua những khó
khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực..., người đó được rèn luyện, phát
triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn
đạt, thuyết phục, thói quen chia sẻ, giúp đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan
trọng giúp mỗi người đạt được thành công trong đời.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa KNS là "Khả năng thích nghi và hành
vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức
của cuộc sống hàng ngày". Đó là một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp
ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hoá. Có thể hiểu kĩ năng sống là năng
lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng
thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi

tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí
có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất,
tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này [12].
Theo tổ chức Giáo dục Khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO,
2003) quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng


và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi
của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lí có
hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, (UNICEF Thái Lan, 1995): Kĩ năng sống
là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích cách ứng xử và khả
năng tránh được các tình huống. Các KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức
“cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng thành
hành động thực tế làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây
dựng.
Tại Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về KNS. ThS. Nguyễn
Thị Oanh trình bày quan điểm KNS với tư cách là đối tượng của giáo dục KNS là năng
lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày [12].
Theo tiến sĩ tâm lí Huỳnh Minh Sơn: “KNS là những kĩ năng tinh thần hay
những kĩ năng tâm lí, kĩ năng tâm lí - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích
ứng trong cuộc sống. Những kĩ năng này giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình
cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển.Kĩ năng sống còn
được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lí xã hội giúp cho cá nhân
vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực
tại…”.
Cách đây ít lâu, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh phổ thông. Tại hội thảo, chuyên gia Phan Thị Lạc nói "hãy nhìn vào tội
phạm trẻ vị thành niên đang gia tăng; hành vi ứng xử tiêu cực khi các em gặp phải sự

cố bất thường nho nhỏ trong cuộc sống; học sinh 18 tuổi tốt nghiệp THPT không biết
lựa chọn cho mình hướng đi nào để tồn tại và phát triển, con người cần đứng vững và
bước vững chắc trên đôi chân của mình và cần có kĩ năng sống".
Ngoài ra, trong bài viết “Khái niệm KNS nhìn từ góc độ tâm lí học”, PGS
Nguyễn Quang Uẩn đã xem xét khái niệm KNS dưới góc độ tâm lí học, tác giả đã phân
tích: Cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống, với sự đan xen của dòng


“hoạt động có đối tượng” và “mối quan hệ giao tiếp ứng xử” giữa con người với con
người, đó là hai mặt có quan hệ tác động lẫn nhau, tạo nên cuộc sống đích thực của mỗi
con người. Trong hệ thống các kĩ năng cơ bản có tính tổng hợp và phức tạp trong hoạt
động sống của con người có các KNS. Tác giả đã đưa ra khái niệm về kĩ năng sống như
sau: “KNS là một tổng hợp phức tạp của một hệ thống các kĩ năng, nói lên năng lực
sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và tham gia vào cuộc sống
hàng ngày có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống”.
Từ các quan niệm về kĩ năng sống nêu trên, có thể rút ra nhận xét:
- Có nhiều cách biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác nhau tùy
theo cách tiếp cận vấn đề. Khái niệm KNS hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những
năng lực tâm lí xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng lực tâm lí xã
hội mà bao gồm cả những kĩ năng vận động.
- Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau (việc xác định nội hàm của
khái niệm rộng, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái niệm rộng, hẹp khác
nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về KNS là: Khẳng định KNS thuộc
về phạm trù năng lực (hiểu kĩ năng theo nghĩa rộng) chứ không thuộc phạm trù kĩ thuật
của hành động, hành vi (hiểu kĩ năng sống theo nghĩa hẹp).
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về KNS đề cập
đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại ngữ, kĩ
năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa kĩ năng để sống
còn như học chữ, học nghề, làm toán tới kĩ năng bơi lội… với khái niệm KNS đã được
đề cập ở các định nghĩa nêu trên.

Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng khu vực
và từng quốc gia. Ở một số nước, KNS được hướng vào giáo dục vệ sinh, dinh dưỡng
và phòng bệnh. Một số nước khác, KNS lại hướng vào giáo dục hành vi và cách ứng
xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay giáo dục lòng yêu hòa bình.
Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho thanh thiếu niên ở các nước cũng khác nhau. Có
nước chỉ hạn chế những KNS cần cho lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, phòng tránh tệ nạn xã
hội, nghĩa là kĩ năng sống chỉ dành cho một số nhóm đối tượng có nguy cơ cao để


đương đầu với những thách thức của xã hội, KNS không phải là cần cho mọi người.
Nhưng ở một số nước khác sự nhận thức về KNS sâu sắc hơn, do đó KNS được phát
triển cho mọi đối tượng, với những KNS đó con người có thể vận dụng vào giải quyết
các vấn đề xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống khác nhau của từng
loại đối tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử dụng khái niệm KNS của UNESCO
(sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt động phát triển kĩ
năng sống cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên. Điều này được lí
giải bởi hai lí do: Thứ nhất, nếu hiểu KNS theo nghĩa hẹp là đồng nhất KNS với năng
lực tâm lí xã hội do đó làm giảm đi phạm vi ảnh hưởng cũng như tác dụng của KNS.
Năng lực tâm lí xã hội đề cập tới khả năng của con người biểu hiện những cách ứng xử
đúng hoặc chính xác khi tương tác với người khác trong các tình huống khác nhau của
môi trường xung quanh dựa trên nền văn hóa nào đó. Nhưng, điều cần lưu ý là con
người không chỉ cần có năng lực thích ứng với những thách thức của cuộc sống mà con
người còn cần và phải biết thay đổi một cách phù hợp mang tính tích cực; Thứ hai, khái
niệm KNS theo nghĩa rộng bao hàm trong nó năng lực tâm lí xã hội với ý nghĩa là
thành phần có vai trò chung cho việc hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể
chất, giúp cá nhân sống hạnh phúc với người khác trong xã hội. Bên cạnh đó, theo
nghĩarộng, khái niệm KNS còn đề cập đến khả năng con người quản lí được các tình
huống rủi ro, không chỉ đối với bản thân mà có thể gây ảnh hưởng đến mọi người trong
việc chấp nhận các biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Đây chính là khả năng con người quản
lí một cách thích hợp bản thân, người khác và xã hội trong cuộc sống hàng ngày.

Do tiếp cận kĩ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách phân loại
KNS. Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình [3], tồn tại các cách phân loại kĩ
năng như sau:
- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe. Theo cách phân loại này có 3 nhóm
kĩ năng: Nhóm thứ nhất, là nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng cụ thể: Tư
duy phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân tích, khả năng sáng
tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị…; Nhóm thứ hai, là các kĩ năng đương
đầu với cảm xúc, gồm các kĩ năng cụ thể : Ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự


căng thẳng, kiềm chế được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điều chỉnh; Nhóm
cuối cùng, là nhóm kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tương tác) với các kĩ năng thành phần:
Giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thông chia sẻ, khả năng
nhận thấy thiện cảm của người khác.
- UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm nêu trên mới chỉ dừng ở
các KNS chung, trong khi đó còn có những kĩ năng thể hiện trong những vấn đề cụ thể
khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế, UNESCO đề xuất thêm các kĩ năng như: Vệ
sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng, các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe
sinh sản; ngăn ngừa và chăm sóc người bị bệnh HIV/AIDS; phòng tránh rượu, thuốc lá
và ma túy, phòng ngừa thiên tai, bạo lực, rủi ro, hòa bình và giải quyết xung đột; gia
đình và cộng đồng; giáo dục công dân; bảo vệ thiên tai và môi trường.
- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự hoàn
thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá nhân với nhóm KNS:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng: Kĩ
năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với
căng thẳng.
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác, với các kĩ năng thành phần:
Kĩ năng quan hệ tương tác nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực
của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kĩ năng: Tư duy phê

phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Những cách phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có giá trị,
trong nghiên cứu phát triển lí luận về KNS và chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế,
các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào một tình huống cụ
thể, con người cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng khác nhau. Ví dụ, khi cần quyết định
một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng những kĩ năng như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ
năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo…
Kết quả nghiên cứu về KNS của nhiều tác giả [3,4] đã khẳng định: Dù phân loại
theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt lõi như: Kĩ năng xác


định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng; kĩ năng giải
quyết mâu thuẫn một cách tích cực; kĩ năng nhận thức, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng
đặt mục tiêu...[3]. Thống nhất với quan niệm này, đề tài đã giới hạn các KNS được
nghiên cứu để giáo dục cho học sinh lớp 11 trên địa bàn tỉnh Bình Định thông qua môn
Địa lí gồm các kĩ năng: Kĩ năng ứng xử với môi trường thiên nhiên, kĩ năng bảo vệ môi
trường, kĩ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng tránh thiên tai và
những hành vi gây hại đến môi trường sống. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng dụng
các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau này để sử dụng và khai thác hợp lí tài
nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự phát triển biền vững.
Đề tài nghiên cứu các kĩ năng này nhằm giáo dục cho học sinh một số kĩ năng
cần thiết để giúp cho các em học sinh lớp 11 có thể vận dụng vào thực tiễn ở địa
phương, khai thác có hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên của quê hương.
1.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở cấp độ xã
hội và cấp độ nhà trường [9]. Ở cấp độ nhà trường, khái niệm giáo dục chỉ quá trình
giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực hiện thông qua các
hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là các hoạt động do các cơ sở giáo dục (trường
học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện theo kế hoạch, chương trình giáo dục, trực
tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về chúng. Trong các hoạt động giáo dục, hoạt động

dạy học là nền tảng và chủ đạo không chỉ trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động
giáo dục khác trong nhà trường. Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền
tảng và chức năng chủ đạo trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục
được tổ chức có định hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường hoạt động và
giao tiếp có định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt động giáo dục, người
học tiến hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc chung, mục tiêu chung,
những chuẩn mực giá trị chung và các biện pháp chung, nhờ vậy học sinh được giáo
dục theo những tiêu chí chung.
Kĩ năng sống được hình thành thông qua quá trình xây dựng những hành vi lành
mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả


kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng thích hợp. Do vậy, KNS phải được hình thành cho
học sinh thông qua con đường đặc trưng - hoạt động giáo dục. Theo UNICEF, giáo dục
dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi
nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành vi.
Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ
chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức (cái học sinh biết) và thái
độ, giá trị (cái học sinh nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động thực tế (làm gì và
làm cách nào) một cách thích hợp và mang tính chất xây dựng. Giáo dục KNS cho học
sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng
hoặc thay đổi ở các em một số hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát
triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị,
thái độ và kĩ năng phù hợp.
1.1.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 11
Có rất nhiều những kiến thức liên quan đến kĩ năng sống. Bởi thế khi giáo dục
kĩ năng sống có nhiều nội dung khác nhau. Một số nội dung cơ bản như: Kĩ năng giải
quyết vấn đề, kĩ năng tìm hiểu sự hỗ trợ, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra quyết định,
kĩ năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, kĩ
năng phòng tránh thiên tai, kĩ năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường…

1.1.3.1. Kĩ năng ra quyết định
Trong cuộc sống hàng ngày con người luôn phải đối mặt với những tình huống,
những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn, đưa ra quyết định hành động.
Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương
án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp
thời.
Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ, phụ
thuộc vào người khác mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước
khi ra quyết định.
Để đưa ra quyết định phù hợp, chúng ta cần:


- Xác định vấn đề hoặc tình huống mà chúng ta đang gặp phải.
- Thu thập thông tin về vấn đề hoặc tình huống đó.
- Liệt kê các cách giải quyết các vấn đề, tình huống đã có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương án
giải quyết.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng phương
án đó.
- So sánh giữa các phương án để giải quyết lựa chọn phương án tối ưu.
Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp con người có được sự
lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược lại, nếu
không có kĩ năng ra quyết định, con người ta có thể có những quyết định sai lầm hoặc
chậm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và tương lai
trong cuộc sống của bản thân.
Để đưa ra quyết định một cách phù hợp, cần phối hợp với các KNS khác như:
Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng giải quyết vấn đề,…
Trước yêu cầu cấp bách về việc đưa khái niệm KNS và chương trình giáo dục
học đường, trong đó có giáo dục phổ thông nói chung, THPT nói riêng, thời gian qua
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học về việc xây dựng chương

trình giáo dục KNS cho học sinh các cấp học. Một trong những vấn đề được quan tâm
ở các hội thảo này là phương thức thực hiện giáo dục KNS cho học sinh như thế nào
cho hiệu quả.
Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm của một số nước cho thấy có 3 phương án
thực hiện giáo dục KNS cho học sinh là:
- Xây dựng môn học về giáo dục KNS đưa vào chương trình học tập của học
sinh.
- Lồng ghép các nội dung giáo dục KNS vào các môn học có ưu thế và các hoạt
động giáo dục khác.
- Tích hợp giáo dục KNS vào các môn học và các hoạt động giáo dục.


Việc hình thành một môn học riêng là rất khó vì thời lượng của mỗi tiết học rất
hạn chế, phải tốn nhiều thời gian cho công trình nghiên cứu cũng như với giáo dục đạo
đức cho học sinh, học sinh có thể học thuộc lòng được khái niệm và giải thích được ý
nghĩa xã hội của đạo đức nhưng chưa chắc học sinh đã có những hành vi phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức mà các em rất thuộc.
Phương thức lồng ghép cũng đã được thực hiện với một số nội dung giáo dục
cần cập nhật vào chương trình giáo dục phổ thông như giáo dục dân số, giáo dục môi
trường… Tuy nhiên trong giáo dục KNS, phương thức này cũng không nhiều hiệu quả.
Những khó khăn khi thực hiện theo phương thức này là:
- Khó khăn trong việc xác định các môn học để lồng ghép. Những môn học này
phải đảm bảo có những yếu tố tương đồng với đặc trưng của giáo dục KNS (chú trọng
thực hành và kinh nghiệm sống của học sinh; thiết lập hành vi cụ thể trong từng tình
huống cụ thể…).
- Khó khăn trong việc đảm bảo nội dung giáo dục KNS đã được lồng ghép. Bởi
vì, do tính chất của lồng ghép, nội dung giáo dục KNS có tính chất độc lập nhất định so
với nội dung của môn học được sử dụng để lồng ghép, việc khai thác nội dung giáo dục
KNS đến đâu phụ thuộc vào từng giáo viên, thậm chí từng tiết học của môn học được
lồng ghép.

Với những phân tích trên, nhóm tác giả cho rằng, cần xác định giáo dục KNS là
mục đích của giáo dục, theo đó, tất cả các môn học các hoạt động giáo dục trong nhà
trường phải hướng đến giáo dục KNS cho học sinh. Có như vậy, giáo dục KNS cho học
sinh mới được thực hiên một cách thường xuyên, liên tục cả về thời gian và không gian
nhờ đó mà các mục tiêu về giáo dục KNS cho học sinh mới đạt được ở mức độ cao.
Đây cũng là lý do mà tác giả lựa chọn phương thức tích hợp là phương thức giáo dục
KNS cho học sinh trong trường THPT.
Các phương pháp tiếp cận trong giáo dục KNS cho học sinh lớp 11 tại
trường THPT được khái quát gồm:


- Phương pháp tiếp cận cùng tham gia: Tạo sự tương tác giữa giáo viên với học
sinh, học sinh với học sinh và tăng cường sự tham gia của học sinh trong học tập, thực
hành kĩ năng.
- Phương pháp tiếp cận hướng vào người học: Dựa vào kinh nghiệm sống và
đáp ứng nhu cầu của học sinh.
- Phương pháp tiếp cận hoạt động: Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động
để xây dựng hành vi/thay đổi hành vi.
Với các phương pháp tiếp cận trên, các phương pháp dạy học cụ thể được sử
dụng trong giáo dục KNS cho học sinh lớp 11 là: Phương pháp đàm thoại gợi mở,
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp giải quyết vấn đề …
1.1.3.2. Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là
một KNS quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách
đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
Để tìm kiếm và xử lí thông tin chúng ta cần:
- Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin.
- Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần tìm kiếm là gì.
- Xác định các nguồn, các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông tin
đó (Ví dụ: Sách, báo, mạng internet, bạn bè, người quen…).

- Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan đến việc
cung cấp thông tin nếu có.
- Chuẩn bị phương tiện, giấy tờ, bộ công cụ để thu thập thông tin.
- Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng.
- Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung một cách hệ thống.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các
thông tin trái chiều; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các
thông tin đó.
- Viết báo cáo, nếu được yêu cầu.


Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin cần kết hợp với kĩ năng tư duy phê phán và
kĩ năng tìm kiếm hỗ trợ giúp đỡ.
1.1.3.3. Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức
nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa,
biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm.
Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng
không làm hại hay tổn thương cho người khác, kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan
hệ tích cực với các thành viên trong gia đình, bạn bè.
Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự cảm
thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát
cảm xúc. Người có kĩ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những
người khác; có cách ứng xử phù hợp khi làm việc cùng và ở cùng với người khác trong
một môi trường tập thể quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp họ có
thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính xác.
1.1.3.4. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến
sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ bao gồm các yếu

tố sau:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
- Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
Khi tìm đến các địa chỉ cần hỗ trợ, chúng ta cần:
- Cư xử đúng mực và tự tin.
- Cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn.
- Giữ bình tĩnh khi gặp sự cố đối xử thiếu thiện chí. Nếu vẫn cần sự hỗ trợ của
người thiếu thiện chí, cố gắng tỏ ra bình thường, kiên nhẫn nhưng không sợ hãi.


- Nếu bị cự tuyệt, đừng nản chí, hãy kiên trì tìm kiếm sự hỗ trợ từ các địa chỉ
khác, người khác.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ giúp chúng ta có thể nhận được những lời
khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt
được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ
giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng
ta có cái nhìn mới và hướng đi mới.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải
quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kĩ
năng này, cần kĩ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kĩ năng ra
quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn.
1.1.3.5. Kĩ năng hợp tác
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc,
một số lĩnh vực nào đó vì mục tiêu chung,
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cảm thông và
cùng làm việc có hiệu quả với các thành viên khác trong nhóm.
Biểu hiện của người có kĩ năng hợp tác:
- Tôn trọng mục đích, mục tiêu chung của nhóm; tôn trọng những quyết định

chung, những điều đã cam kết.
- Biết giao tếp hiệu quả, tôn trọng đoàn kết cảm thông, chia sẻ với các thành
viên khác trong nhóm.
- Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng và xem xét các ý kiến, quan ddiemr của mọi người trong
nhóm.
- Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tơt nhiệm vụ
đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên trong nhóm cùng
hoạt động.
- Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướn mắc
để hoàn thành mục đích, mục tiêu chung.


- Có trách nhiệm về những thành công hay những thất bại của nhóm, về những
sản phẩm do nhóm tạo ra.
Có kĩ năng hợp tác là một yêu cầu quan trọng đối với người công dân trong một
xã hội hiện đại, bởi vì:
- Mỗi người có điểm mạnh và hạn chế riêng. Sự hợp tác trong công việc giúp
mội người hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất,
vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn trong công việc chung.
- Trong xã hội hiện đại, lợi ích của cá nhân, mỗi cộng đồng đều phụ thuộc vào
nhau; mỗi người như một chi tiết của một bộ máy lớn, phải vận hành đồng bộ, nhịp
nhàng không thể hành động đơn lẻ.
- Kĩ năng hợp tác giúp cá nhân sống hài hòa tránh xung đột trong quan hệ với
người khác.
Để có được sự hợp tác có hiệu quả, chúng ta cần vận dụng tốt các KNS khác
như: tự nhận thức, giao tiếp, ra quyết định, tiềm kiếm và sử lí thông tin, …
1.1.3.6. Kĩ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể
trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực

để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ
suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề,
thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan
trong cuộc sống.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra
quyết định, đảm nhận trách nhiệm.
1.1.3.7. Kĩ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân.
Kĩ năng tự nhận thức là khả năng của con người hiểu về chính bản thân của
mình như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội biết nhìn nhận và đánh giá đúng về
tìm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,... của bản thân mình.


Quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang căng
thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người
giao tiếp, ứng sử phù hợp và hiệu quả cũng như cảm thông được với người khác. Ngoài
ra có hiểu đúng về mình con người mới có những quyết định, sự lựa chọn đúng đắn,
phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu của xã hội. Ngược
lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn đến những hạn chế, sai lầm thất bại
trong cuộc sống và giao tiếp với người khác.
Để nhận thức đúng về bản thân phải trải qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với
người khác.
1.1.3.8. Kĩ năng tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới,
với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng
khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc
lập trong suy nghĩ.
Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến

và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả năng suy
nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải
qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
Tư duy sáng tạo là một KNS quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người
thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp
những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó
một cách linh hoạt và phù hợp.
Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo
thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho
bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất.
1.1.3.9. Kĩ năng giải quyết vấn đề
Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình


×