Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao học lênin bàn về nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.92 KB, 31 trang )

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, khoa
học. Tính tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ: Đảng là một hệ thống
các cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Kể từ khi ra đời Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được
những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử, kinh tế tăng trưởng khá, đời sống
nhân dân được nâng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững, hệ thống chính
trị được hoàn thiện và đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao…bên cạnh những thành tựu đó thì có không ít vấn đề hạn chế và khó
khăn đang đặt ra, trong công tác xây dựng Đảng cũng còn nhiều bất cập.
Trong bối cảnh mới tiến hành công cuộc đổi mới tiến hành công cuộc đổi
mới, hội nhập quốc tế, để Đảng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ vai trò sứ mệnh
của mình thì điều vô cùng quan trọng là phải đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng cho phù hợpvới tình hình mới. Để đổi mới nội dung
và phương thức cầm quyền của Đảng thì chúng ta càng cần phải nghiên cứu
và thấm nhuần sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng . Chính vì vậy Học viên đã chon đề
tài : “ Lênin bàn về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng
sản” làm tiểu luận.

1


B. PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VÀ ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG
VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG


1.1. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và sự cần thiết phải
có Đảng.
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, C.MácPh.Ăngghen đã vạch ra những tư tưởng dùng làm xuất phát điểm về Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân. Hai ông đã tìm ra quy luật phát triển của
xã hội, luận chứng một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi
của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ tất yếu của loài người tiến tới một hình thái
kinh tế-xã hội cao hơn, tức là chủ nghĩa cộng sản. Mác và Ăngghen cũng đã
chỉ ra một lực lượng xã hội có khả năng thực hiện sự quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, đó là giai cấp công nhân.
Vai trò lịch sử của giai cấp vô sản được quy định bởi các yếu tố khách
quan, trước hết là vị trí của nó trong nền sản xuất xã hội. Để tồn tại, giai cấp
vô sản buộc phải đi làm thuê cho bọn tư sản. Vì vậy, giai cấp vô sản sẽ không
thoát khỏi ách của tư bản, nếu không tiêu diệt chính cái cơ sở của xã hội tư
bản chủ nghĩa. Sự giải phóng của giai cấp công nhân, cũng có nghĩa là sự thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản, chỉ có thể thực hiện được bằng chính giai cấp công
nhân, chứ không phải bằng giai cấp nào khác.
Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa tư
bản và lao động, đó là cơ sở khách quan của cuộc cách mạng xã hội, của sự
quá độ của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình mang tính quy luật của sự tích tụ hoá sản xuất tư bản chủ
nghĩa và lao động trong các xí nghiệp lớn tạo điều kiện khách quan để tập hợp

2


và thống nhất giai cấp vô sản, tạo cho họ ý thức giác ngộ giai cấp, thói quen
tổ chức và tình đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống tư bản.
Do địa vị khách quan của mình, giai cấp vô sản thể hiện như một giai
cấp có tính tổ chức nhất định và tinh thần cách mạng triệt để nhất. Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng, để cho phong trào đó kết thúc thắng lợi, cần phải

thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và thiết lập nền chuyên chính vô
sản. Không có những điều đó thì không thể tiêu diệt được chủ nghĩa tư bản và
không thể thành công chủ nghĩa xã hội.
Vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, địa vị lãnh đạo của nó trong
cuộc đấu tranh cách mạng của tất cả những người bị bóc lột chống bọn bóc
lột, quyết định sự cần thiết phải xây dựng một chính đảng của giai cấp vô sản,
quyết định bản chất giai cấp của đảng và đường lối xây dựng Đảng.
Mác và Ăngghen dạy rằng: giai cấp vô sản chỉ có thể hành động như
một giai cấp, khi nó được tổ chức thành một đảng chính trị đặc biệt, chính
đảng đó phải đối lập với tất cả các đảng của giai cấp hữu sản. Khi xác định sứ
mệnh lịch sử của Đảng, của giai cấp công nhân, Ăngghen viết: “Muốn cho
giai cấp vô sản có đủ sức và có thể chiến thắng vào lúc quyết định thì điều cần
thiết là-Mác và tôi đã bảo vệ quan điểm này từ năm 1847- phải tổ chức được
một đảng riêng biệt, tách ra khỏi tất cả các đảng khác và đối lập với các đảng
đó, nhận thức rõ mình là Đảng của giai cấp”.
Mác và Ăngghen đã luận chứng về mục đích chủ yếu của cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và chính đảng của nó. Mục đích đó là lật đổ chủ
nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Chỉ có một Đảng được vũ trang bằng lý luận tiên tiến và liên hệ mật
thiết với quần chúng mới có khả năng làm cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản. Đảng giúp cho giai cấp công nhân hiểu được sứ mệnh lịch sử của mình,
giúp nó đoàn kết và tổ chức thành một đội ngũ, vũ trang cho giai cấp công

3


nhân một cương lĩnh hành động có căn cứ khoa học. Đảng là hạt nhân lãnh
đạo của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của
giai cấp tư sản và giành chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.

1.2. Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng.
Mác và Ăngghen đã đề ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
động của đảng vô sản. “Đồng minh những người cộng sản” (năm 1847-1852)
cũng như Hội liên hiệp công nhân quốc tế được thành lập và hoạt động dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Mác và Ăngghen là sự thể hiện những nguyên tắc đó
trong thực tiễn. Theo cách diễn đạt của V.I.Lênin thì “Đồng minh của những
người cộng sản”, “tuy không đông lắm nhưng thật sự là vô sản”. Được sự uỷ
nhiệm của “Đồng minh của những người cộng sản”, Mác và Ăngghen đã viết
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, một văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu
tiên của phong trào cộng sản.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã chỉ rõ, khác với các đảng công
nhân khác trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc
khác nhau, những người cộng sản luôn luôn đặt lên hàng đầu và bảo vệ những
lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản.
Nhưng điều đó không có nghĩa là những người cộng sản không chú ý hoặc
thậm chí coi thường lợi ích dân tộc của giai cấp công nhân, của nhân dân
nước khác.
- Mác và Ăngghen cũng nhấn mạnh rằng “Trong các giai đoạn khác
nhau mà cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản trải qua, họ luôn luôn
đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào. Như vậy, về thực tiễn, những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả
các nước, là bộ phận kích thích tất cả những bộ phận khác, về lý luận họ có
ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chổ họ có một nhận thức
sáng suốt về điều kiện, bước tiến và kết quả chung của phong trào vô sản!”.

4


Lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học, vũ khí mạnh mẽ nhất để nhận thức
và cải tạo thế giới, đã tạo cho họ cái ưu thế đó.

- Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã nêu lên luận
điểm cho rằng cuộc đấu tranh để giành mục đích cuối cùng của phong trào
công nhân-xây dựng chủ nghĩa cộng sản-cần phải được kết hợp với cuộc đấu
tranh nhằm thực hiện những nhiệm vụ trước mắt. Coi thường những lợi ích
trước mắt, cấp bách của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động,
nhất định sẽ dẫn đến chổ tách rời Đảng với quần chúng, biến Đảng thành một
nhóm biệt phái. Ngược lại, nếu chỉ hạn chế hoạt động của Đảng bằng cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện những nhiệm vụ trước mắt thì sẽ đến làm tiêu tan
tiền đồ cách mạng.
- Đánh giá vị trí lịch sử của “Đồng minh những người cộng sản” như
một đảng vô sản cách mạng đầu tiên, Ăngghen nhận xét rằng “Đồng minh” đã
có “thế giới khoa học làm cơ sở lý luận”. Học thuyết mác xít cách mạng là cơ
sở thống nhất tư tưởng của những người cộng sản cho phép họ xác định các
mục tiêu và nhiệm vụ ấy phù hợp những quy luật phát triển của xã hội và các
điều kiện lịch sử cụ thể.
- Xuất phát từ chỗ cho rằng Đảng Cộng sản là đội tiền phong có tổ
chức của giai cấp công nhân, toàn bộ đời sống và hoạt động của Đảng được
xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học, Mác và
Ăngghen đã chứng minh luận điểm cho rằng đảng cách mạng của giai cấp
công nhân phải có tổ chức chặt chẽ về tư tưởng và tổ chức của đảng.
- Điều lệ của “Đồng minh những người cộng sản” đã xác định rõ mục
đích và nhiệm vụ cơ bản của giai cấp công nhân là: lật đổ giai cấp tư sản và
thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản, thủ tiêu chế độ tư bản và xây dựng
xã hội mới, xã hội không có giai cấp và không có tư hữu. Điều lệ đã nêu lên
những yêu cầu cao đối với các thành viên của Đồng minh là thực hiện một
nếp sống và hoạt động phù hợp với mục đích của “Đồng minh”, thừa nhận tư
5


tưởng của chủ nghĩa cộng sản và tiến hành tuyên truyền cách mạng, không

tham gia vào các nhóm chống cộng sản, phục tùng các quy định của “Đồng
minh”.
Quốc tế thứ nhất (1864-1872), tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp
công nhân đã đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng các đảng vô sản. C.Mác
đã soạn thảo những văn kiện có tính cương lĩnh của Quốc tế thứ nhất và
“Điều lệ tạm thời”. Các văn kiện đó đã nhấn mạnh việc giành chính quyền đã
trở thành nhiệm vụ vĩ đại của giai cấp công nhân, việc giải phóng giai cấp
công nhân phải do chính giai cấp công nhân thực hiện. Theo đánh giá của
Lênin, Quốc tế thứ nhất do Mác và Ăngghen lãnh đạo đã đặt “nền tảng cho
cuộc đấu tranh vô sản, có tính chất quốc tế, để thực hiện chủ nghĩa xã hội”.
- Các văn kiện của “Đồng minh những người cộng sản”, của Quốc tế
thứ nhất và hoạt động thực tiễn của các tổ chức đó nói lên rằng, cơ sở để xây
dựng tổ chức là nguyên tắc tập trung dân chủ, mặc dù trong lúc đó chưa có
thuật ngữ này. Sinh hoạt nội bộ của các tổ chức được xây dựng trên cơ sở dân
chủ. Tất cả các thành viên của “Đồng minh” đều tham gia bầu cử và bầu lại
cơ quan lãnh đạo, tham gia việc dự thảo thông qua Cương lĩnh, Điều lệ. Chế
độ tập trung được thực hiện chặt chẽ, các cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ
quan cấp trên, thiểu số phải phục tùng đa số. Việc phát huy dân chủ được thể
hiện gắn liền với việc tôn trọng kỷ luật của Đảng, là kỷ luật bắt buộc đối với
mọi đảng viên, không trừ một đảng viên nào và gắn liền với việc thực hiện
các yêu cầu của Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.
Mác và Ăngghen đã không ngừng đấu tranh để củng cố sự thống nhất
về tư tưởng và tổ chức đội ngũ của các tổ chức vô sản, kiên quyết chống lại
các phần tử cơ hội chủ nghĩa và xét lại, chống lại tất cả những người vi phạm
kỷ luật của Đảng.
- Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã đặt vấn đề về
thành phần xã hội của một Đảng cách mạng một cách hết sức nghiêm túc.
6



Mác và Ăngghen viết: “Nếu các đại biểu của các giai cấp khác tham gia và
phong trào vô sản thì trước hết phải đòi hỏi họ không được mang theo các
quan điểm của giai cấp tư sản, tiểu tư sản và các thành kiến tương tự, mà phải
tiếp thu vô điều kiện thế giới quan của giai cấp vô sản”. Những kẻ mang theo
các quan điểm tư sản và tiểu tư sản là những phần tử xa lạ trong đảng công
nhân, nếu những kẻ đó chiếm được vị trí lãnh đạo trong Đảng là điều hết sức
nguy hiểm. sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, những lời chỉ giáo đó vẫn giữ
nguyên giá trị.
- Mác và Ăngghen đã khẳng định củng cố hàng ngũ Đảng, loại trừ
khỏi Đảng các phần tử thù địch và cơ hội chủ nghĩa là điều kiện cần thiết để
phát triển Đảng, củng cố sức chiến đấu của Đảng. Ăngghen viết: “Phong trào
vô sản nhất thiết phải trải qua các bước phát triển khác nhau, trong mỗi bước
phát triển đó đều có một số người dừng lại, họ không đi xa hơn nữa”.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng vô sản là phải loại trừ
những con người đó và bổ sung vào đội ngũ của mình trước hết là những
công nhân tiên tiến.
Mác và Ăngghen đã đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm chống
chủ nghĩa xã hội của bọn Ba-cu-nin và những phần tử cơ hội chủ nghĩa khác
chui vào Quốc tế thứ nhất và đã thực hiện việc khai trừ chúng ra khỏi Đảng.
- Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc cơ bản của
công tác xây dựng Đảng. Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Mác
và Ăngghen đã nêu ra khẩu hiệu chiến đấu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết
lại!”. Khẩu hiệu đó đã trở thành phương châm của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học xuất
phát từ chỗ cho rằng phong trào công nhân cách mạng do bản chất tự nhiên
của nó và do các quy luật lịch sử khách quan, nó là một phong trào quốc tế.

7



- Mác và Ăngghen đã không khoan nhượng đối với mọi biểu hiện của
chủ nghĩa dân tộc tư sản trong các tổ chức vô sản. Hai ông chỉ ra rằng những
tư tưởng của chủ nghĩa quốc tế vô sản được biểu hiện một cách đúng đắn
không hề mâu thuẫn với các lợi ích dân tộc. Ngược lại bỏ qua hoặc đánh giá
thấp những tư tưởng đó sẽ đem lại những tổn thất to lớn chẳng những cho
phong trào công nhân quốc tế mà còn gây thiệt hại cho quyền lợi dân tộc của
giai cấp công nhân ở mỗi nước. Mặt khác, lợi ích dân tộc được hiểu đúng sẽ
không mâu thuẫn mà còn phù hợp với lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân.
Những luận điểm về nguyên tắc tổ chức của Đảng vô sản do Mác và
Ăngghen đề ra, những truyền thống cách mạng của “Đồng minh những người
cộng sản” và của Quốc tế thứ nhất đã có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ sự
phát triển sau này của phong trào công nhân quốc tế, đã chuẩn bị cơ sở để
thành lập các đảng vô sản ở các nước.
II. LÊNIN BÀN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN.
2.1. Về nội dung cầm quyền
Sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước được thể hiện trước
hết ở nội dung lãnh đạo. Sau cách mạng tháng mười Nga thành công, Đảng
cộng sản Nga đã lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền
Xôviết. Những nội dung lãnh đạo của Đảng đã có những điểm mới so với
trước đó tức là chuyển trọng tâm từ việc lãnh đạo giành chính quyền sang
trọng tâm thực hiện khôi phục phát triển kinh tế- xã hôi, xây dựng cơ sở vật
chất cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy nội dung cầm quyền của Đảng
khi đã nắm chính quyền có những điểm khác so với khi chưa nắm chính
quyền. Chỉ khi nào Đảng nắm được chính quyền, những nội dung lãnh đạo
mới được hiểu và biểu hiện là những nội dung cầm quyền.

8



Nội dung cầm quyền, lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với nhà nước
chủ yếu thể hiện ở việc Đảng xác định các mục tiêu mang tính định hướng
trong các chủ trương đường lối cương lĩnh nghị quyết của mình. Mục tiêun lý
tưởng của Đảng cũng là mục tiêu xác định cho nhà nước hướng tới, vì lợi ích
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Mục tiêu được phân ra
theo các góc độ khác nhau như: mục tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu
tổng quát và mục tiêu riêng biệt đối với từng lĩnh vực nào đó.
Mục tiêu lâu dài bao gồm những tiêu chí mà sự lãnh đạo của Đảng cần
phải đạt sau một thời gian dài. Điều đó cũng có nghĩa là cương lĩnh của Đảng
đồi hỏi phải có tầm nhìn xa trông rộng. Các mục tiêu hay những định hướng
đường lối chủ trương của Đảng cần phải được xây dựng một cách khoa học,
tức là phải tuân theo những quy luật khách quan và xuất phát từ thực tiễn để
đảm bảo sự đúng đắn của chúng.
Trong các chủ trương đường lối nghị quyết của mình đảng còn phải xác
định nhiệm vụ cho đảng và nhà nước. Có nhiệm vụ lâu dài, nhiệm vụ trước
mắt trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tác phẩm Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền Xôviết năm 1918, Lênin cho rằng, sau khi đảng đã
nắm quyền thì nhiệm vụ tổ chức quản lý nước Nga- hiện đang đề ra trước
mắt chúng ta, đó là những nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm. Chúng ta đã giành
được nước Nga…bây giờ chúng ta phải quản lý nước Nga. Và toàn bộ đặc
điểm của tình hình hiện thời, tất cả sự khó khănlà ở chỗ phải hiểu rõ những
đặc điểm của bước chuyển từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và
dung lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc lột sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý.
Việc xác định các nhiệm vụ của Đảng và nhà nước trong cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng cần có sự định hướng vào các nhiệm vụ cấp thiết và mấu
chốt. Tức là cần xác định các nhiệm vụ trọng yếu và phải tập chung vào giải
quyết chúng. Theo lênin : “ Chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp lãnh đạo thống trị phải
biết hướng chính sách vào việc giải quyết trước tiên những vấn đề cấp thiết
9



nhất, mấu chốt nhất”. Trong các cương lĩnh nghị quyết của mình, đảng cần
xác định các nhiệm vụ trọng yếu và đề ra các biện pháp chỉ đạo trong thực
tiễn. Các nhiệm vụ chủ yếu bao gồm: công tác tư tưởng, xây dựng bộ máy nhà
nước và các tổ chức quần chúng, công tác xây dựng Đảng trong đó đặc biệt
quan trọng là công tác tổ chức và kiểm tra của đảng., nhiệm vụ trong các lĩnh
vực phát triển kinh tế vănhoá xã hội quốc phòng an ninh, đối ngoại.
Theo quan điểm của Lênin, trong nội dung lãnh đạo của đảng đoíi với
nhà nước Đảng không nên đề ra các nhiệm vụ quá chi tiết, nội dung giải quyết
quá cụ thể. Đảng chỉ cần định ra các phương hướng nhiệm vụ chung về các
mặt và nguyên tắc chung về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.2. Về phương thức cầm quyền
Sự cầm quyền lãnh đạo của Đảng không chỉ bao hàm mặt nội dung, mà
để lãnh đạo hiệu quả điều vô cùng quan trọng là phương thức cầm quyền của
đảng. Phương thức cầm quyền của đảng đối với nhf nước và xã hội được
Lênin đề cập một cách khá rõ nét qua các phương thức chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, Đảng cầm quyền đảng lãnh đạo nhà nước bằng việc đề ra
các chủ trương đường lối cương lĩnh chỉ thị nghị quyết của đảng.
Ở vị trí cầm quyền đảng có trọng trách là lãnh đạo nhà nước và toàn xã
hội nhưng nội dung lãnh đạo được xác định trong các cương lĩnh chỉ thị nghị
quyết của đảng là vấn đề mục tiêu phương hướng nhiệm vụ trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội mà nhà nước có nhiệm vụ giải quyết chúng. Đảng không
lãnh đạo nhà nước với cách thức ra mệnh lệnh từ trên xuống mà lãnh đạo
bằng việc đề ra chủ trương đường lối chỉ thị nghị quyết.
Thứ hai,Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước thong qua tổ chức đảng,
đội ngũ cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Đây là phương thức lãnh đạo mang tính phổ biến đối với mọi đảng cầm
quyền. Theo Lênin đây là một phương thức lãnh đạo cơ bản thể hiện như một
trọng trách của đảng cầm quyền. Theo Lênin chỉ có thong qua đội ngũ cán bộ


10


đảng viên của đảng cầm quyền trong bộ máy nhà nước, mọi hoạt động của
nhà nước mới đảm bảo đúng theo mục tiêu đã đề ra.
Như đã nêu ở trên, đảng lãnh đạo nhà nước trước hết ở việc đề ra chủ
trương, cương lĩnh chiến lược nghị quyết của đảng. Tuy nhiên việc đó là khó
khăn và đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ của đảng. Chỉ có thong qua đội ngũ cán
bộ đảng viên thì chỉ thị nghị quyết của đảng mới được thực thi trên thực tế.
Thứ ba, đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm
tra.
Đây là phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đã được Lênin đề
cập ở nhiều tác phẩm. Kiểm tra được coi là mấu chốt trong lãnh đạo của đảng
đối với nhà nước. Theo quan điểm cuae Lênin, các cơ quan và cá nhân người
lãnh đạo phải hết sức coi trọng công tác kiểm tra, tổ chức tốt việc kiểm tra
phải được coi là chức năng quan trọng của người lãnh đạo.
Đảng cầm quyền đảng lãnh đạo nhà nước thong qua công tác kiểm tra
các cán bộ đảng viên của đảng phải đảm nhiệm công tác kiểm tra, song để
kiểm tra có hiệu quả đảng cần phải biết cách kiểm tra, phải lôpi quần chúng
nhân dân vào công việc kiểm tra.
Quần chúng nhân dân là những người ngoài đảng, đảng lôi cuốn họ vào
kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước tức là đảng đồng thới sử dụng
họ kiểm soát ngay chính những đảng viên của đảng đang nắm giữ các vị trí
quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Thứ tư, đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua công tác vận
động quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Theo Lênin, quàn chúng nhân dân có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc giành giữ và thực thi quyền lực chính trị. Sự thắng lợi của cách mạng xã
hội chủ nghĩa đam rbảo cho một nhà nước vững mạnh đáp ứng yêu cầu lãnh

đạo của đảng phụ thuộc rất lớn vào niềm tin và khả năng vận động tập hợp
thuyết phục quần chúng đi theo đảng.

11


Để vânh động lôi cuốn được quần chúng tham gia quản lý nhà nước,
Lênin còn cho rằng phải thuyết phục quần chúng. Đảng lãnh đạo nhà nước và
xã hội phải bằng phương thức thuyết phục và nêu gương chứ không mệnh
lệnh cưỡng ép.
III. HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
CỦA LÊNIN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của
Đảng
Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định, Đảng ta là đảng
cầm quyền. Trong bản di chúc, Người khẳng định một lần nữa: “Đảng ta là
đảng cầm quyền, mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thầm nhuần đạo đức cách
mạng, thất sự cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thực
sự trong sạch vững mạnh, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
trung thành của nhân dân”.
- Đảng lãnh đạo nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
Với tư cách là Đảng cầm quyền vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền
được Hồ Chí Minh coi là một nguyên tắc để đảm bảo nhà nước là pháp quyền
của dân do dân vì dân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Người thể hiện
nguyên tắc đó :
Mục tiêu sự lãnh đạo của đảng là đảm bảo cho nhà nước giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Trong xây dựng nhà nước Hồ Chí Minh coi tính chất giai cấp của nhà
nước là vấn đề cơ bản của hiến pháp. Ngay trong lời nói đầu của hiến pháp

năm 1959 ghi rõ: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền
tảng lien minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, nhân dân lao động là lực lượng làm chủ nhà nước do giai
cấp công nhân, mà đội tiên phong là Đảng cộng sản lãnh đạo.

12


Trong quá trình lãnh đạo nhà nước, Đảng cần phải chú ý đảm bảo
cho bộ máy chính quyền cũng như cán bộ công chức trong sạch vững
mạnh:
Hồ Chí Minh chú trọng việc đảng cầm quyền phải xây dựng chính
quyền thật sự trong sạch vững mạnh. Người nhấn mạnh những yêu cầu về cần
kiệm liêm chính chí công vô tư. Trong thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ tỉnh
huyện và làng, tháng 10 năm 1945, Người viết :” Chún ta phải hiểu rằng các
cơ quan từ chính phủ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như
thời kỳ thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.
Người đặc biệt nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục những căn
bệnh nhất là tham nhũng, lãng phí, tham ô và những tiêu cực khác mà Người
gọi đó là giặc nội xâm.
Chuyển từ giai đoạn hoạt động bí mật sang hoạt động công khai, rồi với
tư cách là Đảng cầm quyền, cách thức lãnh đạo của Đảng cũng có sự thay đổi.
Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng đã cử nhiều đảng viên sang hoạt
động tại các cơ quan nhà nước trong đó nhiều người giữ chức vụ quan trọng.
Người phê bình một số cán bộ đảng viên cậy quyêng cậy thế phớt lờ kỷ luật
trong cơ quan. Người cho răng đảng viên không những phải chấp hành nghị
quyết của Đảng mà còn phải phục tùng hiến pháp và pháp luật của nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng phương thức thích hợp.

Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu đầu tiên trong sự lãnh đạo đối với Đảng
cầm quyền là phải đề ra được đường lối chủ trương đúng đắn, đường lối đó
phải được thể chế hoá thành luật, chính sách của nhà nước.
Khi đề cập vấn đề nhà nước thì điều mà Người quan tâm đó là quyền
lực thuộc về ai. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải là bộ
máy nmhà nước thể hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước phát
huy dân chủ để động viên nhân dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Đảng
13


lanhc đạo thong qua tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước bằng đội ngũ đảng
viên ở các tổ chức đó. Về mặt chức năng nhiệm vụ của Đảng và nhà nước có
khác nhau. Do đó cần phải phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản
lý của nhà nước. Trong điều kiện chiến tranh vai trò quản lý của nhà nước
không được thể hiện rõ nét. Vì vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh
chưa có một sự phân định rành mạch về phạm vi và quyền hạn giữa Đảng với
nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì
với tư cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt nam nêu ra
chủ trương đường lối và vận dụng thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị
xã hội tham gia các phong trào cách mạng, biến chủ trương đường lối thành
hiện thực.
- Mối quan hệ giữa Đảng với dân trong điều kiện Đảng cầm quyền
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh quyền lực của Đảng không tự nhiên
mà có. Quyền lực ấy là của nhân dân, nhândân uỷ thác cho Đảng đứng ra lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng. Cơ sở xã hội đối với quyền lực của Đảng không chỉ
là từ giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân dân lao động. Khi cầm
quyền, các tổ chức Đảng đóng vai trò lãnh đạo một cách toàn diện; cán bộ
đảng viên thường giữ chức vụ trong Đảng hoặc trong các tổ chức khác của hệ
thống chính trị. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức Đảng, cán bộ đảng

viên chớ xa dân.
Điều đáng lưu ý là trong quan hệ với dân, theo Hồ chí Minh, Đảng phải
chú ý các vấn đề.
Thứ nhất, Đảng phait luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân, phat huy
quyền làm chủ của dân để xây dựng chế độ mới. Một Đảng cầm quyền chân
chính đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động thì mặc nhiên đảng đó phải
thường xuyên lấy sức mạnh từ chin nhân dân.
Thứ hai, Đảng phải vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đây
là yêu cầu có ý nghĩa sốn còn đối với công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh
14


lưu ý nhân dân tham gia xây dựng Đảng dưới nhiều hình thức khác nhau, bao
gồm đóng góp ý kiến, nhất là trong việc xây dựng đường lối chủ trương của
Đảng, tích cực thực hiện chủ trương đó trong cuộc sống, kiểm tra cán bộ đảng
viên, giới thiệu người ưu tú vào Đảng.
Thứ ba, Đảng phải tìm cách nâng cao dân trí cho nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy việc nâng cao dân trí là
trách nhiệm của Đảng.
Thứ tư, Đảng không được theo đuôi quần chúng, mà phải tuyên truyền
giác ngộ quần chúng, làm cho nhân dân giác ngộ cách mạng, sẵn sang đem
sức mình thực hiện đường lối chủ trương của Đảng.
Thứ năm, Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình ; vừa là người
lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Sự vận dụng của Hồ Chí Minh
Đảng cầm quyền trong Tư tưởng Hồ Chí Minh có những nhiệm vụ sau:
. Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đúng.
Đây chính là điều kiện quyết định để đưa cách mạng đến thành công và
trở thành Đảng cầm quyền. Để có đường lối, chiến lược, sách lược đúng đòi
hỏi:

- Biết xác định đâu là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, đâu là nhiệm vụ và mục
tiêu trước mắt.
- Biết cách giải quyết đúng đắn, kịp thời mọi vấn đề thực tiễn cách
mạng đề ra trong quá trình vận động và phát triển của nó.
- Biết định ra hình thức tổ chức thích hợp và cách thức vận động để thu
hút đông đảo quần chúng nhân dân làm nhằm hiện thực hóa các quyết sách
chính trị. Dựa vào quần chúng để tổ chức, kiểm soát việc thực hiện các quyết
sách đó trong thực tế.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bất cứ một lĩnh vực nào, tất cả đều vì
lợi ích của nhân dân. Cái gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, cái gì có hại
cho dân thì phải hết sức tránh. Do đó, mọi lĩnh vực hoạt động đều ở trong
15


chính trị, chính trị đó là phục vụ con người, phục vụ nhân dân. ở nước ta,
giành độc lập dân tộc, mưu tự do hạnh phúc cho toàn dân là đặc trưng cơ bản
nhất của cuộc cách mạng chân chính do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Định ra được đường lối, chiến lược đúng, có khả năng tổ chức để thực
hiện thắng lợi từng bước, tiến đến thắng lợi hoàn toàn trong từng thời kỳ lịch
sử cụ thể, dự báo đúng và định hướng cho sự phát triển tiếp theo là yêu cầu
bắt buộc đối với một Đảng chân chính cách mạng là điều kiện và tiền đề bảo
đảm cho uy tín chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng.
. Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Để cầm quyền và tồn tại, sau khi giành được chính quyền, vấn đề then
chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng chính quyền nhân dân, công cụ sắc
bén, thiết yếu để tổ chức xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách
mạng. Điều này đã trở thành quy luật đối với tất cả các Đảng muốn trở thành
Đảng cầm quyền. Nhưng bản chất và vai trò của chính quyền được lập ra còn
tùy thuộc vào tính chất của mỗi cuộc cách mạng.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản lãnh đạo như ở nước ta

và một số nước khác thì sau khi lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính
quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền và công việc đầu tiên của Đảng là
xây dựng chính quyền nhà nước mới của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh
từng nói: nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều nhân dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của nhân dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do
dân cử nên. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Nhà nước của dân nghĩa là "bao nhiêu quyền hạn đều là của nhân dân".
Những người ở trong bộ máy nhà nước, bộ máy quyền lực, dù ở cấp nào cũng
đều là "đầy tớ của dân", đều do dân cử ra một cách trực tiếp hay gián tiếp để
đại biểu cho dân mà thực thi quyền lực. Dân có quyền giám sát, bãi miễn
người trong bộ máy nhà nước do mình bầu ra mà không làm tròn trách nhiệm
đại biểu quyền lực cho dân.

16


Nhà nước do dân nghĩa là dân bầu ra người đại diện cho mình để cầm
quyền, đồng thời dân có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi
miễn khi họ không làm tròn sự ủy thác, đại diện. Có thể nói, nhà nước muốn
điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân.
Hồ Chí Minh đã từng dạy rằng: "Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân… chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động"(4) chứ không phải bao cấp, làm
thay dân để dân ỷ lại, chờ đợi.
Nhà nước vì dân là nhà nước phải coi việc đưa lại quyền lợi chính đáng
cho nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình, đồng thời nhà nước đó phải
thật sự trong sạch. Dân là chủ thì mọi hoạt động của nhà nước đều phải hướng
tới phục vụ nhân dân chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Một nhà
nước vì dân đòi hỏi phải là nhà nước trong sạch, phải luôn luôn chống lại tiêu
cực từ trong bộ máy của mình.
Như vậy, để có một nhà nước đúng nghĩa là của dân, do dân, vì dân,

Đảng phải chăm lo xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo mục tiêu: việc gì
lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh. Có
thể nói, sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo nhà nước ta là công cụ phục vụ lợi ích
của nhân dân, thực hiện nhân dân làm chủ. Bác Hồ xem dân chủ là bản chất
của chế độ ta, của nhà nước ta. "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến mức cao
độ, đó là do tính chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viện được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên"(5). Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, coi trọng xây nền
nhân dân là hai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề, muốn xây dựng
nền nhân dân phải có sự lãnh đạo của Đảng, phải củng cố nền nhân dân thật
bền vững
. Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự
nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức và bóc
lột, quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc
17


tranh đấu ấy. Đảng cần sự đồng tình ủng hộ của quần chúng để biến mọi chủ
trương, đường lối thành hiện thực.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, nhờ biết dựa vào sức mạnh của quần
chúng mà Đảng ta đã làm nên thắng lợi hết sức vẻ vang, mang lại độc lập tự
do cho dân tộc.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ

và khó khăn, sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu Đảng tổ chức và phát
huy tính sáng tạo của cách mạng và quần chúng. Trong bất cứ một việc gì của
Đảng và nhà nước dù lớn hay nhỏ, mọi quyết định đều xuất phát từ tâm tư
nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Có như vậy Đảng mới tồn

tại và phát triển.
Một điểm nổi bật nữa là khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có nhiều
điều kiện mới, công cụ mới cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và
quần chúng. Đồng thời trong Đảng cũng nảy sinh nhiều bệnh tật mới như
quan liêu, mệnh lệnh, một số cán bộ đảng viên rơi vào tình trạng thoái hóa
biến chất, xa rời quần chúng. Để khắc phục tình trạng trên từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng
định: "Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi mới
công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: "cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy
yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không
lường được đối với vận mệnh của đất nước"(6).
Đảng phải phòng chống thoái hóa biến chất của một số cán bộ Đảng viên.
Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng là một bộ phận hợp thành của
"tư cách của Đảng chân chính cách mạng" và đối với mỗi đảng viên thì đó là
một vấn đề thuộc về "tính Đảng" không thể thiếu. Người nghiêm khắc đòi hỏi
những ai hoạt động cứu nước đều phải có đạo dức cách mạng.
Đặt ra yêu cầu cao về đạo dức cách mạng đối với đảng viên, Hồ Chí
Minh không bao giờ cho rằng bất cứ ai hôm qua còn là một người bình
18


thường, hôm nay đã trở thành đảng viên cộng sản, thậm chí người lãnh đạo
của Đảng bỗng chốc trở nên toàn bích, là "đã biến thành thánh ngay

Hồ Chí

Minh từng nói: thắng lợi của cuộc kháng chiến đánh hai đế quốc to là Pháp và
Mỹ "mới chỉ là bước đầu trên đường đi muôn dặm. Chúng ta phải tiến lên,

cách mạng phải tiến lên nữa". Nhưng để tiến lên nhân dân cần phải có đội ngũ
những người cán bộ, đảng viên thực sự là những người cách mạng, "cần có
người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách mạng".
Theo Hồ Chí Minh, luôn luôn có ba loại kẻ địch tấn công hàng ngày,
hàng giờ hòng khuất phục những người cộng sản, dẫn đến hậu quả là làm tha
hóa biến chất, làm cho họ đánh mất mình đê rồi họ mất nhân dân. Đó là:
1, Sự tiến công không ngừng của kẻ địch từ bên ngoài, từ nhiều phái,
bằng nhiều cách hòng làm lung lạc ý chí của những người cộng sản, làm cho
họ hoang mang, dao động, lý tưởng niềm tin phai nhạt;
2, Thói quen và tập quán lạc hậu, đây là "kẻ địch" ẩn náu trong mỗi
đảng viên. Đảng là con đẻ của nhân dân, sinh ra trong một đất nước có những
đặc điểm kinh tế xã hội với những thói quen và tập quán tốt xấu đan xen
nhau, chế ước nhau.Trong mỗi đảng viên đều có hai mặt đó, ở những mức độ
khác nhau. Những thói quen và tập quán xấu tồn tại trong đội ngũ đảng viên,
nếu không được "cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài" thì
bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội nó sẽ biến thành một lực lượng
có sức ỳ, níu kéo, thậm chí phá hoại sự nghiệp cách mạng;
3, Vì vậy, yêu cầu đầu tiên của đạo đức người đảng viên cộng sản mà
Hồ Chí Minh nêu ra là ý chí cách mạng, là lòng trung thành với Tổ quốc, với
dân tộc, với nhân dân và do đó cũng là trung thành với mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu, không nhụt dũng khí.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để trở thành một Đảng cầm quyền chân
chính, được nhân dân tin yêu quý trọng thì đòi hỏi nội bộ Đảng, những người
cán bộ, đảng viên phải là người có đạo đức cách mạng. Bởi vì chỉ có những
người có đạo đức cách mạng mới có thể vượt qua được những cám dỗ của
19


cuộc sống để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người đã từng nói: "có
gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng

đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người
3.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
. Đảng phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn trong từng thời kỳ cách mạng,
phải sát hợp với đời sống của nhân dân.
Với Hồ Chí Minh mọi hoạt động của đời sống xã hội, mọi đường lối,
chủ trương của Đảng đều hướng tới một mục đích chính trị cao cả: "Giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng", chèo lái
con thuyền cách mạng đưa nó tới đích: xây dựng Việt Nam thành một nước
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Trong từng thời kỳ cách mạng, một trong những vấn đề quan trọng là
phải nhận biết rõ ràng giặc nào "nổi lên" mạnh nhất, phải biết chiến thắng nó
như thế nào và bằng cách nào? Do vậy, Hồ Chí Minh xác định rất rõ đường
lối chính trị là những vấn đề thuộc về chiến lược và sách lược của cách mạng
nhưng khi thực thi thì "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Nhờ nắm được một cách
thấu đáo khoa học và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề xuất
những quyết sách chính trị mang tính mềm dẻo, linh hoạt để đưa con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua những thử thách ngặt nghèo để giữ vững chính
quyền cách mạng khi nó mới ra đời gặp đầy sóng gió với đường lối trường kỳ
kháng chiến trong 9 năm chống thực dân Pháp, với chủ trương vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, toàn dân, toàn diện, đấu tranh trên các mặt trận chính trị,
quân sự, kinh tế và ngoại giao…; đường lối chống Mỹ cứu nước, cả nước làm
hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Giành độc lập dân tộc, mưu tự do hạnh phúc cho toàn dân là đặc trưng
cơ bản nhất của các cuộc cách mạng chân chính do giai cấp công nhân lãnh
20



đạo. Đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không cùng giải quết
ngang nhau trong từng thời kỳ cách mạng. Bởi vậy phải vận dụng đúng đắn,
sáng tạo các nội dung đó, giữ được mối quan hệ khăng khít giữa chúng, biết
kết hợp hài hòa giữa các nội dung đó để tạo nên sức mạnh giành thắng lợi
từng bước tiến đến thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Đó chính là khoa học
và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng cầm quyền.
Để phát huy được mọi năng lực cách mạng của nhân dân, theo Hồ Chí
Minh, điểm then chốt là phải quan tâm tới những lợi ích chính đáng của toàn
dân, nhất là những nhu cầu đòi hỏi bức xúc của nhân dân. Người đã nhiều lần
nhấn mạnh rằng trong các kế hoạch kinh tế của chúng ta thì điều quan trọng
bậc nhất là nhằm cải thiện dần dần đời sống của nhân dân. "Đảng cần có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân".
Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra, Hồ Chí Minh luôn nhận rõ vị trí đích
thực của các giai cấp và các tầng lớp trong xã hội. Sự nhìn nhận khách quan
đó tạo cơ sở để có những chủ trương đúng đắn, phát huy tối đa mọi tiềm năng
ở các giai cấp, các tầng lớp xã hội để phục vụ lợi ích cách mạng, lợi ích của
nhân dân.
. Đảng lãnh đạo phải phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Đối với Hồ Chí Minh, vấn đề khẳng định vị trí của đất nước với quốc tế
và mở rộng mối quan hệ quốc tế là một vấn đề hết sức quan trọng. Ngay từ
những năm đầu buôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy cần
có sự đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa để chống lại chủ nghĩa đế
quốc và Người đã ra sức hoạt động cho phong trào đoàn kết này. Đến năm
1945 khi cách mạng thang Tám thành công, Hồ Chí Minh đã công bố tuyên
ngôn độc lập với toàn quốc dân đồng bào và toàn thế giới để khẳng định vị trí
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định nền độc lập tự chủ của đất
21



nước. Cũng từ đây, Hồ Chí Minh công khai mở rộng quan hệ với các nước
anh em trên thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, một Đảng cầm quyền muốn tồn tại và vững mạnh
ngoài việc làm tốt các trọng trách đối với đất nước, được nhân dân tin yêu,
kính trọng, Đảng còn phải được các Đảng anh em và nhân dân thế giới đồng
tình ủng hộ. Vì lẽ đó mà Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề mở rộng
quan hệ với các Đảng anh em.
3.3. Quan điểm của Đảng ta về nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng
- Về nội dung cầm quyền
Với tư cách là đảng duy nhất càm quyền, đảng chụi trách nhiệm trước
dân về vận mệnh dân tộc và sự phát triển của đất nước. Nội dung cầm quyền
của đảng xác định vị trí cầm quyền của đảng, thể hiện quyèn hạn trách nhiệm
của đảng trong việc quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
Có thể nói nội dung cầm quyền của đảng là một phạm trù lịch sử có
phạm vi giới hạn và mức độ xác định trong từng mối quan hệ chính trị và
quyền lực cụ thể đối với các đối tượng cụ thể.
Nội dung cầm quyền của đảng là toàn bộ hoạt động cầm quyền của
đảng, từ việc xác định mục tiêu đó cho đếnthực hiện mục tiêu đó; nó bao quát
toàn diện các lĩnh vực của đời sỗng xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị
Việc hoạch định đường lối chính trị là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của đảng, để cầm quyền lãnh đạo, đảng có trách nhiệm xác lập thể chế chính
trị xã hội của đất nước trên các mặt: cơ cấu tổ chức chính trị xã hội, cơ chế
vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo cho hai vấn đề trên.
Trong lĩnh vực kinh tế
Nội dung cầm quyền và lãnh đạo trọng tâm của đảng là xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được xem là mô

hinhf kinh tế tổng quát của thời kì quá độ. Một vấn dề có tính chất quyết định
22


là phải đẩy mạnh phát triển sản xuất bằng con đường công nghiệp hóa hiện
đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực xã hội
Với sứ mênh của mình, đảng phải phát huy sức mạnh toàn đảng, toàn
quân toàn dân phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo công
bằng bình đẳng trong quan hệ xã hội, phát triển con người, xây dựng xã hội
văn minh hạnh phúc.
Trong lĩnh vực văn hóa
Trên nền tảng của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Đang phải định hướng xây dựng một nền văn hóa chính trị nói chung
và văn hóa cầm quyền của đảng . Văn hóa chính trị của đảng, đến lượt mình
nó chỉ đạo việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng chính trị nội dung chiến lược phát
triển đất nước.
Một nội dung quan trọng của đảng cầm quyền là mối quan hệ giữa đảng
với nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội với tư cách là lực lượng của nhân
dân. Đảng nắm nhà nước bằng cách hóa thân vào nhà nước, đưa người vào
giữ các chức vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, lãnh đạo các cơ quan
đó thực hiện đường lối chủ trương của đảng.
- Về phương thức cầm quyền
Các phương thức cầm quyền của Đảng đối với nhà nước và xã hội bao
gồm :
Thứ nhất, lãnh đạo thông qua các quan điểm cương lĩnh ,chỉ thị và các
quyết định khác của đảng đối với tổ chức của đảng và nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội.
Thứ hai, lãnh đạo nhà nước thể chế hóa cương lĩnh đường lối thành các
quyết định của các cơ quan công quyền. Nhà nước cụ thể hóa các quan điểm

chủ trương đó thành kế hoach phát triển kinh tế- xã hội, thành pháp luật thông
tư chỉ thị thi hành trong thực tiễn xã hội.

23


Thứ ba, Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đọ của
đảng từ trung ương đến cơ sở.
Thứ tư, Đảng đưa người của Đảng vào giữ các chức vụ quan trọng
trong bộ máy nhà nước, giới thiệu các đảng viên ưu tú có đạo đức cách mạng
và bản lĩnh trí tuệ để ứng cử và bầu vào quốc hôi. Các cơ quan trung ương và
địa phương.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các
tổ chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua tính tiên phong gương
mẫu của đảng viên.
Thứ bảy, cầm quyền lãnh đạo phải lấy dân làm gốc, dựa vào dân và
đoàn kết với dân, phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân. Điều đó nói lên mục
tiêu của Đảng là vì dân và phương thức càm quyền hiệu quả là Đảng phải dựa
vào sức mạnh của nhân dân.
Thứ tám, phương thức cầm quyền lãnh đạo của đảng không chỉ thể hiện
ở đường lối chính trị, cách thức điều hành nhà nước và các tổ chức chính trị
làm theo mình. Đảng lãnh đạo một các trí tuệ khoa học và nghệ thuật. Đó là
sự cầm quyền khéo léo, linh hoạt nhạy bén bảo đảm sự kết hợp thực tế, các sự
kiện cụ thể.
3.4. Một số giải pháp đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của
Đảng trong tình hình mới
Nhóm giải pháp đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền cuả
Đảng đối với các thành tố của hệ thống chính trị.

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, cần phải cơ cấu lại
nhân sự của Quốc hội, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động lập
pháp của Quốc hội, thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, tổ
chức lại quốc hội theo hướng chuyên nghiệp.

24


- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, nhất thể hoá một số
chức danh quyền lực giữa Đảng và nhà nước để tạo điều kiện cho Chính phủ
hoạt động một cách thong suốt và hiệu quả. Cần phải sắp xếp lại hệ thống các
Ban cán sự Đảng trong Chính phủ, đổi mới cách thức bố trí nhân sự của
Chính phủ.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp, thể chế
hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp, đổi mới sự phối hợp
giữa các cơ quan thuộc khối nội chính trong quá trình điều tra xét xử.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị xã hội, thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, đảm bảo nguyên tắc tự chủ,
tự nguyện độc lập của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội.
Nhóm giải pháp đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền cuả
Đảng đối với các lĩnh vực công tác
- Đổi mới quá trình hoạch định đường lối chính sách của Đảng, xây
dựng cơ chế ra quyết định theo huớng dân chủ khoa học, xây dựng cơ chế bảo
vệ quyền và lợi ích của thiểu số trong cơ chế phục tùng đa số.
- Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, xây dựng các tiêu chí khoa học công khai minh bạch và
phản biện độc lập.
- Đơi mới công tác tổ chức cán bộ của Đảng, trao quyền hạn gắn với

trách nhiệm cá nhân, thay đổi cách thức tuyển chọn công chức, minh bạch hoá
việc bầu cử và bổ nhiệm cán bộ, phân công rõ rang giữa chức năng lãnh đạo
của Đảng và chức năng quản lý của nhà nước đối với công tác cán bộ.
- Đổi mới công tác kiểm tra giám sát quyền lực trong nội bộ Đảng, đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo cán bộ, đổi mới về nội
dung và phương pháp đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo và đội ngũ giảng
viên, tăng cương hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ.
25


×