Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

KHẢO SÁT MÔ HÌNH NUÔI CÁ MÚ (Epinephelus spp.) TẠI XÃ LONG SƠN, TP. VUÕNG TAØU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THỦY SẢN
[\

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

KHẢO SÁT MƠ HÌNH NI CÁ MÚ
(Epinephelus spp.) TẠI XÃ LONG SƠN,
TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

NGÀNH:
KHÓA:
SINH VIÊN THỰC HIỆN:

THỦY SẢN
2002 – 2006
VÕ NHẬT TRƯỜNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
9/2006


KHẢO SÁT MƠ HÌNH NI CÁ MÚ (Epinephelus spp.)
TẠI XÃ LONG SƠN, THÀNH PHỐ VŨNG TÀU,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

Thực hiện bởi

Võ Nhật Trường



Luận văn được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn: Trần Văn Phát

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 9/2006


TÓM TẮT

“Khảo sát mô hình nuôi cá Mú tại xã Long Sơn, Tp. Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa –
Vũng Tàu” được thực hiện trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2006. Qua điều
tra 30 hộ nuôi ao và 7 hộ nuôi lồng bè, chúng tôi thu được kết quả sau:
Mô hình nuôi ao đất: Diện tích các ao nuôi từ 1000 – 10.000 m2. Đa số các hộ
nuôi còn sử dụng nguồn giống đánh bắt ngoài tự nhiên, mật độ trung bình 0,2 con/m2.
Năng suất bình quân 200 – 800 kg/ha, thời gian mỗi vụ nuôi từ 10 – 12 tháng. Trọng
lượng cá thu hoạch từ 0,8 – 1,2 kg/con.
Mô hình nuôi lồng bè: Kích cỡ một ô lồng là 6 x 6 x 3 m, cỡ mắt lưới (2a) dao
động từ 10 – 40 mm, nguồn giống chủ yếu nhập từ Đài Loan, mật độ thả bình quân 25
con/m2, năng suất bình quân 0,5 – 1 tấn/lồng, thời gian nuôi 6 – 8 tháng, trọng lượng cá
thu hoạch 600 – 800 g/con.

- ii -


ABSTRACT

“Survey on gouper culture models at Long Son village, Vung Tau city, Ba Ria
– Vung Tau province” was carried out from 03/2006 to 05/2006. Results from interview

30 housholds with pond culture model and 7 households with cage culture model, as
following:
Pond culture model: average surface was about 1000 – 10.000 m2. Fingerling
fish has been caught from nature, average density was 0,2 fish/m2. Average productivity
was 200 – 800 kg/ha. Culture period was 10 – 12 months. Weight of adult fish was 0,8 –
1,2 kg/fish.
Cage culture model: size of cage was 6 x 6 x 3 m, mesh – size (2a) was 10 – 40
mm, fingerling fish was imported from Taiwan, average density was 25 fish/m3.
Average productivity was 0,5 – 1 ton/cage, culture period 6 – 8 months and average
weigh was 600 – 800 g/fish.

.

- iii -


CẢM TẠ

Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh. Cùng toàn thể quý
Thầy Cô trong Khoa Thủy Sản đã tận tình truyền đạt những kiến thức khoa học trong
suốt những năm qua.
- Các cán bộ công nhân viên ở Trung tâm khuyến ngư, Chi cục bảo vệ nguồn lợi
thủy sản tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu đã giúp đỡ cho tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Lòng biết ơn sâu sắc gởi đến:
- Thầy Trần Văn Phát đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin cảm ơn các bạn sinh viên trong lớp đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.


- iv -


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG
TÊN ĐỀ TÀI
TÓM TẮT TIẾNG VIỆT
TÓM TẮT TIẾNG ANH
CẢM TẠ
MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ
DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH
PHỤ LỤC

ii
iii
iv
v
vii
viii
viii

I.

GIỚI THIỆU

1


1.1
1.2

Đặt Vấn Đề
Mục Tiêu Đề Tài

1
1

II.

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2

2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.2.1
2.1.2.2
2.1.3
2.1.4
2.1.5
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.2.4
2.2.5


Đặc Điểm Tự Nhiên Của Tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Vò trí đòa lý
Các đặc trưng tự nhiên
Phần đất liền và côn đảo
Biển
Tình hình nuôi cá Mú trên Thế Giới và tại Việt Nam
Hiện trạng nghề nuôi cá Mú tại tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu
Tiềm năng phát triển thủy sản của tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu
Một Số Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Mú
Hệ thống phân loại
Môi trường sống
Tập tính dinh dưỡng
Sinh trưởng và phát triển
Tập tính sinh sản

2
2
2
2
3
4
5
5
6
6
6
6
7
7


III.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

8

3.1
3.2
3.3
3.4

Thời Gian Và Đòa Điểm Thực Hiện Đề Tài
Bố Trí Điều Tra
Phương Pháp Điều Tra Thu Thập Số Liệu
Xử Lý Số Liệu.

8
8
8
8

-v-


IV.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

9


4.1
4.1.1
4.1.2.
4.1.3
4.1.4
4.1.5
4.2
4.2.1
4.2.2
4.2.3
4.2.4
4.2.5
4.2.6
4.2.7
4.2.8
4.2.9
4.3
4.3.1
4.3.2
4.3.3
4.3.4
4.3.5
4.3.6
4.3.7
4.4

9
9
10
10

11
12
12
12
14
15
16
16
18
19
19
19
20
21
21
23
23
26
28
28
28

4.4.1
4.4.2

Thông Tin Tổng Quát Về Hộ Nuôi
Phân bố độ tuổi
Trình độ học vấn
Kinh nghiệm nuôi
Tình hình tham gia các lớp tập huấn khuyến ngư

Tình hình cung ứng con giống và thức ăn
Một Số Yếu Tố Về Kỹ Thuật Nuôi Cá Mú Trong Ao Đất
Kết cấu ao nuôi
Chuẩn bò ao
Thả giống
Mật độ thả nuôi
Thức ăn
Chăm sóc và quản lý
Phòng và trò bệnh cho cá
Thu hoạch
Hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi
Một Số Yếu Tố Kỹ Thuật Nuôi Cá Mú Trong Lồng Bè
Kết cấu bè nuôi
Thả giống
Mật độ thả nuôi
Thức ăn
Chăm sóc và quản lý
Phòng và trò bệnh cho cá nuôi
Thu hoạch
Những Khó Khăn, Trở Ngại Và Hướng Phát Triển Trong
Tương Lai
Những khó khăn và trở ngại
Hướng phát triển trong tương lai

V.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

30


5.1
5.2.1

Kết Luận
Đề Nghò

30
30

TÀI LIỆU THAM KHẢO

31

- vi -

28
29


DANH SÁCH CÁC BẢNG

BẢNG

Bảng 2.1
Bảng 4.1
Bảng 4.2
Bảng 4.3
Bảng 4.4
Bảng 4.5
Bảng 4.6

Bảng 4.7
Bảng 4.8
Bảng 4.9
Bảng 4.10
Bảng 4.11

NỘI DUNG

Hiện trạng nghề nuôi cá mú ở Bà Ròa – Vũng Tàu
Phân bố độ tuổi của hộ nuôi
Trình độ học vấn của hộ nuôi
Kinh nghiệm nuôi cá của nông hộ
Diện tích ao nuôi
Chuẩn bò ao nuôi
Nguồn gốc con giống
Xử lý cá trước khi thả
Mật độ thả nuôi trong các hộ nuôi
Một số chỉ tiêu về chăm sóc và quản lý
Sản lượng thu hoạch ở hộ nuôi
Hiệu quả kinh tế bình quân trên hecta của các hộ nuôi

TRANG

5
9
10
11
12
15
15

15
16
18
19
20

DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thò 4.1
Đồ thò 4.2
Đồ thò 4.3

Phân bố độ tuổi của các hộ nuôi
Trình độ học vấn của hộ nuôi
Kinh nghiệm nuôi của nông hộ

- vii -

9
10
11


DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH
HÌNH
Hình 4.1
Hình 4.2
Hình 4.3
Hình 4.4
Hình 4.5
Hình 4.6

Hình 4.7
Hình 4.8
Hình 4.9
Hình 4.10
Hình 4.11
Hình 4.12
Hình 4.13
Hình 4.14
Hình 4.15
Hình 4.16

NỘI DUNG
Bản đồ hành chính tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Ao nuôi cá Mú
Ao nuôi cá Mú
Cải tạo ao
Sàn cho cá ăn
Nơi trú ẩn của cá Mú
Toàn cảnh bè nuôi
Neo căng lưới
Giai ương cá Mú giống
Cá Mú giống
Thức ăn cho cá
Máy cắt thức ăn
Máy xay thức ăn
Tắm nước ngọt cho cá
Phân cỡ cá
Vệ sinh lưới

PHỤ LỤC

Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4
Phụ lục 5

Bảng câu hỏi điều tra nông hộ
Thông tin về các hộ nuôi trong ao đất
Thông tin về hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi
Danh sách các hộ nuôi bè
Một số chỉ tiêu về chất lượng nước trong nuôi cá Mú

- viii -

TRANG
1
13
13
14
17
17
17
21
22
23
24
25
25
26
27

27


I. GIỚI THIỆU
1.1

Đặt Vấn Đề

Trong những năm gần đây nghề nuôi cá biển ở nước ta nói chung và tại tỉnh Bà
Ròa - Vũng Tàu nói riêng đang được chú trọng đầu tư và phát triển một cách mạnh mẽ.
Ngoài các đối tượng có giá trò kinh tế cao được nuôi như: cá Chẽm, cá Hồng, cá Măng,
cá Chình, ... thì cá Mú là đối tượng nuôi rất có triển vọng.
Hiện nay, cá Mú là một loài cá biển có giá trò kinh tế cao không chỉ trong nước
mà còn xuất khẩu sang thò trường các nước trong khu vực, do cá Mú có cơ thòt chắc,
mùi vò ngon nên được nhiều nước ưa chuộng, đặc biệt là thò trường Châu Á như: Trung
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật, Malaysia, Singapore, ...
Tại tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu, ngoài hình thức nuôi trong lồng bè thì mô hình
nuôi cá Mú trong ao đất cũng được sự quan tâm chú ý của người dân nơi đây. Tuy
nhiên hiện trạng nghề nuôi cá Mú nơi đây còn phát triển chậm và gặp nhiều khó khăn.
Để biết rõ hơn về hiện trạng của nghề nuôi cá Mú tại đây và được sự chấp thuận của
Khoa Thủy Sản trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài:

“Khảo sát mô hình nuôi cá Mú tại xã Long Sơn, Thành phố Vũng Tàu,
tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu.”
1.2

Mục Tiêu Đề Tài
- Điều tra hiện trạng nghề nuôi cá Mú tại xã Long Sơn, Tp. Vũng Tàu.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế từ các mô hình nuôi.

- Đề xuất những biện pháp quản lý thích hợp để nghề nuôi cá Mú ngày càng
phát triển hơn.


-2-

II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1

Đặc Điểm Tự Nhiên Của Tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu

2.1.1

Vò trí đòa lý

Tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ bao gồm 8 đơn vò hành
chánh cấp huyện, thò, thành phố: Thành phố Vũng Tàu, thò xã Bà Ròa, các huyện: Tân
Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc, Long Điền, Đất Đỏ, Côn Đảo.
Ranh giới phần đất liền của tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu được xác đònh: Phía bắc
giáp tỉnh Đồng Nai. Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận. Phía tây giáp Thành phố Hồ Chí
Minh. Phía nam giáp biển Đông.
Toàn tỉnh có tổng diện tích là 1.975,15 km2, dân số 841.543 người, mật độ dân
số 426,1 người/km2. Huyện Xuyên Mộc có diện tích lớn nhất là 642,2 km2, huyện Côn
Đảo có diện tích nhỏ nhất 75,2 km2 và cũng có dân số và mật độ dân số nhỏ nhất
(4.267 người; 56,8 người/ km2 ). Dân số và mật độ dân số lớn nhất là Thành phố Vũng
Tàu 224.018 người, 15.928 người/ km2 (Sở thủy sản tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu, 2001).
2.1.3

Các đặc trưng tự nhiên


2.1.3.1 Phần đất liền và Côn Đảo
Chế độ nhiệt đới gió mùa thuộc vùng duyên hải Nam Bộ, gần xích đạo nên
nhiệt độ cao ít phân hóa theo mùa. Tuy vậy, khí hậu trong tỉnh cũng hình thành 2 mùa
rõ rệt: mùa khô gần 5 tháng (tháng 12 đến tháng 4), mùa mưa gần 7 tháng (từ tháng 5
đến tháng 11). Trong mùa mưa, lượng mưa trong năm đạt cao nhất là 2.333 mm, tháng
mưa nhiều nhất là tháng 6 và tháng 7 (đất liền) và 2.728 mm tháng 10 (Côn Đảo).
Nhiệt độ trung bình năm trong đất liền là 270C cao hơn Côn Đảo (26,90C), nhiệt
độ thấp nhất hàng năm cũng cao hơn 180C.
Có nhiều gió hoạt động, đổi chiều theo mùa. Gió mùa đông bắc có tần suất 30
– 50% vào mùa đông và gió mùa tây nam có tần suất 60 – 70% vào mùa hè, tốc độ gió
không cao, cực đại không vượt quá 30 m/s. Dông nhiều, tháng cao nhất là tháng 5, ít có
bão.
Toàn tỉnh có hơn 3/4 là đồi núi (thuộc bậc thềm cao nguyên Di Linh – vùng
Đông Nam Bộ) có trên 50 ngọn núi cao trên 100 m, khi ra biển tạo thành nhiều vònh,
mũi, bán đảo với nhiều quan cảnh đẹp (Bán đảo Long Sơn, bán đảo Vũng Tàu, vònh
Gành Rái, Kỳ Vân, mũi Hồ Tràm, …).


-3-

Đòa hình của tỉnh tập trung vào 4 loại đặc trưng: đồng bằng hẹp, các núi, gò đồi,
thềm lục đòa. Đòa hình toàn vùng có xu hướng dốc từ đất liền ra đến biển, tuy nhiên ở
gần biển vẫn có núi cao, núi có độ cao nhất chỉ khoảng 500 m.
Thổ nhưỡng: với diện tích 197.515 ha, theo độ phì của đất có thể chia đất đai
Bà Ròa – Vũng Tàu ra làm bốn loại chính: Đất rất tốt, là loại đất có độ phì cao chiếm
19,60% diện tích tự nhiên, chủ yếu là đất phù xa và đất xám. Đất tốt chiếm 26,40%.
Đất trung bình chiếm 26,40%. Còn lại hơn 39,6% là đất bò nhiễm phèn, mặn, đất xói
mòn trơ sỏi đá.
2.1.3.2 Biển
Biển của tỉnh thuộc vùng biển Đông Nam Bộ, có điểm mốc từ xã Bình Châu

đến giáp Cần Giờ và hòn đảo xa nhất thuộc Côn Đảo, bởi vậy có đầy đủ đặc tính của
biển Đông Nam Bộ.
Diện tích đặc quyền kinh tế của biển Đông Nam Bộ khoảng 297.000 km2, độ
sâu trung bình 50 m cách bờ 40 – 60 hải lý. Nền đáy bằng phẳng ít dốc, chất đáy phổ
biến là cát, bùn, vỏ sò. Trong đó đáy bùn chiếm khoảng 50% diện tích.
Biển Đông Nam Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình của
nước biển dao động 27,6 – 29,80C luôn cao hơn nhiệt độ không khí 1 – 30C. Nồng độ
muối trung bình của nước biển dao động 31 – 34‰ và có sự khác biệt theo mùa, vùng
và tầng nước.
Thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều 3 – 4 m, ảnh
hưởng của thủy triều sâu vào đất liền 170 km đối với hệ thống sông Đồng Nai.
Trong vùng biển có các vùng nước trồi, nước chìm hình thành 5 bãi cá chính
(bắc cù lao Thu, nam cù lao Thu, Côn Sơn, cửa sông Cửu Long, ngư trường cá nổi
Vũng Tàu – Phan Thiết). Có 4 bãi tôm (cù lao Thu, nam Vũng Tàu, cửa sông Cửu
Long, đông nam mũi Cà Mau). Có 3 bãi mực, tập trung đông ở biển Phan Thiết và
Vũng Tàu – Côn Đảo (Sở Thủy Sản tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu, 2001).


-4-


-5-

2.1.3 Tình hình nuôi cá Mú trên thế giới và tại Việt Nam
Trên Thế Giới
Cá Mú được biết đến là một loài cá biển có giá trò kinh tế cao, chúng có cơ thòt
chắc, mùi vò ngon và được thò trường nhiều nước trên thế giới ưa chuộng, đặc biệt là thò
trường Châu Á như: Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Malaysia, Singapore, …
Bắt đầu thập niên 70, nghề nuôi cá Mú phát triển nhanh chóng, đa số các loài
cá Mú có giá trò kinh tế cao đều đã được nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo và nuôi ở

một số nước Châu Á như: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Malaysia, Singapore, Thái
Lan, … Sản lượng nuôi cá Mú hàng năm đạt khoảng 5.000 tấn (FAO - 1998). Sản lượng
tiêu thụ trên các thò trường chính khoảng 1.600 tấn – 1.700 tấn (Mike Rimmer, 1998 –
trích bởi Trần Quang Vinh, 2002).
Về giá trò của cá Mú, các nước nuôi cá Mú như Đài Loan, Nhật, Thái Lan,
Trung Quốc năm 1999 đạt 5.394 tấn, đạt giá trò 46,8 triệu USD. Như vậy một kg cá Mú
có giá trò 8,67 USD (130.000đ) đây là loài cá biển có giá trò cao (tạp chí khoa học –
công nghệ tháng 4/ 2001 của Bộ Thủy Sản, trích bởi Trần Quang Vinh, 2002).
Tại Việt Nam
Ở Việt Nam cá Mú cũng được nhiều người biết đến là món đặc sản biển có giá
trò kinh tế cao. Trước đây do sự phong phú của cá Mú trong tự nhiên, người ta chỉ khai
thác mà không nghỉ đến việc nuôi chúng. Đến nay sản lượng cá Mú đánh bắt tự nhiên
giảm sút hẳn, trong khi đó thò trường ngày càng ưa chuộng dẫn đến cầu vượt cung, do
đó giá cá Mú không ngừng tăng lên cho nên nghề nuôi cá Mú đã được nhiều người chú
ý đến và bắt đầu phát triển.
Hiện nay cá Mú được nuôi rộng rãi ở các tỉnh ven biển như: Cát Bà (Hải
Phòng), Triệu Phong (Quảng Trò), Sông Cầu (Phú Yên), Phú Quý (Bình Thuận), Long
Sơn (Vũng Tàu), Kiên Hải (Kiên Giang), … Nơi nuôi thường bố trí ở các vùng ven biển,
trong vònh kín gió hoặc ven các hòn đảo, giống chủ yếu bắt ngoài tự nhiên. Ở Khánh
Hòa thường nuôi các loài cá Mú mỡ (E. tauvina), Mú mè (E. malabaricus), Mú bông
(E. bleckeri). Còn ở Bình Thuận thường nuôi các loài như cá Mú đỏ chấm nhỏ
(Plectroponus leopardus), Mú đỏ chấm lớn (Cephalopholis miniatus), cá Mú lồi (E.
fasciatus), cá Mú chấm (E. arcoiatus). Ở một số nơi ngư dân đã mua cá giống Mú đen
nhân tạo nhập từ Đài Loan thả nuôi luân canh trong ao bước đầu đã thành công (theo
website: www.binhthuan.gov.vn).


-6-

2.2.6


Hiện trạng nghề nuôi cá Mú tại tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu

tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu có tiềm năng lớn về nuôi cá Mú. Gần đây, cùng với
xu hướng phát triển chung, một số hộ ngư dân đã nuôi cá Mú trong ao đất ở vùng cửa
sông, và hơn 20 doanh nghiệp nuôi cá Mú trong lồng bè trên sông Chà Và thuộc xã
Long Sơn, Tp. Vũng Tàu.
Bảng 2.1 Hiện trạng và tiềm năng nghề nuôi cá Mú tại tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu
STT

Huyện



Diện tích có
thể nuôi

Long Sơn
Phường 11

Số hộ Diện
tích
nuôi
nuôi
hiện
nay
40
150.000 m2
0
0


01

TP. Vũng
Tàu

02

TX. Bà Ròa

Phước Trung

3

10.000

30.000

Long Hương
Hội Bài

0
7

0
50.000

50.000
150.000


04

Phước Hòa
H. Long Đất An Ngãi

3
1

20.000
10.000

100.000
100.000

05

Phước Tỉnh
Lộc An
Bình Châu

1
2
7

20.000
8.000
40.000

150.000
50.000

200.000

Phước Thuận

0
64

0
308.000 m2

100.000
1.280.000 m2

03

Tổng
cộng

H. Tân
Thành

H. Xuyên
Mộc

300.000 m2
50.000

(Nguồn: Trung tâm khuyến ngư tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu, 2002).
Các loài cá Mú chính được nuôi tại đây như: cá Mú đen chấm đỏ (E. coioides),
cá Mú mỡ (E. tauvina), cá Mú chấm đỏ (E. akaara), cá Mú da báo (Plectroponus

macatalus). Đa số người dân còn bắt cá giống ngoài tự nhiên. Nuôi cá Mú trong lồng
với nguồn giống nhập từ Đài Loan có tỷ lệ sống cao, lãi cao hơn tuy nhiên nuôi lồng
đòi hỏi phải có kỹ thuật và vốn đầu tư cao cho nên người dân trong tỉnh chưa đủ điều
kiện phát triển mô hình nuôi này.
2.1.5

Tiềm năng phát triển thủy sản của tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu.

Với tổng diện tích 1.975,15 km2 và chiều dài bờ biển hơn 110 km, vùng đặc
quyền kinh tế của biển Đông Nam Bộ khoảng 297.000 km2 là điều kiện đầy triển
vọng cho ngành thủy sản tỉnh.


-7-

Hiện nay, phát triển nghề nuôi cá biển (cá Mú, cá Măng, cá Hồng, cá Chẽm, …)
đã được Chính phủ phê duyệt trong chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ
2002 – 2010 và chỉ tiêu đến năm 2010: 40.000 ha và 40.000 lồng bè, sản lượng
200.000 tấn, là sự mở đầu đa dạng hóa làm động lực thúc đẩy cho ngành thủy sản tỉnh
phát triển hơn nữa.
2.3

Một Số Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Mú

2.2.1 Hệ thống phân loại
Theo Đào Mạnh Sơn và Đỗ Văn Nguyên, 1998: Cá Mú nằm trong bộ
Perciformes, họ Serranidae, họ phụ Epinephelinae, giống Epinephelus, loài
Epinephelus spp. Ởû khu vực n Độ – Thái Bình Dương đã phát hiện được 63 loài, ở
biển Việt Nam, họ cá Mú có 13 giống và trên 40 loài.
Cá Mú có thân thuôn dài, mình hơi dẹp. Miệng rộng, chếch, hàm dưới hơi nhô

dài ra phía trước, ở hàm cá nhiều răng sắc và nhọn. Màu sắc cá Mú thay đổi thường
xuyên tùy theo điều kiện môi trường và theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể. Ở cá
Mú, màu sắc, chấm, vạch là những điểm quan trọng dùng để phân loại chúng.
2.2.2 Môi trường sống
Trên thế giới, cá Mú phân bố ở vùng nước ôn đới, nhiệt đới và cận nhiệt đới từ
đông Châu Phi tới n Độ, Malaysia, Philippines, Nhật, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc
c. Chúng sống ở những đòa hình khác nhau, từ vùng nước nông có nhiều rạn đá san
hô, quanh các đảo tới vùng biển sâu xa bờ. Cá thường nằm sát đáy hoặc ẩn nấp trong
các hang, rạn đá và các rạn san hô để rình mồi, mùa hè sống ở ven bờ, mùa đông di cư
ra vùng xa bờ.
Việt Nam, chúng phân bố từ vònh Bắc Bộ đến vònh Thái Lan, tập trung nhiều
ở vùng ven biển miền Trung.
2.2.3 Tập tính dinh dưỡng
Cá Mú thuộc loại động vật ăn thòt, thức ăn chủ yếu của chúng là các loài giáp
xác, cá và một số loài động vật không xương sống. Trong tự nhiên, cá Mú thường sống
ẩn núp ở các rạn đá, hang hốc nằm chờ con mồi tới gần rồi đớp gọn.
Cá săn mồi suốt ngày, mạnh nhất vào lúc sáng sớm và chiều tối. Chúng thích
các loài giáp xác hơn cá và thích ăn mồi sống hơn mồi chết.
Hệ số thức ăn của cá nuôi dao động từ 4 – 17 tùy theo từng loài, cá Mú mỡ (E.
tauvina) có hệ số thức ăn 6 – 10, cá Mú chấm đỏ (E. akaara) từ 7 – 17 .


-8-

2.3.4

Sinh trưởng và phát triển

Giống cá Mú có nhiều loài và tốc độ sinh trưởng của mỗi loài cũng khác nhau.
Nhìn chung cá Mú có thể chia làm 2 nhóm: Nhóm có tốc độ tăng trưởng nhanh và

nhóm có tốc độ tăng trưởng chậm.
Nhóm tăng trưởng nhanh bao gồm: cá Mú mỡ (E. tauvina), cá Mú hoa nâu (E.
fuscoguttatus), cá Mú mè (E. malabaricus). Nhóm cá này tăng trưởng nhanh ở 3 năm
đầu, sau 3 – 4 năm chiều dài bình quân đạt từ 50 – 70 cm, khối lượng từ 4 – 7 kg. Từ
năm thứ 4 trở đi tốc độ tăng trưởng của chúng chậm dần lại.
Một số loài cá khác có tốc độ tăng trưởng chậm như: cá Mú dẹt, cá Mú sọc
ngang (E. fasciatus), cá Mú sao (E. fario), sau 2 – 3 năm chiều dài chỉ đạt từ 35 – 40
cm và khối lượng từ 0,8 – 1,5 kg.
2.3.5

Tập tính sinh sản

Hầu hết các loài cá Mú thuộc loại lưỡng tính cái trước, lúc nhỏ toàn bộ là cái,
cá đực xuất hiện ở những năm về sau khi một số cá cái biến tính thành cá đực, thời
điểm chuyển giới tính thay đổi từng loài, cá mú đỏ (E. akaara) chuyển giới tính lúc có
chiều dài 27 – 30 cm và trọng lượng 0,7 – 1 kg, loài mú ruồi (E. tauvina) chuyển đổi
giới tính lúc có chiều dài 65 – 75 cm và nặng trên 3 kg. Tuổi thành thục lần đầu của cá
Mú là 3 tuổi. Trọng lượng cá thành thục lần đầu thay đổi tùy theo loài, kích thước nhỏ
nhất là cá Mú chuột (1 kg), lớn nhất là cá Mú nghệ (50 – 60 kg). Mùa sinh sản thay đổi
tùy theo loài và theo vùng đòa lý, ở Đài Loan mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 10, ở
Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở Philippines và các tỉnh Nam Bộ Việt Nam cá
có thể đẻ quanh năm.
Mỗi năm cá Mú đẻ từ 100.000 đến 500.000 trứng, cá Mú mỡ (E. tauvina) với
chiều dài 56 cm và khối lượng 4,1 kg có sức sinh sản là 2,08 x 10 5 trứng. Ở cá Mú đỏ
(E. akaara) với chiều dài 72 cm và khối lượng 10,1 kg có sức sinh sản từ 0,75 – 5,3 x
10 5 trứng. Cá Mú có thể đẻ vào một đợt hoặc nhiều đợt, đại đa số cá đẻ ở vùng nước
sâu. Trứng và ấu trùng trôi nổi theo dòng nước và thủy triều vào vùng nước nông ven
bờ. Cá càng lớn càng có xu hướng di chuyển ra sống ở vùng nước ngoài khơi xa bờ.
(theo Đào Mạnh Sơn và Đỗ Văn Nguyên, 1998)



-9-

III.
3.1

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thời Gian Và Đòa Điểm Thực Hiện Đề Tài

Đề tài được thực hiện từ tháng 2/2006 đến tháng 5/2006 tại xã Long Sơn, Tp.
Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa - Vũng Tàu.
3.2

Bố Trí Điều Tra

Sau khi xác đònh đòa điểm khảo sát chúng tôi tiến hành điều tra ngẫu nhiên 30
hộ nuôi cá mú trong ao và 7 bè nuôi trên sông Chà Và thuộc xã Long Sơn, Tp. Vũng
Tàu.
3.3

Phương Pháp Điều Tra Thu Thập Số Liệu

Các số liệu sơ cấp được thu thập từ phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp có
sử dụng phiếu điều tra trên các hộ nuôi để biết tình hình về kỹ thuật nuôi, kinh tế xã
hội của các hộ nuôi cá.
Các số liệu thứ cấp được thu thập từ Sở thủy sản, Trung tâm khuyến ngư, Chi
cục quản lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu, y ban nhân dân xã
Long Sơn, Tp. Vũng Tàu.


3.4

Xử Lý Số Liệu
Các số điều tra về hộ nuôi được xử lý thống kê mô tả bằng phần mềm Excel


- 10 -

IV.
4.1

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Thông Tin Tổng Quát Về Hộ Nuôi

4.1.1 Phân bố độ tuổi
Độ tuổi của chủ hộ phần nào nói lên được kinh nghiệm thực tế trong sản xuất
cũng như mức độ tiếp nhận những cái mới trong quá trình nuôi. Kết quả điều tra được
trình bày qua bảng sau:
Bảng 4.1 Bảng phân bố độ tuổi
Độ tuổi
Từ 30 - 39
Từ 40 - 49
Từ 50 - 59
Trên 60
Tổng cộng

Số lượng hộ
9
9

11
1
30

Tỷ lệ (%)
30
30
37
3
100

3%
30%
Từ 30 - 39
Từ 40 - 49
Từ 50 - 59
Trên 60

37%

30%

Biểu đồ 4.1 Phân bố độ tuổi của các nông hộ
Qua bảng 4.1 cho thấy: độ tuổi trung bình 30 – 49 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất
60%. Độ tuổi thấp nhất là 30 tuổi, cao nhất là 62 tuổi chiếm tỷ lệ 3%. Nhìn chung các
hộ nuôi đều ở độ tuổi trung niên, do đó có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu
các kiến thức mới cũng như dễ dàng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào
nuôi thủy sản.



- 11 -

4.1.2. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn phản ánh khả năng tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
nuôi trồng thủy sản, để nâng cao năng suất nuôi thì đòi hỏi người dân phải có học thức
để nắm bắt kòp thời những thông tin khoa học kỹ thuật, tham dự các buổi hội thảo,
khuyến ngư, … Từ đó vận dụng vào thực tế sản xuất mới có thể đạt được hiệu quả cao.
Long Sơn là xã đảo nên điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn và trình độ học
vấn của người dân nơi đây còn nhiều hạn chế. Kết quả điều tra được trình bày qua
bảng sau:
Bảng 4.2 Trình độ học vấn của hộ nuôi
Trình độ học vấn
Mù chữ
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Tổng cộng

Số lượng hộ
3
15
12
0
30

0%

Tỷ lệ (%)
10
50

40
0
100

10%

Mù chữ

40%

Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
50%

Biểu đồ 4.2 Trình độ học vấn của hộ nuôi cá mú
Qua biểu đồ trên cho thấy hộ nuôi có trình độ học vấn cấp 1 chiếm tỷ lệ cao
nhất 50%, mù chữ là 10%, chính vì điều này đã làm hạn chế trong việc tiếp cận khoa
học kỹ thuật mới cũng như gặp nhiều khó khăn trong công tác khuyến ngư.
4.1.3 Kinh nghiệm nuôi
Kinh nghiệm nuôi của người dân phần nào phản ánh được sản lượng thu hoạch
của họ. Nó có tầm quan trọng hơn cả độ tuổi và trình độ học vấn. Nuôi trồng thủy sản


- 12 -

đòi hỏi có một sự chăm sóc thường xuyên trong suốt vụ nuôi, do đó phải nắm rõ các
đặc điểm sinh học của từng loài cũng như thời tiết, mùa vụ, thời điểm thả cá, cách
phòng trò bệnh, …
Bảng 4.3 Kinh nghiệm nuôi cá của nông hộ

Kinh nghiệm nuôi (năm)
Từ 0 - 3
Từ 3 - 5
Trên 5
Tổng cộng

Số lượng hộ
17
10
3
30

Tỷ lệ (%)
57
33
10
100

10%

Từ 0 - 3

33%

Từ 3 - 5

57%

Trên 5


Đồ thò 4.3 Kinh nghiệm nuôi của các nông hộ
Đa số hộ nuôi là trung niên trở lên nhưng kinh nghiệm nuôi chưa cao tập trung
chủ yếu từ 0 – 3 năm chiếm 57%. Điều này cũng dễ hiểu vì nghề nuôi cá Mú ở đây
cũng chỉ mới phát triển trong những năm gần đây.
4.1.4 Tình hình tham gia các lớp tập huấn khuyến ngư
Công tác khuyến ngư có vai trò rất quan trọng trong nghề nuôi thủy sản nói
chung và nuôi cá Mú nói riêng. Đây là việc làm rất có ý nghóa nhằm nâng cao kiến
thức của người dân và chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đến người
dân.
Qua quá trình điều tra tại Long Sơn cho thấy chỉ có 10 hộ được phỏng vấn là có
tham gia lớp tập huấn khuyến ngư chiếm tỉ lệ 33,33%. Còn lại là 20 hộ chưa từng tham
gia lớp tập huấn nông dân chiếm tỉ lệ 66,67%.


- 13 -

Tại đây các hộ nuôi cá mú dựa vào kinh nghiệm bản thân là chính, những thông
tin về khuyến ngư còn rất hạn chế. Từ kết quả trên chúng ta cần xem xét lại công tác
khuyến ngư và khả năng áp dụng của người dân vào thực tiễn sản xuất. Để làm tốt
công tác này thiết nghó các cán bộ khuyến ngư cần có những phương pháp thích hợp và
dễ áp dụng hơn từ đó để người dân dễ tiếp thu và áp dụng có hiệu quả tại chính ao
nuôi của mình.
4.1.5 Tình hình cung ứng con giống và thức ăn
Hiện nay nguồn giống cá Mú cung cấp cho các hộ nuôi còn rất khan hiếm vì
nguồn giống tự nhiên ngày càng ít dần mà việc sinh sản nhân tạo giống cá Mú còn
nhiều hạn chế. Nên nguồn cá giống hiện nay chủ yếu được nhập từ các nước trong khu
vực như: Đài Loan, Malaysia. Nhưng do giá thành cao nên chỉ có các bè nuôi liên
doanh với các công ty trách nhiệm hữu hạn là sử dụng nguồn giống này. Còn người dân
tại đây thì mua cá giống chủ yếu từ đánh bắt ngoài tự nhiên.
Nguồn thức ăn sử dụng trong nuôi cá mú chủ yếu là cá tạp mua từ chợ và các

thuyền đánh cá như: cá nục, cá trích, cá đối, …
4.2

Một Số Yếu Tố Về Kỹ Thuật Nuôi Cá Mú Trong Ao Đất

4.2.1 Kết cấu ao nuôi
Ao nuôi thường được xây dựng ở vùng trung triều và cao triều. Nguồn nước
trong sạch không có ảnh hưởng của các loại nước thải. Khu vực tương đối lớn, ít sóng
gió, chất đất tương đối vững chắc và có hệ số thấm bé, thuận tiện cho giao thông đi lại.
Hình dạng ao thường là hình vuông hay hình chữ nhật có độ sâu trung bình từ 1,5 – 2,5
m, có 2 cấp cống thoát nước, đáy ao tương đối bằng phẳng và hơi nghiêng về cống
thoát.
Bảng 4.4 Diện tích ao nuôi
Diện tích ao (ha)
Dưới 0,1
0,1 – 1
Trên 1
Tổng cộng

Số lượng hộ
2
16
12
30

Tỷ lệ (%)
7
53
40
100


Từ kết quả điều tra chúng tôi nhận thấy: đa số các ao nuôi tại đây có diện tích
dao động từ 0,1 – 1 ha chiếm 53%, ao có diện tích nhỏ nhất là 0,08 ha và ao có diện
tích lớn nhất là 4,5 ha, diện tích ao trung bình là 1,33 ha.


- 14 -

Hình 4.1 Ao nuoâi caù Muù

Hình 4.2 Ao nuoâi caù Muù


- 15 -

4.2.2 Chuẩn bò ao
Đây là công đoạn đầu tiên để tiến hành nuôi thủy sản, sau mỗi đợt thu hoạch thì
lượng bùn đáy, chất hữu cơ tích trữ dưới đáy ao rất nhiều, do đó nguồi nuôi thường dọn
tẩy và cải tạo ao để tiếp tục cho vụ nuôi tiếp theo nhằm diệt đòch hại và mầm mống
gây bệnh cho cá nuôi, ngoài ra còn tạo môi trường sống thích hợp với cá nuôi.
Qua điều tra 30 hộ nuôi tại đây, chúng tôi nhận thấy hầu như toàn bộ các hộ
đều thực hiện tốt công đoạn này. Sau thu hoạch thì các hộ nuôi tiến hành tháo cạn ao,
sau đó vét bùn đáy, bón vôi và phơi đáy ao cho đến khi đáy ao nứt chân chim, lúc đó
mới cấp nước vào ao, nước được lấy vào ao thông qua cống cấp nước có lưới lọc khi
thủy triều lên.
Công đoạn diệt tạp và bón vôi được các hộ chuẩn bò khá tốt nhưng do kỹ thuật
còn hạn chế nên các hộ nuôi chưa tiến hành kiểm tra chất lượng nước trước khi cấp vào
ao và bón phân gây màu nước tạo thức ăn tự nhiên trong ao trước khi thả giống.

Hình 4.3 Cải tạo ao nuôi



- 16 -

Bảng 4.5 Chuẩn bò ao nuôi
Chỉ tiêu

% số hộ thực hiện

100
100
100
6,7
0

Diệt tạp
Vét bùn đáy
Bón vôi
Bón phân
Kiểm tra chất lượng nước

Không
0
0
0
93,3
100

4.2.3 Thả giống
Mùa vụ thả kéo dài nhiều tháng, không đồng loạt một lần và không đồng bộ

giữa các hộ nuôi tại đây. Kích cỡ dao động từ 5 – 15 cm. Thời gian thả chủ yếu là 8 giờ
và 17 giờ. Giống mua về được thả trực tiếp không qua giai đoạn thuần dưỡng nên tỷ lệ
hao hụt tháng đầu là khá cao (30 - 50%)
Bảng 4.6 Nguồn gốc con giống
Nguồn giống
Tự nhiên
Nhập (Đài Loan)
Tổng cộng

Số lượng hộ
25
5
30

Tỷ lệ (%)
83,33
16,67
100

Trước khi thả xuống ao thì cho cá tắm với nước ngọt trong vòng 15 – 20 phút để
phòng bệnh cho cá. Qua điều tra 30 hộ nuôi tại đây thì chỉ có 5 hộ là mua giống nhập
từ Đài Loan từ các bè nuôi ngoài sông, đa số người dân nuôi nơi đây còn mua nguồn
giống đánh bắt ngoài tự nhiên, điều này đã làm hạn chế sự phát triển của nghề nuôi cá
Mú nơi đây.
Bảng 4.7 Xử lý cá trước khi thả
% số hộ
Xử lý cá mú giống

Không
16,67

83,33

Thời gian thả cá
7-9h
16 - 18 h
76,67
23,33


×