Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nghị viện trong thể chế nhà nước nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.42 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay mỗi
dân tộc, quốc gia đều không ngừng củng cố và hoàn thiện thể chế chính trị
của mình để khẳng định vị thế và vai trò của mình trên trường quốc tế.
Nhật Bản sớm nổi lên là một cường quốc ở khu vực Đông bắc Á, là một
nước có sự phát triển nhanh về nền kinh tế, từ cảnh bị tàn phá điêu tàn của
chiến tranh thế giới thứ hai Nhật Bản đã vươn lên trở thành trung tâm kinh tế
lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Vì sao Nhật Bản lại có bước tiến thần kỳ như
vậy? Đây là một câu hỏi khó có thể có được đáp án đầy đủ song suy cho cùng
sự phát triển của kinh tế Nhật do thể chế chính trị quyết định, đây là nguyên
nhân cơ bản khiến cho kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh tới mức thần kỳ.
Như thế có thể thấy thể chế chính trị nói chung và thể chế nhà nước Nhật nói
riêng đã và đang thể hiện được vai trò tích cực của nó trong sự phát triển của
quốc gia Đông bắc Á này.
Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của chúng ta là xây
dựng một thể chế nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu phát
triển của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội tất nhiên không thể đồng nhất với
nhau song việc nghiên cứu thể chế nhà nước các nước trên thế giới và đặc biệt là
thể chế nhà nước một cường quốc như Nhật Bản là rất cần thiết đối với vấn đề
hoàn thiện hơn nữa thể chế nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Quyền lực nhà nước tối cao tập trung vào tay nhân dân là xu thế tất yếu
của thời đại, mà quyền lực tối cao đó chỉ thực thi được nhờ vào các cơ quan
đại diện cho nhân dân đó là quốc hội (Nghị viện). Việc nghiên cứu và tìm hiểu
cơ quan lập pháp ở Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới hiện nay là
một vấn đề lớn đòi hỏi các nhà khoa học phải đi sâu vào nghiên cứu để làm
sao phát huy được nhiều nhất quyền lực của nhân dân. Vì vậy nghiên cứu mô
hình vận hành của thể chế nhà nước trong đó có cơ quan lập pháp của các
1



cường quốc trên thế giới, mà Nhật bản là một điển hình ở châu Á là một vấn
đề mang tính thời sự. Tham khảo cách thức tổ chức và vận hành của mô hình
hệ thống đó nhằm phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế
nhà nước Việt Nam nói chung và cơ quan lập pháp nói riêng là việc hết sức
cần thiết là một tất yếu trong sự phát triển. Song việc tham khảo đó không thể
là công việc tuỳ tiện, lấy nguyên mẫu mà là một sự tham khảo có chọn lọc và
sáng tạo. Việc tham khảo đó chỉ đạt kết quả khi chủ thể tìm ra được những giá
trị và những yếu tố hợp lý, phù hợp với những điều kiện và yêu cầu phát triển
của mỗi quốc gia. Xuất phát từ vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn đó tác
giả chọn đề tài “Nghị Viện trong thể chế nhà nước Nhật Bản” làm đề tài
nghiên cứu của tiểu luận môn “Thể chế chính trị thế giới đương đại”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước kia các học giả Liên Xô và Trung Quốc đã có một số công trình
nghiên cứu về chính trị Nhật Bản song do sự khác biệt về chế độ và cái nhìn
lúc bấy giờ nên các công trình này chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ phê phán
là chủ yếu.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về nền chính trị Nhật Bản hiện
nay rất ít, các công trình nghiên cứu chủ yếu vẫn chỉ tập trung trên lĩnh vực
kinh tế của Nhật Bản. Các công trình nghiên cứu về chính trị vẫn chủ yếu
nghiên cứu ở góc độ khái quát chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách sâu sắc
thể chế chính trị Nhật Bản. Chúng ta có thể điểm qua một số các công trình
nghiên cứu sau.
Công trình nghiên cứu của tác giả Hồ Việt Hạnh về "Cơ quan lập pháp
Nhật Bản", có thể nói từ trước tới nay đây là một công trình khoa học tiêu
biểu nghiên cứu một cách chi tiết và hệ thống về thể chế chính trị Nhật Bản
nói chung và cơ quan lập pháp nói riêng. Năm 2000, trung tâm nghiên cứu
Nhật Bản cho ấn hành.
Công trình nghiên cứu của PGS. TS. Tô Huy Rứa về "Mô hình tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị một số nước trên thế giới”. Công trình
2



này nghiên cứu sự vận hành của các thể chế chính trị trên thế giới theo các mô
hình thể chế khác nhau. Trong đó công trình cũng nghiên cứu khá rõ về sự
vận hành của thể chế chính trị của Nhật Bản trong đó nổi bật lên là cơ quan
lập pháp. Năm 2008, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia cho ấn hành.
Ngoài các công trình nghiên cứu kể trên còn rất nhiều các công trình
nghiên cứu khác và các bài viết của các tác giả trên các tạp chí, báo … Trong
thời đại toàn cầu hoá hiện nay việc nghiên cứu các mô hình thể chế chính trị
trên thế giới là rất cần thiết, nhằm tìm ra những nhân tố hợp lý góp phần vào
việc xây dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, đảm
bào quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu về phương thức hình thành, cơ cấu tổ chức và vai trò của
Nghị Viện trong thể chế nhà nước Nhật Bản, từ đó đề xuất một vài kinh
nghiệm tham khảo đối với việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động
của cơ quan lập pháp ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày và phân tích phương thức hình thành và cơ cấu tổ chức của
Nghị Viện Nhật Bản.
Phân tích, vai trò của Nghị Viện trong thể chế nhà nước Nhật Bản.
Đề xuất một số kinh nghiệm thực tiễn tham khảo đối với việc hoàn thiện
cơ quan lập pháp ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận.
Bên cạnh đó tiểu luận cũng kế thừa những thành tựu kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có liên quan tới nội dung đề tài nghiên cứu.


3


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được tổ chức xây dựng và nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử cùng với các phương pháp cụ thể như: logic-lịch sử, phân tíchtổng hợp, so sánh, hệ thống hoá,…
5. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về vấn đề phương thức hình thành, cơ cấu
tổ chức và vận hành của cơ quan lập pháp Nhật Bản từ hiến pháp 1946 quy
định đến nay. Và thể chế nhà nước Nhật Bản với các bộ phận trong mối quan
hệ với cơ quan lập pháp
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận gồm
có 2 chương, 6 tiết và 32 trang.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC
NGHỊ VIỆN NHẬT BẢN
1.1. Lịch sử hình thành Nghị Viện Nhật Bản.
Năm 1867 với sự sụp đổ của chế độ Mạc phủ đã kết thúc gần 7 thế kỷ
thống trị và mở ra một thời kỳ mới cho đất nước Nhật Bản, thời kỳ phát triển
tư bản chủ nghĩa. Cách mạng “Minh trị duy tân” mở đường cho sự phát triển
tư bản chủ nghĩa ở Nhật Bản. Trong thời kỳ này giai cấp tư sản Nhật đã đấu
tranh giành lại quyền lực từ tay giai cấp quý tộc, bãi bỏ các đặc quyền giai
cấp, thiết lập quyền bình đẳng cho công dân.

Năm 1868 cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân đầu tiên ở châu Á
được thành lập đó là quốc hội bao gồm hai viện. Thượng viện là cơ quan đại
diện cho các nhà quý tộc thượng hạng và Hạ viện là cơ quan đại diện cho
Samurai và tư sản. Tuy Quốc hội được thành lập phần nào đại diện cho quyền
lực của nhân dân nhưng nhìn chung giai đoạn này Quốc hội không có vai trò
quan trọng, quyền lực của đất nước vẫn nằm trong tay tầng lớp quý tộc và
giới thượng lưu tư sản.
Năm 1889 Nhật hoàng phê chuẩn hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản, hiến
pháp này về cơ bản được xây dựng giống mô hình hiến pháp nước Phổ, một
trong những hiến pháp phản động của châu Âu. Theo hiến pháp 1889 thì
quyền hạn của Nhật hoàng là vô hạn, quyền hạn này được che đạy bằng
những từ dân chủ giả hiệu. Theo hiến pháp 1889 Nghị viện Nhật Bản bao
gồm Thượng viện và Hạ viện. Thượng viện gồm các hoàng thân quốc thích
của Nhật hoàng, đại quý tộc do Nhật hoàng bổ nhiệm. Hạ viện do nhân dân
bầu ra (những người dân đi bầu phải là đàn ông từ 25 tuổi trở lên và phải là
người giàu có), tuy nhiên Hạ viện không có quyền đáng kể chỉ xem xét những
bổ sung do nhà vua đưa ra.
5


Theo hiến pháp 1889 thì cơ quan lập pháp của Nhật bản còn nhiều hạn
chế. Tuy nghị viện có quyền lập pháp thông qua các dự luật, nhưng nhà vua
có quyền bãi bỏ các dự luật mà nghị viện thông qua vô điều kiện. Nhà vua có
quyền đưa ra các sắc lệnh ngang với luật, mặc dù sau đó phải được nghị phê
chuẩn. Ngân sách không phụ thuộc vào nghị viện.
Trước sự lớn mạnh của Nhật Bản cả về kinh tế và sức mạnh quân sự giai
cấp tư sản Nhật Bản đã thúc đẩy các cuộc xâm chiếm thuộc địa như Trung
Quốc, Đài Loan, Triều Tiên… Sau chiến tranh thế giới thứ nhất giai cấp thống
trị thiết lập nền chuyên chính quân chủ – quân phiệt. Trong thời kỳ này quốc
hội có vai trò mờ nhạt, quyền lực của quốc hội không lớn, Chính phủ không

bị ràng buộc bởi Quốc hội và Chính phủ có thể giải tán Quốc hội bất cứ lúc
nào. Chính sự hạn chế quyền lực và vai trò mờ nhạt của Quốc hội Nhật Bản là
một trong những nguyên nhân dẫn nước này đến con đường Phát xít hoá sau
này gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Là nước tham gia chiến tranh thế giới thứ hai và bị thất bại nặng nề,
Nhật Bản bị quân đồng minh (Mỹ) chiếm giữ. Dưới sự bảo hộ của Mỹ các
đảng tư sản ở Nhật Bản lần lượt được phục hồi. Đảng tự do giành được thắng
lợi thành lập Chính phủ năm 1946, hiến pháp 1946 được thông qua xác lập
nền quân chủ lập hiến ở Nhật Bản. Hiến pháp 1946 của Nhật Bản thể hiện ba
nội dung cơ bản là: nguyên tắc chủ quyền nhân dân, bảo đảm các quyền cơ
bản và tinh thần hoà bình. Nhà nước Nhật Bản hiện nay được hình thành trên
cơ sở của hiến pháp đó.
Từ việc xác định chủ quyền thuộc về nhân dân, Hiến pháp 1946 của
Nhật Bản đã khẳng định quyền tham gia hoạt động chính trị của nhân dân và
hình thức dân chủ nhất để nhân dân tham gia hoạt động chính trị đó là trực
tiếp bầu ra cơ quan đại diện quyền lực chính trị cho mình, đó chính là quốc
hội. Hiến pháp quy định rõ quốc hội là cơ quan đại diện cao cao nhất cho
quyền lực nhân dân và vị trí tượng trưng của thiên hoàng.
Theo hiến pháp 1946 quy định việc thành lập các cơ quan nhà nước
như quốc hội, nội các, toà án theo nguyên tắc “chủ quyền do nhân dân quyết

6


định”. Mô hình thể chế nhà nước Nhật Bản được xây dựng theo thuyết “Tam
quyền phân lập” của J. Locke và Montesquieu. Trên cơ sở đó hiến pháp 1946
quy định “Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền lực nhân dân, gồm các
nghị sĩ được bầu cử công khai. Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ
quan lập pháp duy nhất của đất nước” (theo điều 41). Như vậy có thể nói thể
chế chính trị Nhật Bản hoạt động theo nguyên tắc “quốc hội là trung tâm” với

hình thức cộng hoà nghị viện.
Hiện nay quốc hội Nhật Bản gồm hai viện đó là Thượng viện và Hạ
viện và cơ cấu, quyền lực khác với trước kia theo hiến pháp Minh trị. Trước
kia Quốc hội chỉ là hình thức và không có thực quyền, còn Quốc hội hiện nay
thực quyền hơn và cơ cấu hai viện giám sát và hạn chế lẫn nhau, bảo đảm
không thái quá quyền lực của nhau. Các nghị sĩ hiện nay là do nhân dân trực
tiếp bầu ra, còn theo hiến pháp trước đây các nghị sĩ có thể do nhà vua bổ
nhiệm hoặc do các đại cử tri đoàn bầu, chính vì vậy mà các nghị sĩ hiện nay
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân nhiều hơn. Theo hiến pháp
quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, cơ quan lập pháp duy nhất,
có quyền giám sát tài chính quốc gia thông qua quyền bàn bạc ngân sách,
quyền điều tra chính trị…vv
1.2. Phương thức hình thành, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa hai
viện trong Nghị Viện Nhật.
1.2.1. Phương thức hình thành, cơ cấu tổ chức Nghị Viện Nhật Bản
Với sự ảnh hưởng và học hỏi mô hình thể chế nhà nước phương tây, mô
hình thể chế nhà nước Nhật Bản về cơ bản được xây dựng trên cơ sở nguyên
tắc tam quyền phân lập. Cũng giống như mô hình thể chế nhà nước các nước
phương tây như Anh, Pháp, Mỹ cơ quan lập pháp của Nhật Bản cũng được tổ
chức theo hai viện bao gồm Thượng viện và Hạ viện. Mô hình thể chế nhà
nước của Nhật Bản về cơ bản được thiết kế giống như mô hình thể chế nhà
nước của Vương Quốc Anh, theo mô hình thể chế quân chủ. Mô hình thể chế
quân chủ này đảm bảo quyền lực của nhà vua và giới quý tộc. Tuy nhiên trong
quá trình phát triển của Nhật Bản cũng như các nước khác theo mô hình thể
7


chế quân chủ, với sự phát triển của đất nước vai trò của người dân và cơ quan
đại diện cho người dân ngày càng được nâng cao và theo xu hướng phát triển
của lịch sử những giá trị dân chủ ngày càng được đề cao. Vì vậy trong cơ

quan lập pháp của Nhật Bản và các quốc gia theo mô hình thể chế quân chủ
trước kia quyền lực thượng viện đại diện cho giới quý tộc lớn nhưng hiện nay
vai trò của Hạ viện được nâng cao, Thượng viện chỉ còn có vai trò tượng
trưng. Cơ quan lập pháp của Nhật Bản được tổ chức theo hình thức hai viện,
Thượng viện và Hạ viện.
Phương thức hình thành và cơ cấu tổ chức của Hạ viện
Phương thức hình thành Hạ viện.
Theo hiến pháp Nhật Bản 1946 trao cho Hạ viện những quyền cao hơn
Thượng viện trên nhiều phương diện, khác với hiến pháp Minh trị năm 1889,
quyền lực của Hạ viện bị Thượng viện (viện quý tộc) kiểm soát.
Theo luật bầu cử của Nhật Bản Hạ viện bao gồm các nghị sĩ được nhân
dân trực tiếp bầu ra theo các khu vực bầu cử, nhiệm kỳ 4 năm. Số lượng các
nghị sĩ trong Hạ viện không cố định mà thay đổi theo diễn biễn của chính
trường. Năm 1993 số nghị sĩ trong Hạ viện là 511 nghị sĩ, được bầu từ 129
khu vực bầu cử, số nghị sĩ trong Hạ viện của từng tỉnh, từng vùng xê dịch từ 1
đến 6 (vùng Amami Islands chỉ có 1 trong khi đó vùng Hokkaido có 6 nghị sĩ
trong Hạ viện). Thường phần lớn các khu vực tỉnh, vùng có từ 3 đến 5 nghị sĩ
(đơn vị bầu cử trung bình).
Đến năm 1994 luật bầu cử của Nhật Bản được sửa đổi và được áp dụng
trong cuộc bầu cử ngày 20.10.1996 số Hạ nghị sĩ trong Hạ viện giảm xuống
còn 500. Theo luật sửa đổi này Nhật Bản lần đầu tiên áp dụng chế độ bầu cử
kết hợp giữa khu vực bầu cử nhỏ (300 ghế) với khu vực bầu cử theo tỷ lệ (200
ghế), theo luật mới này thì mỗi cử tri đI bầu cử sẽ đồng thời bỏ hai lá phiếu
một lá phiếu ghi tên ứng cử viên khu vực bầu cử nhỏ và một lá phiếu ghi tên
chính đảng theo khu vực tỷ lệ. Trong cả nước được chia làm 300 khu vực bầu

8


cử nhỏ mỗi khu vực chọn một nghị sĩ, ứng cử viên cao nhất sẽ trúng cử song

phải đạt ít nhất 1/6 phiếu bầu không phải bầu lại.
Theo luật bầu cử mới hiện nay được sửa đổi và ngày 27.1.2000, luật bầu
cử sửa đổi mới này được áp dụng lần đầu tiên vào ngày 25.6.2000 thì số nghị
sĩ đã giảm xuống còn 480 nghị sĩ trong Hạ viện, số nghị sĩ theo luật cũ khu
vực bầu cử nhỏ số nghị sĩ được bầu là 300 thì theo luật mới số nghị sĩ giảm
xuống còn 280. Tuy nghiên cách thức bầu cử vẫn như luật cũ không có gì thay
đổi. Đặc điểm của luật bầu cử của Nhật Bản từ năm 1994 đến nay là một ứng
cử viên có thể ứng cử ở cả hai khu vực, chính cái điều này đã tạo điều kiện
cho các đảng phái thất bại ở khu vực bầu cử nhỏ vẫn có khả năng trở thành
nghị sĩ ở khu vực bầu cử theo tỷ lệ.
So với Hiến pháp hiện nay thì Hiến pháp Minh trị có những thay đổi về
cơ bản trong việc hình thành Hạ viện trong cơ quan lập pháp. Hiến pháp Minh
trị và luật bầu cử năm 1889, thì quyền bầu cử chỉ giành cho những người nam
giới và có độ tuổi từ 25 tuổi trở lên và phải là người giàu có thu nhập cao. Lúc
này số người bầu cử không quá 1% dân số của Nhật Bản lúc bấy giờ. Năm
1925 quyền bầu cử được mở rộng cho các nam giới thì số cử tri đi bầu cử
cũng không vượt quá 5% dân số. Số lượng phiếu bầu và giá trị ở khu vực
thành thị và nông thôn luôn có sự chênh lệch nhau lớn. Chính sự chênh lệch
này cho nên đến tháng 7. 1985 toà án tối cao Nhật Bản tuyên bố rằng luật bầu
cử có nhiều điểm đã vi phạm Hiến pháp. Sự tham gia của các đảng phái vào
trong cuộc bầu cử vào Hạ viện theo tỷ lệ vùng khiến cho đảng Dân Chủ Tự
Do luôn chiếm đa số trong Hạ viện so với các đảng phái khác.
Hạ viện Nhật Bản có nhiệm kỳ là 4 năm, tuy nhiên Hạ viện có thể bị giải
tán sớm bởi sắc lệnh của Nhật hoàng trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng. Theo
Hiến pháp Nhật Bản thì Hạ viện có thể bị giải tán trong các trường hợp sau.
Theo đề nghị của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu.
Đảng cầm quyền mất uy tín và gây hậu quả lớn cho nền chính trị và
kinh tế đất nước.
9



Bất đồng lớn về chính trị giữa Nội các và Hạ viện và chính Thủ tướng
thấy cần thiết phải giải tán Hạ viện vì lợi ích quốc gia và các trường hợp khác
khi cần thiết.
Cơ cấu tổ chức của Hạ viện
Theo điều 58 của Hiến pháp Nhật Bản thì mỗi viện sẽ tự chọn chủ tịch và
các viên chức của mình. Hạ viện bầu chủ tịch và các phó chủ tịch trong số các
thành viên của mình, chức năng chủ yếu của chủ tịch và các phó chủ tịch là
điều hành các khoá họp và quyết định chương trình làm việc của mỗi viện.
Trong cơ cấu tổ chức của Hạ viện có ban thư ký, ban lập pháp và các phiên
họp toàn thể. Ngoài ra do số lượng các dự luật quá lớn khiến các thành viên của
quốc hội (hai viện) cũng như Hạ viện khó có thể tập trung để thảo luận về từng
dự luật. Do vậy Quốc hội cũng như Hạ viện được thành lập nhiều ủy ban
chuyên trách cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Hạ viện có 20 uỷ ban thường trực,
chuyên trách từng lĩnh vực, môic uỷ ban ngoài các thành viên của mình còn có
một chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm và các thành viên khác. Các uỷ ban này có
trách nhiệm chuẩn bị các dự luật và kiểm tra hoạt động của chính phủ và các
lĩnh vực mà nó đảm trách, ngoài ra Hạ viện còn thành lập các uỷ ban đặc biệt
khi cần thiết khi có vấn đề cần thiết thảo luận mà không thuộc phạm vi của các
uỷ ban thường trực. Hạ viện gồm có 20 uỷ ban gồm có các uỷ ban sau.
1. Uỷ ban nội các; uỷ ban này giám sát hoạt động của nội các (văn phòng thủ
tướng không thuộc phạm vi của văn phòng này cũng như các văn phòng khác).
2. Uỷ ban về các vấn đề pháp luật; phụ trách vấn đề về thuộc quyền hạn
của Bộ Tư Pháp như luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự…
3. Uỷ ban tài chính; uỷ ban này phụ trách các vấn đề thuộc quyền hạn của
Bộ Tài Chính như thu chi ngân sách…trừ dự thảo ngân sách và các dự luật.
4. Uỷ ban các vấn đề Lao Động và Xã Hội; uỷ ban này có nhiệm vụ giám
sát các vấn đề thuộc quyền hạn của các bộ Y tế, Phúc Lợi và Bộ Lao Động.

10



5. Uỷ ban thương mại và công nghiệp; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề
thuộc quyền hạn của Bộ Công Thương, Cục Kế Hoạch Kinh Tế và Uỷ ban
mậu dịch công bằng.
6. Uỷ ban thông tin; uỷ ban này có nhiệm vụ giám sát các thông tin thuộc
quyền hạn của Bộ Bưu chính viễn thông.
7. Uỷ ban kỷ luật; uỷ ban này có nhiệm vụ xem xét việc kỷ luật của các
thành viên của Hạ viện.
8. Uỷ ban khoa học và công nghệ; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề thuộc
quyền hạn của Cục Khoa Học Công Nghệ.
9. Uỷ ban môi trường; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề thuộc quyền hạn
của Cục Môi Trường.
10. Uỷ ban ngân sách; có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện Ngân sách và
các vấn đề quốc gia.
11. Uỷ ban chính quyền địa phương; có nhiệm vụ giám sát chính quyền
địa phương và tài chính thuộc quyền hạn của Bộ Tự Trị.
12. Uỷ ban giáo dục; có nhiệm vụ giám sát các các vấn đề thuộc quyền
hạn của Bộ Giáo Dục.
13. Uỷ ban giao thông vận tải; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề về
phương tiện giao thông.
14. Uỷ ban xây dựng; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề thuộc quyền hạn
của Bộ Xây Dựng.
15. Uỷ ban nông lâm ngư nghiệp; có nhiệm vụ giám sát các vần đề thuộc
quyền hạn của Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp.
16. Uỷ ban kiểm toán; có nhiệm vụ xem xét giảI quyết các vấn đề tài
chính.
17. Uỷ ban các luật lệ và hành chính; có nhiệm vụ điều hành Quốc Hội
và chuẩn bị các chương trình nghị sự cho các phiên họp đoàn thể.
18. Uỷ ban ngoại giao; có nhiệm vụ giám sát các vấn đề thuộc quyền hạn

của Bộ Ngoại Giao bao gồm cả các hiệp ước.
11


19. Uỷ ban an ninh; có nhiệm vụ xem xét về các vấn đề về An Ninh
quốc gia.
20. Uỷ ban Sức Khoẻ và Phúc Lợi Xã Hội.
Ngoài các uỷ ban như trên Hạ viện còn thành lập Hội đồng về đạo đức
chính trị và các uỷ ban nghiên cứu. Hội đồng và các uỷ ban nghiên cứu này
được bầu trong số các nghị sĩ và số thành viên được quyết định theo sức mạnh
của từng đảng. Hội đồng và các uỷ ban này hoạt động thường xuyên thông
qua cơ quan thường trực, thực hiện chức năng giám sát hoạt động của nội các
(ra nghị quyết không tín nhiệm Nội các và Thủ tướng), thẩm định các dự luật
trước khi trình để thông qua ở hai viện. Hạ viện có quyền thành lập và bãi
miễn chính phủ, Chính phủ hoạt động tập thể và chịu trách nhiệm trước Hạ
viện. Trong các kỳ họp của Hạ viện, Chính phủ phải báo cáo toàn bộ công
việc lãnh đạo hành chính của mình, đồng thời phải giải trình các vấn đề mà
các nghị sĩ chất vấn. Khi Hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm thì Chính phủ phải từ
chức, trừ khi Hạ viện bị giải tán trong vòng 10 ngày.
Phương thức hình thành và cơ cấu tổ chức của Thượng viện.
Phương thức hình thành Thượng viện.
Cũng như Hạ viện, Thượng viện cũng do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Thượng viện gồm 252 nghị sĩ, nhiệm kỳ 6 năm và cứ 3 năm bầu lại một nửa.
252 nghị sĩ của Thượng viện được bầu từ hai hình thức khác nhau; 152 nghị sĩ
được bầu từ 47 khu vực tương ứng với 47 tỉnh của Nhật Bản, mỗi tỉnh được
bầu từ 2 đến 8 nghị sĩ tuỳ thuộc vào tỷ lệ dân số của tỉnh đó, còn lại 100 nghị
sĩ được phân bố cho các đảng phái chính trị dựa trên kết quả của cuộc tổng
tuyển cử rộng rãi trong cả nước. Trong hệ thống bầu cử theo tỷ lệ phiếu, các
đảng phái phải thoả mãn một số điều kiện sau mới được tham gia tranh cử.
1. Đảng đó phải có ít nhất 5 thành viên là nghị sĩ của khoá trước.

2. Trong cuộc tổng tuyển cử của lần trước đó đảng phải đạt được tối thiểu
4% số phiếu bầu.

12


3. Số người tiến cử phải lớn hơn 10.
Tất cả mọi công dân Nhật Bản từ 30 tuổi trở lên đều có thể tham gia ứng
cử vào Thượng viện, tuy nhiên điều 48 Hiến pháp Nhật Bản quy định “không
cho phép ai được kiêm nghiệm chức vụ nghị sĩ ở cả hai viện”. Đối với cử tri
đi bầu cử, luật bầu cử của Nhật Bản quy định “tuổi tối thiểu cho phép được đi
bầu cử là 20 tuổi và phảI cư trú ở khu vực của mình từ 3 tháng trở lên”. Hiện
nay cách thức lựa chọn về cơ bản khác với Hiên pháp Minh trị, hiện nay cách
thức lựa chọn thượng nghị sĩ là do dân bầu, còn thời Minh trị các nghị sĩ của
Thượng viện chỉ bao gồm những người thuộc tầng lớp quý tộc do Thiên
Hoàng bổ nhiệm. Thời Minh trị Thượng viện có vai trò rất lớn quyền lực lấn
át so với Hạ viện và quyền lực của giới quý tộc và Thiên Hoàng được đảm
bảo bằng quyền lực lớn của Thượng viện.
Cúng giống như Hạ viện, cơ cấu tổ chức của Hạ viện bao gồm; chủ tịch,
các phó chủ tịch, ban thư ký, ban lập pháp, các phiên họp toàn thể. Trong
phiên họp đầu tiên của khoá mới Thượng viện sẽ bầu ra chủ tịch, các phó chủ
tịch và các uỷ ban giúp việc. Uỷ ban kiểm tra tư cách của các đại biểu mới
được bầu bổ sung. Các uỷ ban thường trực của Thượng viện tương tự như Hạ
viện nhưng trừ Uỷ Ban An Ninh, Uỷ Ban Môi Trường và Uỷ Ban Khoa Học
và Công Nghệ. Thượng viện bao gồm 17 uỷ ban, các thành viên được bầu từ
các nghị sĩ, trong đó có một số thành viên hoạt động thường xuyên (cơ quan
thường trực).
Tuỳ theo tình hình thực tế, Thượng viện có thể thành lập một số uỷ ban
đặc biệt, giúp Thượng viện giảI quyết các công việc quan trọng hoặc nảy sinh
trong điều kiện mới của đất nước như có nội chiến, khủng hoảng chính trị…

và các uỷ ban nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội nhằm giúp Thượng viện
có được những thông tin khoa học làm cơ sở cho những quyết sách đúng đắn.
Các uỷ ban này cũng có thể tồn tại hết nhiệm kỳ nhưng cũng có thể tồn tại
trong một thời gian ngắn, tuỳ theo tính chất của công việc.

13


1.2.2. Mối quan hệ giữa hai viện trong Nghị Viện Nhật Bản
Hiến pháp Minh trị 1889 quy định Quốc hội Nhật Bản được tổ chức
thành hai viện gồm Thượng viện và Hạ viện. Thượng viện đại diện cho tầng
lớp quý tộc, bao gồm những người thuộc dòng dõi hoàng tộc được Thiên
Hoàng bổ nhiệm. Hạ viện tuy được dân bầu nhưng có quyền lực hạn chế mờ
nhạt trong cơ quan lập pháp. Quyền lực tập trung trong tay Thiên Hoàng và
Thượng viện. Hiến pháp Minh trị cũng quy định hết sức khắt khe về tiêu
chuẩn đối với các ứng cử viên cũng như đối với các cử tri, điều này góp phần
nào vào việc hạn chế quyền lực cử Hạ viện. Ngoài ra Thiên Hoàng còn lập
Viện Cơ Mật giúp Thiên Hoàng giải quyết những vấn đề quan trọng của đất
nước, cơ quan này làm hạn chê quyền lực của Hạ viện. Vai trò của Hạ viện
được tăng cường và mạnh lên khi bước vào đầu thế kỷ XX, khi hoạt động của
các chính đảng ở Nhật Bản mạnh lên.
Sau khi Hiến pháp Nhật Bản được ban hành vào 3.11.1946 tương quan
quyền lực giữa Thượng viện và Hạ viện đã có sự thay đổi cơ bản. Hiến pháp
1946 đã trao cho Hạ viện những quyền cao hơn Thượng viện trên nhiều
phương diện. Theo luật định, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lực của
nhân dân, cơ quan làm luật duy nhất. Hiến pháp quy định Thiên Hoàng là biểu
tượng quốc gia, chủ quyền thuộc tối cao về nhân dân thông qua cơ quan do
nhân dân bầu lên là Quốc hội. Về nguyên tắc, quyết định của Quốc hội được
thông qua trên cơ sở nghị quyết của hai viện nhất trí với nhau. Trong trường
hợp dự án luật được thông qua tại Hạ viện mà bị phủ quyết bởi Thượng viện

thì Hạ viện phải thông qua lại và nếu đạt 2/3 số phiếu thuận trong số các nghị
sĩ có mặt thì dự luật vẫn có hiệu lực (Điều 59 Hiến pháp).
Về việc thông qua các hiệp ước, ngân sách khi hai viện không nhất trí
với nhau thì nghị quyết của Hạ viện được coi là nghị quyết của Quốc hội
(Điều 61 và 67 Hiến pháp), như vậy quyền lực của Hạ viện là lớn hơn Thượng
viện, đây là ưu thế của Hạ viện. Trong những phạm vi nhất định có nhiệm vụ
kiềm chế sự thái quá của Hạ viện. Thực tế cho thấy Thượng viện có vai trò
14


không nhỏ trong việc cản trở hay trì hoãn việc thông qua các đạo luật phản
động đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nhân loại.
Các vấn đề, dự luật có thể trình lên Thượng viện hay Hạ viện trước đều
được, nhưng riêng đối với vấn đề ngân sách thì Hạ viện có quyền thảo luận
trước (Điều 60 Hiến pháp).
Gần đây các đảng phái ở Nhật Bản hoạt động mạnh, đẩy mạnh tầm ảnh
hưởng của mình tại Thượng viện. Vì vậy vai trò tương quan giữa Thượng viện
và Hạ viện dần thu hẹp, hiện nay người dân Nhật Bản ít có sự phân biệt giữa
Thượng viên và Hạ viện. Tương quan số lượng các nghị sĩ của các đảng có
vai trò quan trọng trong việc thông qua các dự luật và mối quan hệ giữa cơ
quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Khi đa số các nghị sĩ trong Quốc hội
cùng đảng với chính phủ thì hoạt động của Quốc hội và Chính phủ rất ăn
khớp, lúc này Quốc hội có xu hướng trở thành “con dấu” cho các dự luật đã
được xem xét bởi nội các (chính phủ).
Hiến pháp Nhật Bản quy định, hàng năm Quốc hội phải tiến hành họp
ít nhất thường kỳ một lần. Kỳ họp này của Quốc hội được tiến hành bắt đầu
vào giữa tháng 12 và kéo dài khoảng 150 ngày. Quốc hội cũng có thể họp
bất thường khi có quyết định của Nội các hoặc do yêu cầu của trên 1/4 số
nghị sĩ của một trong hai viện trong những trường hợp sau; do yêu cầu cấp
bách về an ninh quốc phòng; thành lập Nội các mới do nội các cũ bị giải

tán; cần thiết phải thông qua một đạo luật khẩn cấp liên quan đến đời sống
chính trị, kinh tế, môi trường…; hoặc trong trường hợp mà Nội các và ẳ số
nghị sĩ xét thấy cần thiết.
Quốc hội hoạt động chủ yếu bằng hình thức các phiên họp tập thể, nơI
biểu hiện tập trung quyền lực của nhân dân, trí tuệ tập thể của Quốc hội và
quyền giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan giám sát nhà nước khác.
Phiên họp của Quốc hội có thể đượ tiến hành công khai hoặc họp kín nếu trên
2/3 số nghị sĩ có mặt thông qua, họp kín chỉ liên quan đến những vấn đề quan
trọng và bí mật quốc gia (Điều 57 Hiến pháp).
15


Các phiên họp toàn thể của Quốc hội với sự có mặt của tất cả các nghị sĩ
của cả hai viện. Quốc hội cũng có thể tổ chức hội nghị các uỷ ban chung để
tiến hành thảo luận tuỳ theo vấn đề được đặt ra. Trong phiên họp toàn thể nếu
mà 1/3 số nghị sĩ của mỗi viện vắng mặt thì phiên họp đó phải hoãn lại, phiên
họp của các uỷ ban phải có quá bán số uỷ viên tham dự. Đối với việc biểu
quyết các vấn đề của Quốc hội cũng như của các uỷ ban phải có quá bán số
nghị sĩ tham dự trừ đối với các trường hợp đặc biệt (Điều 57, 59 Hiến pháp).
Trường hợp bỏ phiếu trong quốc hội và các uỷ ban số phiếu tán thành và số
phiếu không tán thành ngang nhau thì phải tuân theo quyết định của chủ tịch
(Điều 56 Hiến pháp). Đối với các phiên họp của Quốc hội để đảm bảo chất
lượng và công việc chuẩn bị của các nghị sĩ, dự kiến chương trình làm việc
của kỳ họp thường được gửi trước một tháng cho các nghị sĩ để họ chuẩn bị
các nội dung phiên họp.

16


CHƯƠNG 2

VAI TRÒ CỦA NGHỊ VIỆN TRONG THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC NHẬT
VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.1. Vai trò lập pháp của Nghị Viện Nhật Bản
Hiến pháp 1946 quy định “Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền lực
nhân dân, gồm các nghị sĩ được bầu cử công khai. Quốc hội là cơ quan quyền
lực tối cao, là cơ quan lập pháp duy nhất của đất nước”
Tại các kỳ họp của Quốc hội các dự án (như dự án luật, ngân sách, phát
triển kinh tế, y tế, giáo dục…) sẽ được trình lên Quốc hội để thông qua. Các
dự án này sẽ do Nội các, các thành viên của Nội các, các nghị sĩ, các nhóm
nghị sĩ thuộc các đảng phái trong Quốc hội đưa ra. Về nguyên tắc các dự thảo
nghị quyết trước hết phải giao cho các uỷ ban thường trực, hoặc uỷ ban đặc
biệt của hai viện để thẩm tra xem xét trước. Tại các uỷ ban này có thể tổ chức
các cuộc họp để nghe ý kiến, thảo luận về tính thực tiễn của các dự luật này
và nghe ý kiến của các chuyên gia về vấn đề này. Sau đó các dự án đó sẽ được
chuyển sang để thảo luận trong các kỳ họp toàn thể của Quốc hội. Quy trình
lập pháp của Quốc hội được bắt đầu từ quyền sáng kiến luật, người có quyền
sáng kiến luật là người có quyền trình bày trước Quốc hội các dự án luật.
Quyền sáng kiến luật thuộc về Chính phủ và các nghị sĩ của Nghị viện. Bất cứ
một dự án luật nào muốn được đệ trình lên Quốc hội phải được sự ủng hộ của
tối thiểu 20 Hạ nghị sĩ và 10 Thượng nghị sĩ, nếu dự án luật liên quan đến
ngân sách thì phải được ít nhất là 50 Hạ nghị sĩ và 20 Thượng nghị sĩ. Quy
trình lập pháp phải bao gồm các bước sau (xem sơ đồ 1).
Tại các uỷ ban dự luật được tiến hành thẩm tra và uỷ ban sẽ chuẩn bị báo
cáo thảm tra thông qua báo cáo tại phiên họp chung của của uỷ ban. Các dự
luật về nguyên tắc đều phải thông qua quá trình thẩm tra của các uỷ ban. Tuy
nhiên trong trường hợp khẩn cấp thì dự luật có thể không cần phải thông qua
quá trình thẩm tra tại các uỷ ban.

17



Sơ đồ 1: Quá trình lập pháp ở nhật bản
(Nguồn: Khoa Chính Trị Học - Giáo trình thể chế chính trị
thế giới đương đại)

Hạ nghị sĩ

Thượng nghị sĩ

Chủ tịch Hạ nghị
viện

Nội các

Chủ tịch Thượng
nghị viện

Uỷ ban thường vụ
hoặc uỷ ban đặc biệt

Uỷ ban thường vụ
hoặc uỷ ban đặc biệt

Uỷ ban
điều trần

Uỷ ban
điều trần

Hội nghị toàn thể

Hạ nghị viện

Hội nghị toàn thể
Thượng nghị viện

Hạ nghị viện

Thượng nghị viện

Hội nghị hiệp thương hai viện

Thông qua
dự án

Ký tên liên danh của
Nội các

18

Công bố của
Thiên Hoàng


Chủ tịch các uỷ ban sẽ trình bày báo cáo thẩm tra tại phiên họp đoàn thể.
Tại đây dự luật sẽ được thảo luận và thông qua hoặc là loại bỏ (nếu dự luật bị
loại bỏ tại Hạ viện thì dự luật coi như không được thông qua và không cần
thiết phải chuyển cho Thượng viện). Nếu dự luật bị sửa đổi thì phảI được đính
kèm theo dự luật banđầu. Các báo cáo của thiểu số và các báo cáo không tán
thành chỉ được trình bày nếu được sự ủng hộ của 1/10 thành viên của uỷ ban.
Dự luật khi được thông qua tại viện này rồi thì bước tiếp theo sẽ được

chuyển cho viện kia. Và tại viện này quá trình xem xét các dự án luật cũng
theo đúng quy trình như ở viện trước, nếu dự án luật bị loại bỏ tại Thượng
viện thì dự luật vẫn phải chuyển sang cho Hạ viện xem xét lại. Trong trường
hợp hai viện không nhất trí với nhau thì một uỷ ban hiệp thương giữa hai viện
có thể được thành lập khi đó, nhưng quyền quyết định nghiêng về Hạ viện
nhiều hơn, đây là ưu thế của Hạ viện so với Thượng viện.
Trong các buổi thảo luận của Quốc hội tại hai viện, việc thông qua các
dự luật tiến hành theo nguyên tắc đó là biểu quyết. Việc biểu quyết các dự án
có thể tiến hành biểu quyết từng vấn đề, từng phần và cuối cùng sẽ biểu quyết
thông qu toàn bộ, việc biểu quyết có thể thông qua hai hình thức, hoặc là biểu
quyết theo hình thức giơ tay hoặc là bỏ phiếu kín, các dự án luật chỉ trơt thành
chính thức khi Quốc hội thông qua.
Khi dự luật được thông qua tại hai viện, Nhật hoàng sẽ công bố trong
vòng 30 ngày kể từ ngày văn bản đó được trình lên Thiên Hoàngvà được xuất
bản ở công báo. Văn bản đó sẽ có hiệu lực sau 20 ngày công bố, trừ trường
hợp có các quy định khác.
2.2. Vai trò của Nghị Viện đối với Chính Phủ
Mỗi quốc gia nhà nước được tổ chức theo mô hình chính thể khác nhau
và có những đặc trưng riêng của mình. Vì vậy mà mối quan hệ giữa các cơ
quan trong bộ máy nhà nước cũng có sự khác biệt. Hiện nay mối quan hệ giữa
cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp về cơ bản đều dựa trên sự thành lập
19


Chính phủ (nội các). Theo một số học giả thì hiện nay có hai phương pháp
thành lập Chính phủ, đó là phương pháp thành lập Chính phủ dựa trên cơ sở
Nghị viện và phương pháp không dựa trên cơ sở Nghị viện.
Thứ nhất, đó là phương pháp thành lập chính phủ dựa trên cơ sở Nghị
viện tức là việc thành lập Chính phủ dựa trên cơ sở đảng nào chiếm đa số ghế
trong Nghị viện thì đảng đó sẽ có quyền thành lập Chính phủ, phương pháp

này được coi là một nguyên tắc trong chính thể đại nghị.
Thứ hai, là phương pháp của các nước theo chính thể cộng hoà tổng
thống, tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu nên và tổng thống có quyền thành
lập chính phủ (nội các). Như vậy ta thấy Nhật Bản dựa trên phương pháp thứ
nhất đó là việc thành lập Chính phủ được thành lập trên cơ sở đảng chiếm đa
số trong Nghị viện (Hạ viện).
Hiến pháp Minh trị trước đây quy định Thiên Hoàng có quyền bổ nhiệm
và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự. Trước Hiến pháp 1946
thì Thủ tướng do Thiên Hoàng lựa chọn có sự cố vấn của Viện Nguyên Lão.
Đến năm 1918 Viện Nguyên Lão mới lựa chọn Thủ tướng trong số các phe
cánh có ảnh hưởng chính trị lớn, và từ 1918 đến 1923 Thủ tướng thường được
lựa chọn từ những nhà lãnh đạo Đảng trong quốc hội, nhưng từ đó đến 1945
hầu hết các Thủ tướng đều là những người đứng đầu giới quân sự (đứng đầu
lục quân hoặc hải quân).
Hiến pháp mới 1946 không chỉ quy định Thủ tướng và các bộ trưởng
phải là dân sự, mà còn quy định quyền bổ nhiệm Thủ tướng chính phủ thuộc
về Quốc hội, trong đó Hạ viện có quyền lớn hơn.
Trong mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp không
chỉ biểu hiện ở khía cạnh là cơ quan lập pháp thành lập cơ quan hành pháp,
mà còn ở khía cạnh đó là cơ quan lập pháp cũng có thể giải tán cơ quan hành
pháp (nội các). Chính phủ được thành lập trên cơ sở Nghị viện, vì vậy nó chỉ
tiếp tục hoạt động khi còn sự tín nhiệm của Quốc hội. Mặt khác khi mất sự tín
nhiệm, không còn được đa số ủng hộ nữa thì Chính phủ phải từ chức để thay
20


thế bằng một Chính phủ mới. Theo Hiến pháp hiện nay thì Chính phủ phải
chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội (Điều 66). Trong các kỳ họp của
Quốc hội, nội các phải báo cáo toàn bộ công việc lãnh đạo hành chính của
mình đồng thời phải có nghĩa vụ giải trình các vấn đề mà các nghị sĩ của

Quốc hội chất vấn. Theo Hiến pháp điều 69 quy định rõ “Thông qua một
quyết định bất tín nhiệm Nội các hoặc bác bỏ mọi quyết định tín nhiện thì
toàn thể Nội các phải từ chức, trừ khi Hạ viện bị giải tán trong vòng 10 ngày”.
Trong trường hợp Hạ viện bị giải tán thì khi có Hạ viện mới Nội các cụng
phải tự giải tán để Quốc hội bầu ra một Nội các mới. Việc bỏ phiếu tín nhiệm
Nội các được tiến hành thường xuyên trong các khoá họp của Hạ viện nhằm
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ. Có hai hình thức
lật đổ Chính phủ đó là; thứ nhất Chính phủ bị Quốc hội bỏ phiếu bất tín
nhiệm do Quốc hội không chấp thuận hiệu quả hoạt động của Chính phủ hoặc
các dự án do Chính phủ đệ trình không được Quốc hội thông qua, đặc biệt là
dự án ngân sách; thứ hai, Quốc hội ra quyết định khiển trách chính phủ, lúc
này Chính phủ không tự biết mình và Quốc hội phải nêu vấn đề bất tín nhiệm
bằng một nghị quyết, nếu nghị quyết đó được đa số nghị sĩ thông qua thì
Chính phủ sẽ phải từ chức. Hai hình thức lật đổ Chính phủ trên thì Hiến pháp
Nhật Bản hiện nay chỉ mới đề cập đến hình thức thứ hai.
Chính phủ bị lật đổ là biểu hiện của mối quan hệ không tốt, mâu thuẫn
giữa Chính phủ và Quốc hội (cơ quan Lập pháp và cơ quan Hành pháp). Đây
là một trong những nguyên nhân gây nên những cuộc khủng hoảng chính trị
của Nhật Bản, vì vậy để hạn chế nguy cơ này Nhật Bản định sáng kiến đặt
vấn đề bất tín nhiệm Chính phủ phải được sự ủng hộ của tối thiểu là 50 Hạ
nghị sĩ. Ngoài ra việc Chính phủ bị giải tán cũng do các nguyên nhân khác
như khi khuyết ghế Thủ tướng hoặc do nhân tố bên ngoài như các cuộc đình
công và biểu tình chống lại Chính phủ một cách mạnh mẽ.
Trong mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp ngoài
việc Quốc hội mà cụ thể là Hạ viện có quyền giải tán Nội các thì ngược trở lại
21


Nội các cũng có quyền giải tán Quốc hội, trong trường hợp quy định này của
Hiến pháp Nhật Bản nhằm tránh sự độc tài của cơ quan lập pháp. Hiến pháp

Nhật Bản quy định “Cho phép Thủ tướng có quyền đề nghị Thiên Hoàng giải
tán Hạ viện trong trường hợp đó Thiên Hoàng không được từ chối. Bằng cách
này Hạ viện có thể bị giải tán trong các trường hợp sau:
Có 2/3 số đại biểu đề nghị vì xét thấy tình hình chính trị cần phải thay
thế bằng một Hạ nghị viện khác.
Đảng cầm quyền mất uy tín và gây ra những hậu quả lớn cho nền kinh
tế đất nước.
Giữa Nội các và Hạ viện có những bất đồng lớn về chính trị và Thủ
tướng thấy cần thiết phải giải tán Hạ viện vì lợi ích quốc gia.
Ngoài ra mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp còn thể hiện ở trong quá trình lập pháp. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập pháp. Tuy nhiên khác với thể chế cộng hoà tổng thống
của Mỹ là Quốc hội được trao cho toàn quyền lập pháp, chính thể cộng hoà
đại nghị như Nhật Bản nếu cơ quan lập pháp bác bỏ một dự luật quan trọng
do cơ quan hành pháp đệ trình thì nguy cơ một cuộc khủng hoảng chính trị có
thể sảy ra và dẫn đến một trong hai kết quả hoặc là sự từ chức của Nội các
hoặc là sự giải tán của Nghị viện cùng với cuộc bầu cử mới một hoặc cả hai
cơ quan. Quá trình lập pháp ở thể chế cộng hoà đại nghị như ở Nhật Bản còn
thể hiện mối quan hệ chủ yếu về mặt chính trị giữa lập pháp và hành pháp.
2.3. Vai trò của Nghị Viện đối với cơ quan Tư Pháp
Như trong Hiến pháp đã quy định rõ quyền lập pháp là thuộc về Quốc
hội (Nghị viện). Quốc hội là cơ quan duy nhất duy nhất có quyền lập pháp,
trong khi đó cơ quan tư pháp là cơ quan thi hành các văn bản luật do Quốc hội
ban hành và thực hiện chức năng xét xử của mình, khi xét xử các toà án dù là
cao hay thấp đều phải tuân thủ tuyệt đối các quy định trong Hiến pháp cũng
như là luật do Quốc hội ban hành, tất cả các quyết định của Toà án đều phảI
22


dựa trên cơ sở pháp luật. Chính vì tính chất này do vậy mối quan hệ giữa cơ

quan lập pháp và cơ quan tư pháp thể hiện rất rõ chức năng, nhiệm vụ của
Nghị Viện Nhật.
Thể chế nhà nướcNhật Bản theo tư tưởng thuyết tam quyền phân lập,
toà án giữ quyền tư pháp, có tính độc lập của nó song điều đó không có nghĩa
là toà án tuỳ tiện quyết định đi ngược lại mong muốn của nhân dân. Hiến
pháp Nhật Bản còn quy định cụ thể nguyên tắc hoạt động của toà án là công
khai, ngay cả trường hợp ngoại lệ, không công khai cũng phải tuân theo quy
định của Hiến pháp (Điều 82 Hiến pháp).
Hiến pháp là cơ sở giúp cho cơ quan tư pháp giữ tính độc lập đối với hai
nhánh còn lại của bộ máy nhà nước, tuy nhiên đây chỉ là sự độc lập tương đối.
Quốc hội là cơ quan ban hành ra các luật, cac đạo luật vì vậy nó có vai trò chi
phối quyết định. Trong các đạo luật, các luật do Quốc hội ban hành bao gồm
cả quy định về tổ chức của toà án. Ngoài ra bên cạnh đó các vụ xét xử tranh
chấp của toà án cũng phải căn cứ vào chính các bộ luật của Quốc hội đã thông
qua. Ngoài ra để có thể hoạt động một cách có hiệu quả thì hệ thống toà án tất
yếu phải đề ra các quy định về tổ chức bên trong của mình cũng như các quy
định về thủ tục tố tụng... Hay nói cách khác là những quy định này của toà án
cũng không thể trái với các bộ luật do Quốc hội ban hành (Điều 77 Hiến
pháp). Có thể nói mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp (Quốc hội) với cơ quan
tư pháp ở đây thể hiện trước hết ở các bộ luật, các luật do Quốc hội ban hành
và chính các bộ luật, các luật này lại chính là cơ sở để cho cơ quan lập pháp
căn cứ vào đó để tiến hành làm việc, xét xử.
Một mối quan hệ, chi phối của cơ quan lập pháp (Quốc hội) đối với cơ
quan tư pháp đó là khi các thẩm phán của cơ quan tư pháp (Toà án) vi phạm
pháp luật thì Quốc hội có quyền lập ra toà án để xét xử các thẩm phán, ở đây
ta thấy Quốc hội đảm nhận một phần chức năng tư pháp. Tuy nhiên chúng ta
thấy việc xét xử các thẩm phán còn phụ thuộc vào một chủ thể nữa đó là nhân
dân. Điều 79 Hiến pháp Nhật Bản quy định rõ ràng rằng “Việc bổ nhiệm thẩm
23



phán Toà án tối cao do toàn dân chuẩn y sau cuộc tổng tuyển cử, và cứ 10
năm, trong cuộc tổng tuyển cử, nhân dân lại chuẩn y việc bổ nhiệm đó một
lần. Trong trường hợp đa số nhân dân biểu tình đề nghị chấm dứt nhiệm vụ
của một thẩm phán nào đó thì vị thẩm phán đó phải từ chức”.
Ngoài ra Điều 78 Hiến pháp cũng nói rằng “các thẩm phán chỉ bị cách
chức theo thủ tục đặc biệt, trừ trường hợp toà án tuyên bố các vị đó thiếu sức
khoẻ để đảm đương nhiệm vụ, không một cơ quan nào trong ngành hành pháp
được áp dụng biện pháp kỷ luật đối với các thẩm phán”. Như vậy chúng ta có
thể thấy rõ rằng không ai có thể cách chức hay kỷ luật các thẩm phán ngoài cơ
quan lập pháp là Quốc hội. Điều 64 Hiến pháp cũng quy định rõ về vấn đề
này “Quốc hội có thể lựa chọn nghị sĩ hai viện để thiết lập một toà án xét xử
việc cách chức các vị thẩm phán”. Trong trường hợp đưa việc xét xử một vị
thẩm phán nào đó ra công khai thì phải có một uỷ ban cáo trạng của nghị viện
bao gồm 29 thành viên với mỗi viện với mỗi viện 10 thành viên, và một toà
án của Nghị viện với 14 thành viên trong đó mỗi viện có 7 thành viên tham
gia việc thực hiện. Những lý do để miễn nhiệm một thẩm phán là việc sao
nhãng nhiệm vụ hoặc không đủ uy tín. Khi có một cáo giác buộc tội rằng một
thẩm phán có lỗi thì một uỷ ban cáo trạng của Quốc hội sẽ mở một cuộc điều
tra, khi có đủ chứng cớ buộc tội thì toà án nghị viện sẽ mở phiên xét xử công
khai. Khi toà có đầy đủ bằng chứng để đi đến phán quyết rằng viên thẩm phán
đó có tội thì thẩm phán đó sẽ bị cách chức và không có đủ tư cách của một vị
thẩm phán nữa. Việc mở toà án do Nghị viện tiến hành ở Nhật Bản cũng có
tính hợp lý khách quan, song mặt khác nó cũng chịu ảnh hưởng của thuyết
tam quyền phân lập. Thuyết tam quyền phân lập cho rằng “việc xét xử các
ông lớn..các nhà quý tộckhông nên bị đưa ra xét xử ở một toà án thường, mà
chỉ nên đưa ra trước một bộ phận của cơ quan lập pháp gồm chỉ các nhà quý
tộc mà thôi”. Điều này cũng giống như ở Anh, các quan chức cao cấp ở nước
Anh chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện chứ không chịu xét xử ở bất cứ một
toà án nào khác. Ở Tây Ban Nha cũng vậy các quan chức cao cấp phạm tội

24


hình sự thì không bị xét xử ở các toà án bình thường mà chỉ bị xét xử ở một
toà án dành riêng cho họ gọi là toà án đặc biệt. Nhìn chung ở các nước tư bản
Hiến pháp đều quy định các quyền luận tội các quan chức cao cấp từ hàm bộ
trưởng trở lên đến các nguyên thủ quốc gia được trao cho Nghị viện, và thủ
tục xét xử cũng riêng va đặc biệt.
Như vậy chúng ta có thể thấy rõ rằng mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp
đối với cơ quan tư pháp ở Nhật Bản là rất rõ qua nhiệm vụ và chức năng của
từng cơ quan. Hiệu quả làm việc của cơ quan tư pháp phụ thuộc vào số lượng
và chất lượng Hiến pháp và các bộ luật, luật do cơ quan lập pháp tạo nên. Và
việc các thẩm phán của cơ quan tư pháp phạm tội thì chỉ cơ quan lập pháp
(Nghị viện) mới có quyền phán xét. Qua đó chúng ta có thể thấy rõ quyền
lực và sự tác động của cơ quan lập pháp lên hai nhánh trong bộ máy nhà
nước là rất lớn.
2.4. Kinh nghiệm thực tiễn đối với Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu cơ quan lập pháp Nhật Bản giai đoạn từ 1946 đến
nay, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm thực tiễn. Đây là
những kinh nghiệm bổ ích mang tính chất tham khảo và học tập đối với Việt
Nam, mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân vì vậy Quốc hội là cơ quan tối cao đại diện cho quyền lực
của nhân dân, cho nên việc tham khảo các kinh nghiệm của nước ngoài vào
việc xây dựng và hoàn thiện cơ quan lập pháp của chúng ta là rất cần thiết.
Qua việc xem xét và nghiên cứu cơ quan lập pháp chúng ta một số kinh
nghiệm như sau.
Vấn đề nhân sự ( Đại biểu) và hoat động của Quốc hội
Thứ nhất. Các đại biểu phải có đủ đức và tài để thực hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Đại diện trong Quốc hội bao gồm các nghị sĩ (các
đại biểu Quốc hội), các nghị sĩ được nhân dân tín nhiệm và bầu họ vào cơ

25


×