Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận đặc trưng cơ bản của tư tưởng nông dân và giải pháp khắc phục những biểu hiện không tích cực của tư tưởng nông dân ở tỉnh yên bái trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.42 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Tiểu luận
Nước ta có nền nông nghiệp lâu đời, hơn 70% dân số làm nông nghiệp.
Ở thời kỳ nào, người nông dân và kinh tế nông nghiệp cũng có một vai trò vô
cùng quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước như đời sống vật chất,
đời sống tinh thần… Nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng này, trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu là đến năm 2020 đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Điều này được thể hiện rất rõ trong một số chỉ thị, nghị quyết
của các đại hội VI, VII, VIII. Đặc biệt trong đại hội IX, nghị quyết TW 5 về
“Đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 – 2010” đã nhấn mạnh “…Ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn và
phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự
chỉ đạo và tạo các nguồn lực cần thiết cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, phát triển nông thông toàn diện, tiêu thụ nông sản háng hóa, bảo
hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội, phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng
khó khăn, phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết
công ăn, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí,
xây dựng nông thông mới”…Vậy có thể khẳng định: Thiếu sự tham gia của
nông dân thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đạt hóa đất nước không thành
công.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông
thôn ở nước ta cho tới nay đã đạt được rất nhiều các thành tựu, tuy nhiên cũng
này sinh rất nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như vấn đề đất đai cho sản xuất
nông nghiệp, vấn đề ứng dụng các kỹ thuật hiện đại cho sản xuất, vấn đề về
bao tiêu sản phẩm…Và minh chứng rõ rệt nhất là mức sống và thu nhập. Thu
nhập bình quân của những người thuần túy sản xuất nông nghiệp rất thấp (tỷ lệ
hộ nghèo theo số liệu năm 2005 là 3,9 triệu hộ chiếm 22% số hộ cả nước). Kéo
theo đó là sự chênh lệch vô cùng rõ rệt mức sống giữa thành thị và nông thôn,
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng cao (mức chênh lệch giữa nhóm hộ giàu


nhất và nhóm hộ nghèo nhất năm 2006 là 8.5 lần trong khi năm 2004 chi ở
mức 7.1 lần)...
Để thực hiện tốt được tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và phát triển nông thôn, nhất thiết phải tìm nguyên nhân cùng các biện
pháp phát huy những ưu điểm và khắc phục cho những hạn chế và bất cập trên.

1


Ngoài những nguyên nhân khách quan, một trong những nguyên nhân chủ quan
mà theo em là hết sức quan trọng xuất phát từ bản thân người nông dân Việt
Nam nói chung, nông dân tỉnh Yên Bái nói riêng. Đó chính là vấn đề về tư
tưởng.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại nông nghiệp và phát triển
nông thôn của đất nước nói chung, Yên Bái nói riêng, vai trò của người nông
dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì đây chính là lực lượng lao động
cơ bản – một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của
tiến trình. Mặt khác, do truyền thống lâu đời, tư tưởng người nông dân với
những biểu hiện của thế giới tinh thần bên trong như phẩm chất, thái độ, lý
tưởng, động cơ, mục đích, giá trị, năng lực, nhu cầu và những phong tục tập
quán, lối sống, nếp nghĩ đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì vậy
việc hiểu, nắm bắt được tư tưởng người nông dân chính là cách thức quan trọng
để tìm ra được những giải pháp phù hợp, sáng tạo, năng động cho việc phát huy
vai trò của người nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong vấn đề chăm lo phát triển
nguồn lực con người phục vụ cho sự phát triển toàn diện của đất nước.
Nhận thức được tính cấp thiết của những vấn đề trên, nên em lựa chọn
đề tài: “Đặc trưng cơ bản của tư tưởng nông dân và giải pháp khắc phục
những biểu hiện không tích cực của tư tưởng nông dân ở tỉnh Yên Bái trong

sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn”. Với đề tài này, em
mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn về vai trò của người nông dân, về sự
kế thừa, phát triển và biến đổi của tư tưởng người nông dân trong từng thời kỳ.
Từ việc ý thức được biểu hiện cũng như ảnh hưởng về tư tưởng của người nông
dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn hiện nay để tìm ra các biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược
điểm, nâng cao hơn nữa vai trò của người nông dân trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu rõ và phân tích vai trò của giai cấp nông dân trong lịch sử.
- Phân tích tư tưởng nông dân Việt Nam: Quá trình hình thành, phát triển và
sự tồn tại.
- Lý giải tại sao cần phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn.

2


- Đề xuất các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, phát huy mặt tích
cực của nông dân trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, em sử dụng những phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp lôgíc.
- Phương pháp lịch sử
Khi nghiên cứu vấn đề này, em cần phải kết hợp giữa phân tích và tổng
hợp, đánh giá tình hình cụ thể. Đánh giá khái quát chung vấn đề, kết hợp lý

luận và thực tiễn.
Căn cứ vào những kết qủa nghiên cứu, sưu tầm từ thực tiễn để chứng
minh làm sáng tỏ lý luận con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và
Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, phải biết kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử, coi trọng những vấn đề lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó luận giải vấn
đề một cách khoa học, lôgic, chính xác.
4. Yêu cầu
Nắm vững các vấn đề lý thuyết, lý luận về tư tưởng, về giai cấp nông
dân, về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó tư duy một cách
linh hoạt, sáng tạo để liên hệ thực tế ở Yên Bái.
Nắm vững lý thuyết, lý luận. Cần tư duy, sáng tạo.

5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề nông dân,
nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặt lên hàng
đầu. Đã có rất nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được khẳng định trong các nghị quyết của
một số đại hội:
- Đại hội VI, bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .
- Đại hội VII và đại hội VIII tiếp tục và khẳng định và làm rõ quan điểm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã được đề ra từ đại hội
VI.

3


- Đại hội IX , đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 về “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010” đã làm

rõ hơn quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.
Một số phương tiện thông tin đại chúng, một số báo, tạp chí cũng đề cập
đến vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn như: Tạp chí Cộng sản, Công tác
thông tin - Lý luận…Trong các sách: Con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn…; Một số vấn đề về công tác vận động nông dân,
Dân vận…
Trên cơ sở đó, bản thân em thấy cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề
nông dân và tư tưởng nông dân, góp phần tổng kết, rút kinh nghiệm, đề ra các
giải pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm
2020.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai chương chính:
Chương 1: Giai cấp nông dân Việt Nam, sự hình thành tư tưởng nông
dân và ảnh hưởng của tư tưởng nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Chương 2: Một số giải pháp khắc phục những biểu hiện không tich cực
của tư tưởng nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Yên Bái.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM, SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
NÔNG DÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NÔNG DÂN TRONG
TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN

1.1 Khái niệm giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông dân
Việt Nam trong lịch sử
1.1.1 Khái niệm giai cấp nông dân
Khái niệm về nông dân: Nông dân là người lao động cư trú ở nông
thôn sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các ngành, nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai tùy theo từng thời kỳ lịch sử ở từng nước, có
quyền sở hữu khác nhau vè ruộng đất. Những người này hình thành nên giai
cấp nông dân.
Khái niệm giai cấp nông dân:
Theo Bách khoa toàn thư: Giai cấp nông dân là bao gồm những tập
đoàn người sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ và cho phú nông trong
nông nghiệp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất.
Vậy giai cấp nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn (làng,
bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn sống chính dưới hình thức tư hữu
nhỏ. Nông dân là lực lượng cách mạng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan trọng, là lực
lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
1.1.2 Vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng
nông dân lao động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra lịch sử
xã hội. Ở nước ta, nông dân chiếm hơn 70% số dân cả nước – họ là một bộ
phận của dân cư, là lực lượng đông đảo trong quần chúng nhân dân lao động, là
động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính họ là một trong những lực lượng
trực tiếp sản xuất ra của cải nuôi sống xã hội.

5



Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, song trước sau họ vẫn không
thay đổi được phương thức sản xuất để hình thành một mô hình xã hội tiến bộ
hơn. Vì vậy, họ không trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng mà chỉ có thể liên
minh với giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức và các giai tầng xã hội khác cùng
giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng giải phóng mình, giải phóng dân
dộc do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: “Giai cấp nông dân muốn giành thắng
lợi trong cách mạng thì phải tập hợp được giai cấp nông dân, tranh thủ họ,
đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế lực áp bức,
bóc lột khác.”
Vận dụng quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-LêNin vào hoàn cảnh cụ
thể nước ta, Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng cách
mạng to lớn, một người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung thành của giai
cấp công nhân. Nông dân và công nhân là đội quân chủ lực của cách mạng “là
gốc cách mệnh”. Sau này, Bác tiếp tục khẳng định: “Nông dân là một lực
lượng to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công
nhân.”
Trong quá trình tổng kết lãnh đạo cách mạng, Bác lại một lần nữa khẳng
định: “Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và quyết định đúng đắn vấn
đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống xu
hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá vai trò của nông dân là quân
chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy của giai cấp công
nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng xã hội chủ
nghĩa.”
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của giai cấp nông dân, Đảng và Bác Hồ
luôn coi trọng công tác vận động nông dân đã sớm xây dựng được khối liên
minh công nông vững chắc và có những chủ trương chính sách thích hợp để tạo
nên những thành quả to lớn trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ xây

dựng đất nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung; công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng, giai cấp nông dân ngày
càng có vai trò quan trọng hơn để góp phần vào việc thực hiện công cuộc đổi
mới, xây dựng một nước Việt Nam ngày một phát triển và giàu mạnh hơn.
1.2 Lịch sử hình thành tư tưởng nông dân Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tư tưởng
Trước khi đi sâu tìm hiểu lịch sử hình thành tư tưởng nông dân Việt
Nam chúng ta cần thống nhất khái niệm tư tưởng.

6


Khái niệm tư tưởng: Tư tưởng với tư cách là sản phẩm tinh thần của
con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức
của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói tư tưởng là một trong
những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người hoàn toàn có
quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi thứ sản phẩm
công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.”
1.2.2 Tư tưởng nông dân Việt Nam, sự hình thành, phát triển và tồn
tại
Một trong những điều kiện chi phối lớn nhất sự hình thành tư tưởng
nông dân Việt Nam là điều kiện kinh tế, xã hội.
Từ bao đời nay với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc đã tạo lập cho người
nông dân Việt Nam tư tưởng làm ăn nhỏ lẻ manh múm, trì trệ. Nền kinh tế tiểu
nông, độc canh nghèo nàn, lạc hậu lại không ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào tự
nhiên đã tạo cho người nông dân tư tưởng “khép mình” trong một khuôn khổ
có sẵn.
Mặt khác, nước ta lại bị đô hộ thống trị trong một thời gian rất dài nên
cuộc đời của người nông dân từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn bị các thế lực

thống trị đè nén, bóc lột. Cuộc sống của họ vô cùng cực khổ, cơm không đủ ăn,
áo không đủ mặc, thiếu thốn đủ thứ và nạn đói thường xuyên xảy ra, đe dọa họ.
Đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ phong kiến và thực dân
nhưng tất cả đều thất bại. Vì vậy tâm lý bất lực, cam chịu, nhẫn nhục càng ăn
sâu vào suy nghĩ của người nông dân.
Bên cạnh đó, cần phải kể đến những tư tưởng cổ hủ phong kiến, ảnh
hưởng của tôn giáo nhằm duy trì ý thức hệ phong kiến đã thâm nhập vào nông
dân, kết hợp với tư tưởng hẹp hòi, bè phái cục bộ, chủ nghĩa bình quân, chủ
nghĩa kinh nghiệm, tự do, tùy tiện, chủ nghĩa cá nhân... đã làm cho nhận thức của
nông dân có sự phân hóa.
Do quan hệ làng xóm có tính chất khép kín đã ảnh hưởng tới việc hình
thành và phát triển ý thức tâm lý của người nông dân Việt Nam. Họ quen tự
lực, tự cung, tự cấp, làm được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu với một tâm lý tự ty,
tư duy lạc hậu, không có thói quen chấp hành pháp luật, có xu hướng chống lại
những tổ chức, thể chế, những quy phạm được thiết lập qua nhiều thế hệ... Bên
cạnh đó, tư tưởng “bám đất, bám làng” càng tạo cho họ nếp sống bảo thủ, chật
hẹp, không muốn đi xa, ngại tiếp xúc với cái mới... Chính những đặc tính này
đã tác động không nhỏ tới tư tưởng và hành động của người nông dân.
Vào thời kỳ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước đã duy trì quá lâu cơ chế tập trung

7


quan liêu, bao cấp làm cho một bộ phận nông dân có tư tưởng trông chờ, ỷ lại,
hạn chế sự sáng tạo, năng động của nông dân, kìm hãm sự phát triển của đất
nước.
Trên đây là một số những đặc điểm nhưng nó đã chi phối không nhỏ đến
tư tưởng của người nông dân nước ta. Hiện nay, cơ chế thị trường đã tác động
đến mọi mặt đời sống của người nông dân. Bên cạnh những mặt tích cực, ta

không thể không nhắc đến mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, chính cơ chế thị
trường đã làm nảy sinh, tạo môi trường phát triển cho những thói quen, tật xấu
trong đời sống người nông dân. Điều này cho thấy, lịch sử phát triển của giai
cấp nông dân từ chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho đến nay chưa bao giờ
trở thành một hệ tư tưởng và chưa bao giờ có tư tưởng riêng.
Trong các thời kỳ khác nhau hoặc họ đi theo hệ tư tưởng giai cấp này,
hoặc đi theo tư tưởng giai cấp khác. Chính những hạn chế này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
1.2.3. Những phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào của con người nông dân
Việt Nam
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, hình ảnh người nông dân nước ta
luôn hiện lên với đầy đủ nững phẩm chất truyền thống tốt đẹp của của con
người Việt Nam. Hiện nay, với đặc điểm nước ta có hơn 70% dân số là nông
dân cho thấy rằng: Nông dân luôn là một bộ phận quan trọng của dân cư, lịch
sử hình thành và phát triển của giai cấp nông dân luôn gắn liền với lịch sử dân
tộc Việt Nam. Vì vậy trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cụ thể người nông dân
luôn thể hiện được truyền thống cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến
đấu, tình làng nghĩa xóm sâu nặng và lòng nhân nghĩa thủy chung...
Ngay từ xưa, người nông dân Việt Nam đã có bản chất cần cù trong lao
động, chăm chỉ hăng hái tham gia sản xuất. Đức tính này một phần do con
người và do hoàn cảnh địa lý, thiên nhiên tạo nên. Vì vậy, để kiếm miếng cơm,
manh áo, để duy trì sự sống của mình, những người nông dân không còn con
đường nào khác là phải chống chọi với thiên nhiên. Thiên nhiên càng khắc
nghiệt càng hình thành nên đức tính cần cù, dũng cảm, hăng say lao động, dẻo
dai chịu thương chịu khó của họ.
Ngày nay, người nông dân Việt Nam đã có sự chuyển biến trên nhiều
phương diện do quá trình tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, lấy giá trị sản xuất
làm thước đo hiệu quả lao động, những thói quen, nếp nghĩ cũ dần dần đã được
thay đổi, thay vào đó là những tư tưởng đạo đức mới. Dưới sự lãnh đạo của

Đảng, chính sách của nông nghiệp nông dân Việt Nam ngày càng có những

8


thay đổi tích cực trong suy nghĩ, đáp ứng nhịp độ phát triển chung của đất
nước. Có thể nói người nông dân ngày nay rất tiến bộ, họ coi lao động cho
mình và cho xã hội vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mình.
Trong tác phẩm “Giai cấp công nhân và vấn đề nông dân”, Nguyên
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết “Nông dân Việt Nam đã có một truyền thống anh
hùng, chiến thắng ngoại xâm để xây dựng nhà nước, nông dân Việt Nam cũng
đã ghi lại những trang sử oai hùng chống phong kiến, địa chủ…”
Nông dân việt nam đã hàng ngàn năm sống dưới chế độ phong kiến và
hơn một trăm năm bị thực dân, đế quốc đô hộ, đời sống của họ vô cùng cực
khổ, họ chỉ biết trông vào đồng ruộng, tư tưởng “con trâu đi trước, cái cày
theo sau’’ luôn bám rễ trong tư duy lao động. Mặt khác do đặc điểm của làng
xã Việt Nam đã tạo cho người nông dân một tình yêu quê hương, làng xóm, yêu
đất nước nồng nàn và sâu sắc. Lối sống giản dị, chất phác, chân thực, trong
sáng đã củng cố, bồi đắp thêm tinh thần dân tộc, tinh thần yêu thương đùm bọc
lẫn nhau trong mỗi người dân, sống tình cảm yêu thương đùm bọc những người
cùng cảnh ngộ với tinh thần “tương thân tương ái”, chính những tình cảm đó
đã hình thành nên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái tạo nên sức mạnh lớn
cùng cả dân tộc ta vượt qua bao thử thách, khó khăn. Những giá trị đạo đức ấy
là truyền thống tốt đẹp của người nông dân Việt Nam được kết tinh và truyền
dạy từ bao đời nay, nó đã trở thành các chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn
hoá của dân tộc.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta trong thời gian qua đã làm thay đổi
một phần không nhỏ đời sống nông dân Việt Nam. Hy vọng, với một hoàn cảnh
sống mới, một nền nông nghiệp mới, một diện mạo nông thôn mới đang từng
ngày khởi sắc, giai cấp nông dân trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn sẽ hình thành những chuẩn mực về hệ tư tưởng dựa
trên những giá trị kế thừa và phát huy từ bản sắc dân tộc Việt Nam.
1.2.4. Một số biểu hiện của tư tưởng nông dân trong giai đoạn hiện
nay
Giai cấp nông dân được hình thành và phát triển gắn liền với từng giai
đoạn lịch sử cụ thể của nước ta. Một đất nước có nền kinh tế thuần nông với
hơn 70% dân số làm nông nghiệp, nên trong tư tưởng của đại bộ phận của giai
cấp nông dân nếp sống, nếp nghĩ còn còn một số biểu hiện không tích cực như:
trì trệ, phụ thuộc, làm ăn nhỏ lẻ… Ngày nay trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, bên cạnh những biểu hiện đã có, tư tưởng nông dân
còn có những diễn biến theo theo chiều hướng tích cực hơn.

9


Tư tưởng nông dân Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ một nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ manh mún. Vì thế trong một thời gian khá
dài đã tạo nên tâm lí “an phận thủ thường”, tự bằng lòng với những thứ đã có,
họ không còn ý chí phấn đấu, luôn sống trong sự sắp đặt sẵn phụ thuộc nhiều
vào tự nhiên, chấp nhận những điều kiện tổ chức, những thể chế quy phạm
được thiết lập qua nhiều thế hệ. Cuộc sống của họ chỉ biết quanh quẩn bên
ruộng, vườn, con trâu cái cày ít được tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài. Tâm lí
“khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, “năng nhặt, chặt bị”, tạo nên thói quen làm
ra của cải dư thừa để tích trữ, việc mua sắm những tiện nghi sinh hoạt trong
nhà, cao hơn nữa là làm nhà cao cửa rộng họ vẫn chưa dám nghĩ tới. Chính
những điều này đã tạo nên những suy nghĩ mang tính cục bộ, bảo thủ, hẹp
hòi… Ngày nay trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tư tưởng cục bộ,
đố kỵ, hẹp hòi, tự ti, tuỳ tiện ngày càng được hiện rõ hơn:
Ở nhiều vùng nông thôn nước ta, hiện tượng nông dân sống thờ ơ, vô
trách nhiệm trước khó khăn, hoạn nạn của người khác vẫn còn tồn tại họ chỉ

biết “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, “mạnh ai người ấy thắng” hay thái độ nể nang,
né tránh thấy sai hay đúng đều không dám đưa ra chính kiến của mình.
Bản thân những người nông dân mang tư tưởng tư hữu, sản xuất nhỏ, lạc
hậu, manh mún. Mác viết: “Tiểu nông là một khối quần chúng rộng lớn mà tất
cả các thành viên đều sống trong những điều kiện như nhau, nhưng không có
được mối quan hệ về nhiều mặt ràng buộc với nhau, phương thức sản xuất của
họ không làm cho họ liên kết với nhau mà làm cho họ tách rời nhau…” (MácĂng ghen tuyển tập).
Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của giai cấp nông dân bởi chính
sự tham gia của nông dân mới làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc
nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại những tính toán, sự ích kỷ, những tính toán hẹp hòi
đố kị. Vì thế giai cấp nông dân không thể có một vị trí riêng, vị trí độc lập cho
riêng mình vì họ không đại diện cho một phương thức nào.
Như vậy, những biểu hiện không tích cực trong tư tưởng của người nông
dân hiện nay đang là vấn đề bức xúc, một bài toán khó giải đặt ra cho nhà nước
ta.
Những tư tưởng không tích cực này đang cản trở thậm chí đưa đến
những hậu quả không tốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nói
riêng. Vì vậy để giải quyết tốt những vấn đề nêu trên cần phải có các giải pháp
phù hợp, kiên trì, với các bước đi cụ thể để nông dân thực sự trở thành lực
lượng chủ chốt với những người lao động mới, có ý chí, kiến thức khoa học kĩ

10


thuật, có văn hoá kỷ cương để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước mà trước hết là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn.

CHƯƠNG 2

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BIỂU HIỆN KHÔNG
TÍCH CỰC CỦA TƯ TƯỞNG NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở TỈNH YÊN BÁI
2. 1 Một số giải pháp khắc phục
Hiện nay, tư tưởng của người nông dân còn một số biểu hiện không tích
cực nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò và những đóng góp to lớn
của nông dân vào sự ổn định và phát triển đất nước. Nền nông nghiệp nước ta
từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, lạc hậu, thiếu lương thực triền miên
đến nay cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn
diện và liên tục với tốc độ cao, nhiều mô hình, tấm gươnǵ lao động, sản xuất
giỏi đã xuất hiện. Đặc biệt trong tâm lí của người nông dân Việt Nam đã có sự
biến đổi từ “ tư duy làm cò con, manh múm chuyển sang tư duy kinh tế, mạnh
dạn sáng tạo và hiệu quả”. Từ quan niệm coi buôn bán là xấu, chuyển sang
nhu cầu giao lưu với tất cả các vùng trong và ngoài nước, buôn bán ngày càng
được mở rộng. Nhu cầu “ăn no mặc ấm” ở một số nơi đang chuyển thành “ăn
ngon, mặc đẹp”. Tâm lý “an phận thủ thường” được chuyển hoá thành tâm lý
không bằng lòng, không thoả mãn, không chấp nhận đói nghèo mà muốn vươn
lên làm giàu chính đáng. Giờ họ đã mạnh dạn tiếp thu kỹ thuật mới, làm ăn có
tính toán hiệu quả.
Tuy nhiên, vấn đề đang cần phải bàn và đáng bàn ở đây là thực trạng
nông nghiệp, nông thôn nước ta cần giải quyết như: Sự đầu tư cho nông
nghiệp, vấn đề ruộng đất cho bà con nông dân, việc làm, chế biến, tiêu thụ
nông sản, bảo hiểm xã hội… Thêm vào đó, trong tư tưởng người nông dân hiện
nay còn xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như: Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
bình quân, cục bộ, ích kỉ, hẹp hòi, thực dụng chạy theo đồng tiền…, quan hệ
giữa hàng xóm, láng giềng với nhau thì có nguy cơ bị mai một …
Để khắc phục những nhược điểm trên đồng thời phát huy mặt tích cực
em xin trình bày một số giải pháp để góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình công


11


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
2.1.1 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn.
Theo văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, thì công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ. Đảng ta
đã xác định thực chất của công nghiệp xã hội chủ nghĩa là “tái sản xuất mở
rộng quá trình thực tiễn cách mạng khoa học kỹ thuật, thực sự phân công mới
về lao động xã hội và quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng
hoàn thiện”.
Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 khoá VI và đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt Nam một lần nữa xác định: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quản lý kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên nền văn minh xã hội. Cải biến kỹ thuật, tạo dựng nền
công nghiệp theo hướng hiện đại (khía cạnh vật chất – kỹ thuật) và phát triển
kinh tế thị trường (khía cạnh cơ chế, thể chế) là hai mặt của quá trình công
nghiệp hóa duy nhất”.
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn,
hiệu quả và bền vững, xây dựng một nền nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân
chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số, 72% nguồn lao động xã
hội, nhưng mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc dân (1996). Do vậy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không những là quan trọng,

mà còn có ý nghĩa quyết định đối với quy mô và tốc độ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Cho nên, Đảng và nhà nước ta rất coi trọng vấn đề của nông thôn, nông
nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết Đại hội lần
thứ VIII của Đảng chỉ rõ : « Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn. Phát triển toàn diện nông lâm, ngư nghiệp gắn liền
với công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản ; phát triển công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu ». Nhờ quán triệt những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của công nghiệp nông thôn
thời gian qua được đánh giá tổng quát như sau :

12


Về cơ bản, công nghiệp kể cả dịch vụ nông thôn, chỉ được xem như
những ngành phụ để giải quyết thời gian nông nhàn và lao động dư thừa ở nông
thôn. Tuy vậy, trong mấy năm gần đây, công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã bắt
đầu phát triển.
Cơ cấu nông nghiệp, nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ
chế kinh tế mới trong điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất trong cơ cấu thành
phần kinh tế là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm
hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng, trong khi các hợp tác xã và kinh tế
nhà nước giảm đi rõ rệt.
Nhiều ngành kinh tế, sản phẩm truyền thống bị mai một đã dần dần
được khôi phục do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị trường trong
nước và quốc tế. Sự khôi phục này thường gắn liền với sự đổi mới, hiện đại hóa
các sản phẩm và công nghệ truyền thống. Mặt khác, nhiều làng truyền thống
được khôi phục lại có sức lan tỏa khá mạnh sang các khu vực lân cận.
Tuy nhiên đến nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn còn gặp
nhiều khó khăn. Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa chiếm tỷ lệ

cao, sức mua còn rất nhỏ, trình độ kỹ thuật của công nghiệp nông thôn còn thấp
cả về sản phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ,
sản phẩm công nghiệp nông thôn có chất lượng thấp, mẫu mã kiểu dáng chậm
thay đổi, tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lượng, phần lớn thiết bị và công nghệ
sản xuất của công nghiệp nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị
thải, loại của các cơ sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta
phát triển không đồng đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành
nghề truyền thống ở ven đô thị, đầu mối giao thông quan trọng.
Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa IX đã xác định nội dung tổng quát
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như sau:
«Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường, hoàn thiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạch tranh của nông sản
hàng hóa trên thị trường ».
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm và lao động
nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển
nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan

13


hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn.
Vì thế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn cần tăng cường vai trò của nhà nước và của nông dân.
* Đối với nhà nước :
Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nhà nước ta cần phải đổi mới nội dung và phương pháp. Cần điều chỉnh cơ cấu
đầu tư của toàn bộ nền kinh tế theo hướng ưu tiên tập trung vốn đầu tư cho
nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông – lâm - thuỷ sản.
Tăng tỉ lệ vốn đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đầu tư cho hạ
tầng. Cần quan tâm đến các nghành công nghiệp mới ở nông thôn, những
nghành vùng, vùng công nghiệp hiện có ở thành phố; đầu tư ứng dụng và
chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan
trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông thôn và kinh tế nông thôn. Trước hết cần
tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi công
nghệ bảo quản và chế biến nông – lâm - thuỷ sản.
Phát triển mạnh các nghành nghề, làng nghề thủ công truyền thống ở
nông thôn, bao gồm các nghành nghề mới được hình thành, chuyển sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ hoặc chế biến nông – lâm - thuỷ sản sang phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Cần khuyến khích các làng nghề ở nông thôn
phát triển theo hướng sử dụng công nghệ hiện đại kết hợp với phát huy kinh
nghiệm truyền thống. Nhà nước hỗ trợ vốn, cán bộ, kĩ thuật, công nghệ, tạo thị
trường, có chính sách miễn giảm thuế, đào tạo tay nghề và cho vay vốn với lãi
xuất ưu đãi nhất.
Bên cạnh nhà nước hỗ trợ vốn. Nhà nước ta cần thu hút mạnh mẽ mọi
nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp và nông
thôn. Đây là giải pháp rất có ý nghĩa đối với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Đối với nông dân
Tuyên truyền, giáo dục làm cho nông dân nhận thức đúng về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc của chính mình, cần thực hiện công việc này
với ý nghĩa là người chủ; nhận thức được mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền
lợi, lợi ích của mình gắn với lợi ích của giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức
và lợi ích chung của dân tộc .
Vận động nông dân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ theo từng

vùng, chú ý vận động nông dân thành thị tiết kiệm trong tiêu dùng để hoàn

14


thiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngay tại bản làng, thôn, xã. Với phương
châm ‘‘nhà nước và nông dân cùng làm’’ được phát huy một cách đúng đắn,
phối hợp với từng vùng. Kết quả thực hiện phương châm này được thực hiện
trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đưa tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào
nông nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, mở rộng nghành nghề trong nông
nghiệp và nông thôn.
2.1.2 Nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nông dân và phát huy quyền làm chủ của nông dân – phát huy
quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với xuất
phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu phần đông dân trí của nông dân còn
thấp, chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn nghề nghiệp.
Đảng ta xác định cùng với việc phát triển nhiều nghành khoa học, thì
phát triển giáo dục - đào tạo là công việc được đưa lên hàng đầu. Phát triển
giáo dục phải bằng nhiều hình thức đa dạng, bảo đảm công bằng xã hội, mọi
người nông dân, con em nông dân đều được đi học, góp phần nâng cao dân trí
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhà nước, nông
thôn nói riêng.
Đẩy mạnh phong trào ‘‘Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá’’,
xây dựng làng, xã văn hoá, gia đình văn hoá, phát huy những truyền thống tốt
đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục ‘‘mê tín dị đoan’’, các tệ nạn xã hội
như: Cờ bạc, rượu chè, ma tuý, mại dâm... Phát huy tình làng nghĩa xóm, tinh
thần đoàn kết, xây dựng các quy ước về nếp sống văn minh ở các thôn, làng...
trên cơ sở pháp luật của nhà nước; xây dựng nhiều điển hình về kinh tế, văn

hoá trong mỗi gia đình con người nông dân.
Bên cạnh đó ta không thể không nói tới văn hoá. Văn hoá có vị trí rất
quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần
của con người . Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì thế cần phát triển và
tăng cường mạng lưới thiết chế văn hoá, thông tin, tuyên truyền ở cơ sở để
nâng cao dân trí, tạo cho người dân tham gia sáng tạo văn hoá. Cần phải đảm
bảo cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể chất phát
động các phong trào thể thao như:
Tổ chức mở rộng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, truyền thanh, vệ sinh
môi trường, y tế... nhằm đáp ứng từng bước những nhu cầu về văn hoá, sức
khoẻ cho nông dân.

15


Khi đã nâng cao được trình độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của người nông dân cần phải phát huy được quyền làm chủ và phát huy
quy chế dân chủ ở cơ sở .
Để phát huy dân chủ trong nông dân, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng sâu rộng trong nông dân về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Phát huy tinh thần tự
giác, hăng hái cách mạng, nâng cao lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân
chính, tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng.
Mọi việc thực hiện theo nguyên tắc ‘‘dân biết, dân bàn, dân kiểm tra’’, chống
mọi biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh coi thường dân.
Giáo dục bồi dưỡng đạo đức lối sống, phát huy truyền thống bản sắc văn
hoá: nhân hậu, thuỷ chung, có ý thức làm chủ và ý thức trách nhiệm cộng đồng,
thực hiện ‘‘người tốt việc tốt’’, ‘‘lá lành đùm lá rách’’, xoá đói giảm nghèo,
từng bước hình thành những chuẩn mực đạo đức lối sống con người mới,

chống những lề thói cổ hủ, lạc hậu, những biểu hiện của lối sống phi văn hoá,
coi đồng tiền là tất cả.
Phát huy hơn nữa vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị của xã
hội ở nông thôn để tập hợp nông dân, thông qua đó bồi dưỡng giáo dục nâng
cao nhận thức của của mỗi người dân và phát huy quyền làm chủ của họ trong đời
sống xã hội.
Xây dựng hệ thống chính trị ở nông thôn thực sự vững mạnh, đẩy mạnh
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm tạo bầu không khí dân chủ ở nông
thôn, chống nạn tham nhũng, quan liêu, tham gia xây dựng Đảng, củng cố
chính quyền ở cơ sở thật trong sạch và vững mạnh. Việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở cần gắn liền bới cuộc vận động ‘‘toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá’’. Nâng cao bồi dưỡng chất lượng tổ chức cán bộ hội cơ sở, nâng
cao chất lượng và chất lượng hội viên. Thực hiện quy chế dân chủ, nhất là ở cơ
sở sẽ góp phần vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân.
Bên cạnh đó các mặt trận, đoàn thể, các hội (Hội Nông dân, Đoàn thanh
niên, Hội Phụ nữ...) cần phải phối hợp với mọi người để tuyên truyền, bồi
dưỡng, giáo dục người nông dân mới trong đó Hội Nông dân giữ vai trò chủ
chốt.
Trước hết cần giáo dục nâng cao thái độ giác ngộ chính trị, tinh thần yêu
nước cho nông dân, tăng cường khối đại đoàn ở nông thôn. Cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị sâu rộng trong nông dân giúp bà
con hiểu được về quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách - pháp

16


luật Nhà nước về tình hình nhiệm vụ cách mạng, những thành tựu của hơn 20
năm đổi mới về những thuận lợi, khó khăn thách thức đối với nông dân, nông
nghiệp và nông thôn hiện nay.

2.1.3 QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH YÊN BÁI
Yên Bái là tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên 6.88,627,64 ha
chiếm 2% diện tích cả nước và bằng 10,4% diện tích vùng Đông Bắc. Nằm trải
dọc đôi bờ sông Hồng; Phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang
Phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ, Phía Tây giáp tỉnh Sơn La nằm sâu trong nội địa.
Hệ thống giao thông tương đối phát triển toàn tỉnh có 8 huyện, thị và 1 thành
phố trực thuộc tỉnh (trong đó có 2 huyện vùng cao là Trạm Tấu và Mù Cang
Chải thuộc 62 huyện nghèo của cả nước) có 180 xã, phường, thị trấn. 70/159 xã
vùng cao, 63/159 xã đặc biệt khó khăn. Dân số toàn tỉnh 751.922 người mật độ
dân số trung bình 109 người /km2 với 30 dân tộc (dân tộc thiểu số chiến
53,74%). Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn chiến 81% trình độ dân trí
không đồng đều, có tiềm năng về đất đai, nguồn nhân lực lao động với gần
430.000 người trong độ tuổi lao động trong đó lao động nông, lâm nghiệp,
thủy sản chiếm trên 75%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 là 24,23% (44.078 hộ) hộ
cận nghèo 5,84% (10.627 hộ).
Kinh tế chậm phát triển đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó
khăn, nhân dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, khai thác
lâm nghiệp. Ngoài ra, một vài năm gần đây một số huyện đã phát triển cây chè
và khai thác các mỏ đá công nghiệp. Vẫn còn tình trang sản xuất nông nghiệp
phụ thuộc vào thiên nhiên; hệ thống thuỷ nông, thuỷ lợi chưa đảm bảo cho sản
xuất thâm canh của nông dân nên năng xuất cây trồng, vật nuôi chưa cao.
Quán triệt đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng trong
những năm qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái đã nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân.
Tỉnh đã ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp,
nông thôn, giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình quân 5,64%/ năm kinh tế trang
trại được chú trọng và phát triển theo hướng hàng hoá, nâng cao chất lượng,

hiệu quả, mở rộng và hình thành thêm các vùng chuyên canh có quy mô lớn về
diện tích và sản phẩm gắn với chế biến và thị trường. Nổi bật là vùng lúa năng
suất chất lượng cao ở Văn Chấn, Văn Yên, Thị xã Nghĩa Lộ, Lục Yên, vùng
măng tre Bát Độ, Sắn ở Trấn Yên, Văn Yên... Mở rộng thêm 5.000 ha ngô theo

17


hướng sản xuất hàng hóa đưa lương thực bình quân đầu người từ 277 kg/năm
tăng lên 318 kg. Các thế mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, lâm
nghiệp được phát huy làm cho nông nghiệp được phát triển khá toàn diện.
Vùng chè với diện tích 13.000 ha tiếp tục được cải tạo, thâm canh năng xuất,
chất lượng; trồng mới thay thế 2.328 ha chè già cằn cỗi bằng giống mới. Sản
lượng chè búp tươi tăng 40% so với năm 2005. Phát triển vùng quế đặc sản ở
các huyện Văn Yên, Văn Chấn, Trấn Yên lên 27.000 ha gắn với công nhiệp chế
biến nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người trồng quế. Với chương
trình phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng công nghiệp, bán công
nghiệp, bò cho hộ nghèo... nên tổng đàn gia súc chính tăng bình quân
4,33%/năm giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2010 chiếm 25% giá trị ngành nông
nghiệp. Năm năm qua toàn tỉnh trồng mới 71.248 ha rừng, trong đó có trên
83% diện tích là rừng sản xuất. Đặc biệt là 3.331 ha rừng tại các huyện, xã
vùng cao phía tây của tỉnh cùng với việc tổ chức bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh
rừng được chú trọng; đưa tỷ lệ độ che phủ rừng từ 51,37% năm 2005 tăng lên
59,2% năm 2010 là một trong những địa phương có tỷ lệ rừng cao nhất nước
giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng bình quân 6,42%/ năm. Năm 2010 chiếm
20,7% tổng giá trị ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Cơ sở hạ tầng nông thôn
đã được quan tâm đầu tư thông qua các chương trình, dự án, ngân sách tỉnh và
đầu tư của nông dân. Cơ cấu kinh tế nông thôn đã có chuyển biến, giảm dần số
hộ nông nghiệp, tăng số hộ làm ngành nghề, dịch vụ. Số hộ thuần nông năm
2007 giảm hơn 2% so với năm 2001, số hộ hoạt động thương nghiệp tăng, tổng

mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội năm
2010 tăng gấp 3 lần so với năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2010
đạt 25 triệu USD, gấp hơn 2,5 lần so với năm 2005. Với sự coi trọng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và tập trung xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng, giao thông, trường học, trạm xá... Phong trào xã hội hoá giáo dục phát
triển mạnh, trình độ dân trí được tăng lên rõ rệt. Do vậy, trong những năm qua
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Yên Bái đã đạt được
những kết quả rất quan trọng, nổi bật kinh tế phát triển khá toàn diện, duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao bình quân 5 năm (2005- 2010) là 12,31% trong đó:
Nông, lâm nghiệp tăng 5,1%, công nghiệp - xây dựng tăng 17,24%; dịch vụ
tăng 14,25% cơ cấu chuyển dần theo hướng công nghiệp hóa. Tỷ trọng nông,
lâm nghiệp 33,05% (giảm 5,93%) tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2010 tính
theo giá thực tế gấp 2,5 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đạt
10,8 triệu đồng Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực là trong việc xây dựng cơ

18


sở vật chất, kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động; cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho những phát triển cao hơn.
Tuy nhiên, từ thực tiễn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn ở Yên Bái cũng đã bộc lộ những khó khăn và hạn chế. Quy
mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, phân tán; năng suất lao động, năng suất cây
trồng, vật nuôi và tỷ suất hàng hoá thấp. Bình quân lương thực đầu người mới
đạt 517,5kg/người/năm. Tỷ trọng hàng hoá nông lâm sản xuất khẩu mới chiếm
36,58% tổng giá trị sản xuất. Đầu tư cho nông nghiệp mới chỉ hơn một nửa đầu
tư cho công nghiệp (15% và 25% ). Thế mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi
đại gia súc chưa có bước đột phá mạnh, chè xuất khẩu vẫn ở dạng thô. 3 năm
trở lại đây, giá trị chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất ngành chỉ ở mức 21%.

Trồng rừng vẫn còn quảng canh là chủ yếu, nên sản lượng gỗ chỉ bằng 50-60%
rừng thâm canh.
Nhìn chung, nông nghiệp phát triển chưa bền vững, khả năng thích ứng,
đối phó với thiên tai rất hạn chế. Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn còn nhiều lúng túng, bước đi chưa rõ ràng. Đất đai
ở vùng cao chưa được quản lý chặt chẽ, một bộ phận đồng bào vẫn thiếu đất
sản xuất. Cơ chế, chính sách khuyến khích chuyển đổi, tích tụ đất đai chưa
hoàn chỉnh, nên hạn chế nhiều trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nông thôn hiện nay phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng thiếu và chất
lượng kém; còn trên 600km đường chỉ đi được vào mùa khô và mới có khoảng
35% mặt đường được cứng hoá. Nhiều công trình thuỷ lợi xuống cấp, thiếu
kinh phí sửa chữa.
Kinh tế nông thôn nặng về thuần nông, hiện còn tới 86% số hộ chuyên
nông nghiệp, hộ làm công nghiệp, dịch vụ tăng chậm; hộ làm thuỷ sản, lâm
nghiệp so với 5 năm trước có xu hướng giảm.Các nguồn lực trong nông thôn sử
dụng lãng phí, kém hiệu quả, nhất là tài nguyên và nhân lực. Hàng năm, khu
vực nông thôn tăng thêm nhưng giải quyết việc làm ổn định còn chiếm tỷ lệ
thấp, do công nghiệp các ngành nghề khác giải quyết việc làm quá chậm cho
người lao động. Đây là một trong những vấn đề bức xúc cần sớm có biện pháp
giải quyết. Đời sống vật chất, tinh thần nông dân còn nhiều khó khăn, nhất là
đồng bào vùng cao khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị có xu
hướng ngày càng giãn cách, tất yếu sẽ dẫn đến nông nghiệp, nông thôn, phát
triển không bền vững.
Mặt khác, vai trò chỉ đạo của chính quyền Nhà nước đối với các doanh
nghiệp có chức năng trực tiếp phục vụ sản xuất như: Vật tư, thương mại... còn hạn
chế.

19



Với đặc điểm địa lý và thực trạng nêu trên, trong những năm tới thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Yên Bái phải dựa
trên một nền nông nghiệp quy mô lớn thích hợp, đồng thời xây dựng chiến
lược, bước đi phù hợp thông qua việc xây dựng các đề án phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nông dân thiết thực, cụ thể. Đẩy mạnh thực hiện cơ giới hoá
các khâu trong sản xuất, để nâng cao năng suất lao động.
Trong phát triển nông nghiệp, vấn đề an ninh lương thực phải đặt lên
hàng đầu; chú trọng khai hoang ruộng nước và thâm canh, tăng vụ ở những nơi
có điều kiện, nhất là ở vùng cao. Cần có cuộc cách mạng ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật rộng rãi trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học để tạo ra một nền
nông nghiệp sạch, phát triển bền vững, có năng suất, chất lượng, tỷ suất hàng
hoá cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Tập trung đổi mới cơ cấu sản xuất
nông nghiệp trên cơ sở thế mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc và
lâm nghiệp. Đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích chè, tuyển chọn giống chè
nhập nội phù hợp đưa vào sản xuất, phát triển chè đặc sản vùng cao; cùng với
đầu tư hoặc liên doanh đầu tư công nghệ chế biến tiên tiến, tạo ra sản phẩm chè
tinh, chất lượng cao.
Tiếp tục thay đổi tập quán chăn nuôi đại gia súc, hướng mạnh vào chăn
nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, áp dụng rộng rãi các biện pháp kỹ thuật để
nâng cao chất lượng, số lượng đàn trâu, bò; đồng thời làm tốt công tác phòng
chống dịch cho gia súc, gia cầm; phấn đấu giá trị chăn nuôi chiếm trên 30% giá
trị ngành nông nghiệp. Sử dụng có hiệu quả mặt nước đầm, ao, hồ để nuôi
trồng thuỷ sản, hướng mạnh vào nuôi các loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
Cùng với tăng cường bảo vệ diện tích rừng hiện có, đẩy mạnh trồng
rừng sản xuất với tập đoàn cây phù hợp (cả cây bản địa, cây gỗ lớn) phục vụ
công nghiệp chế biến gỗ, giấy và xuất khẩu; phấn đấu giá trị sản xuất lâm
nghiệp chiếm 48- 50% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp trong những năm tới.
Chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang phát triển kinh tế
đa dạng, chú trọng vào công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, ngành nghề truyền
thống sử dụng nhiều nguyên liệu tại chỗ, các hoạt động thương mại, dịch vụ; có

chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nông thôn, các hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp có hoạt động chế biến, lưu thông, các loại hình trang trại
quy mô sản xuất hàng hoá lớn.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu.
Nâng cấp các tuyến đường, cầu nông thôn, bảo đảm đường ô tô đến trung tâm
xã trong cả mùa mưa và cứng hoá mặt đường (nhựa, bê tông, rải đá cấp
phối…) được 100% như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đề ra.

20


Đầu tư để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình thuỷ
lợi, tiến tới chủ động tưới tiêu cả hai vụ. Quy hoạch nông thôn phù hợp với sản
xuất lớn và mức sống hiện đại, gắn với bảo tồn văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tiếp tục tăng cường thực hiện quy chế dân chủ để nông dân trực tiếp
giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương; tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh. Thực hiện tốt việc liên kết 4
nhà trong sản xuất; tiến tới xóa bỏ trợ cấp cho nông dân thông qua doanh
nghiệp bằng phát triển các dịch vụ công. Đào tạo nghề cho nông dân bằng trang
bị kỹ năng sản xuất, quản lý nông hộ, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, nắm
bắt thị trường. Thành lập trung tâm thông tin thị trường, dự báo thị trường nông
sản để nông dân sản xuất có hiệu quả, tránh được rủi ro. Thực hiện bảo hiểm
một số sản phẩm chủ lực của tỉnh, trước tiên là chè, quế, trâu bò… để nông dân
yên tâm sản xuất; tiến tới bảo hiểm xã hội cho nông dân. Nông dân cần được
xác định như một doanh nghiệp để được hưởng cơ chế, chính sách như các loại
hình doanh nghiệp khác.
Thu hút các nguồn tài trợ, các chương trình, dự án đầu tư cho khu vực
nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân trực tiếp tham gia và được hưởng lợi
nhiều hơn từ các chương trình, dự án. Chỉ có đặt đúng tầm và giải quyết đồng

bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân thì nông nghiệp, nông thôn, nông
dân mới phát triển bền vững, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại, để thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn ở Yên Bái phải nắm vững và vận dụng sáng tạo
đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng vào điều kiện cụ thể ở địa
phương nhằm phát triển sản xuất toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm
thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng cơ sở vật chất kinh tế hạ tầng, phục vụ
sản xuất và đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất – kinh doanh - dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội mà ở đó nông dân đóng vai trò quyết định, bởi
giai cấp nông dân là một lực lượng chính trị - xã hội, là lực lượng sản xuất
quan trọng, nông dân và nông thôn còn là nơi lưu giữ kho tàng văn hoá dân tộc.

21


Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm đổi mới, có thể đánh giá rằng, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã đạt được thành tựu khá toàn diện
và to lớn. Nhờ phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa với tốc độ
khá cao, nâng cao được năng suất, chất lượng, hiệu quả mà an ninh lương thực
quốc gia được bảo đảm vững chắc và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam đã có vị thế cao trên thị trường thế giới. Ðời sống vật chất và tinh
thần của dân cư nông thôn mà chủ yếu là nông dân đã được cải thiện về căn
bản, trong đó xóa đói, giảm nghèo là một thành tựu nổi bật.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, điều quan trọng trước hết là mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa

phương cần phải quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đảng và đặc điểm
kinh tế – xã hội hiện nay ở nước ta để vận dụng một cách sáng tạo vào quá
trình tổ chức thực hiện. Xác định rõ nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn hiện nay, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi trên cơ sở những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ sản xuất; mở
những ngành nghề phù hợp trong nông thôn, gắn sản xuất nông nghiệp với
công nghiệp chế biến nông sản; tập trung mọi nguồn vốn xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng trong nông thôn; đặc biệt là hệ thống điện, hệ thống thuỷ lợi, hệ
thống giao thông…đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ vào sản xuất…
Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên chính thức của
WTO, chính sách của Nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn cũng cần được đổi mới theo hướng khai thác các định chế
của WTO để hỗ trợ, ưu đãi cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Để làm chuyển biến khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề tiên quyết là phải có chủ
trương chính sách đúng. Chúng ta đã có Nghị quyết mới do Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá X). Tuy nhiên, sau khi có chủ trương
chính sách đúng, nhân tố quyết định lại là con người. Do đó cần đào tạo, bồi
dưỡng, tổ chức được đội ngũ cán bộ và các chuyên gia những lực lượng có
trọng trách chính trong việc “chèo lái” con thuyền “tam nông”. Bộ phận nòng
cốt này bao gồm các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ
khuyến nông…làm công tác chỉ đạo ở Trung ương và trực tiếp làm việc ở nông
thôn, và trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm cả đội ngũ cán bộ của các cơ
quan Đảng, Nhà nước ở Trung ương và các địa phương).

22



Nông dân nước ta chiếm hơn 70% dân số; sinh ra và lớn lên trong một
nền sản xuất nhỏ, tư rưởng, tập quán còn mang nặng tính tiểu nông, tự cấp, tự
túc, kết cấu hạ tầng còn thấp kém thì nhiệm vụ và bước đi của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phải bắt đầu từ nâng cao dân trí, từ thay
đổi tập quán canh tác với những tiến bộ của khoa học và công nghệ, từ việc
thực hiện các chương trình dự án, có mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nông dân, xây dựng những mô hình, những điểm sáng sát hợp với
mỗi vùng để nhân dân học tập. Người dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới.
Chính vì thế, nhiệm vụ xây dựng con người mới cho nông nghiệp, nông
thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là công việc hết sức nặng
nề, khó khăn, con người vừa phải mang những phẩm chất truyền thống tốt đẹp
của con người Việt Nam đã được hình thành và phát triển trong lịch sử; đồng
thời cần có những phẩm chất mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá để
tạo nên nhân cách được phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo…
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không phải chỉ là
trách nhiệm, việc làm riêng của Đảng, Chính phủ hay của giai cấp nông dân,
mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Tập trung nỗ lực của toàn Đảng, toàn
dân, mọi cấp mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mọi thể nhân và pháp nhân;
nỗ lực của tất cả các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô
ngành nghề kinh doanh, nếu có liên quan đến ngành nông nghiệp, người nông
dân và khu vực nông thôn thì đều phải có trách nhiệm chung tay với Nhà nước,
chung sức với người nông dân để giải quyết.
Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) về «Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2020 », một trong ba
nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung trong Kết luận hội nghị Trung ương 10
(Khoá IX) « Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt với không ngừng nâng cao đời sống văn hoá nền tảng tinh thần của xã
hội ». Công tác tư tưởng cần tập trung tạo sự thống nhất về phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ và bước đi để mỗi ngành, mỗi cấp nhận rõ trách nhiệm và

nghĩa vụ của mình, phát huy tính tự giác, tính chủ động sáng tạo trong từng con
người. Đó chính là nguồn lực nội sinh đảm bảo cho sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn bền vững, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn xây dựng nông thôn mới vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành TW, số 59-CT/TW, Chỉ thị « về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội nông dân Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn », Hà Nội, ngày 15
tháng 12 năm 2000.
2. Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Yên Bái, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh Yên Bái lần thứ XVII, nhiệm kỳ (2010 - 2015).
3. Ban dân vận TW, Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở
nước ta hiện nay, NXB chính trị quốc gia.
4. Ban văn hoá tư tưởng TW, Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn, NXB chính trị quốc gia.
5. Bách khoa toàn thư Việt Nam (www.bachkhoatoanthu.gov.vn)
6. C. Mác-Ph. Ănghen toàn tập, tập IV, NXB chính trị quốc gia, Sự thật
1995.
7. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ năm, Ban chấp
hành TW khoá XI, NXB chính trị quốc gia.
8. Hội nông dân Việt Nam, Bác Hồ với nông dân, nông dân với Bác Hồ,
NXB chính trị quốc gia.
9. Hội nông dân Việt Nam, Dự thảo « Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng - văn hoá năm 2004, nhiệm vụ năm 2005 »; Hà Nội tháng 3, năm 2005.
10. Lê Duẩn « Giai cấp công nhân và vấn đề nông dân », NXB chính trị

quốc gia.
11. PGS, TS Hoàng Quốc Bảo, giáo trình Hệ tư tưởng học, học viện báo
chí và tuyên truyền, NXB chính trị - hành chính.
12. Tình hình kinh tế – xã hội Tỉnh Yên Bái (Báo cáo kết quả thực hiện
nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XVI, nhiệm kỳ (2005- 2010).

24


25


×