Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.96 KB, 100 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Đội ngũ công nhân

ĐNCN

Giai cấp công nhân

GCCN

Khoa học - công nghệ

KHCN

Khu công nghiệp

KCN

Kinh tế - xã hội


KT - XH

Nhà xuất bản

Nxb

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ

g
3

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN THỜI
KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở TỈNH HƯNG YÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ công nhân

9

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Hưng Yên
1.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy


9

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Chương 2: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO

29

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN THỜI
KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ

54

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng
Yên hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ

54

công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
KẾT LUẬN

60
85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87


PHỤ LỤC

93


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, GCCN ở các
nước, nhất là các nước đang phát triển, là một trong những lực lượng xã hội quan
trọng hàng đầu, đang tham gia tích cực vào sự phát triển KT - XH của mỗi quốc
gia. Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của GCCN quốc tế, là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng, Nhà nước ta luôn
quan tâm xây dựng GCCN Việt Nam ngày càng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Sự lớn mạnh của GCCN Việt
Nam đã góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới, CNH,
HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hơn ba thập kỷ qua.
Cùng với các địa phương trong cả nước, tỉnh Hưng Yên cũng đang đẩy
mạnh công cuộc CNH, HĐH và là một tỉnh có tốc độ CNH, HĐH nhanh ở
miền Bắc. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung
ương khoá X về: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời
kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020), tỉnh
Hưng Yên rất coi trọng phát triển ĐNCN có chất lượng ngày càng cao, số
lượng, cơ cấu hợp lý, nhằm thực hiện mục tiêu đưa Hưng Yên sớm trở thành
một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây không những là yêu cầu cấp
bách mà còn là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài của tỉnh.
Trong những năm qua, với quyết tâm và nỗ lực phấn đấu của các cấp
lãnh đạo, chính quyền tỉnh Hưng Yên, ĐNCN tỉnh nhà đã có bước phát triển

nhanh chóng. Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp tăng nhanh, chất
lượng ĐNCN ngày càng nâng lên. Ở một số ngành và lĩnh vực sản xuất đã hình
thành ĐNCN lao động được đào tạo cơ bản, có trình độ học vấn, chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp cao - công nhân trí thức... Sự phát triển của ĐNCN về
mọi mặt đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy phát triển KT - XH của tỉnh.
3


Tuy nhiên so với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, ĐNCN tỉnh Hưng Yên vẫn còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém về mọi mặt, đặc biệt là chất lượng. Trong đó, một bộ
phận công nhân trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp còn thấp,
thiếu tính sáng tạo trong lao động sản xuất; kỷ luật, tác phong lao động chưa
đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp hiện đại; nhận thức chính trị, giác ngộ
giai cấp chưa thật đầy đủ; đạo đức, lối sống có biểu hiện suy giảm. Môi trường,
điều kiện làm việc, cơ chế chính sách đối với công nhân vẫn còn bất cập. Đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân còn nhiều khó khăn.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước nói chung, tỉnh
Hưng Yên nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại (cách mạng 4.0) phát triển mạnh
mẽ đòi hỏi, Đảng, Nhà nước cần có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, có cơ chế
chính sách nhằm xây dựng, phát triển toàn diện GCCN, nhất là về chất lượng.
Đó chính là điều kiện tiên quyết không chỉ tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng
cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn trực tiếp góp phần
đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Chất lượng đội ngũ công nhân thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên” làm đề tài
nghiên cứu luận văn cao học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề GCCN ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều

công trình khoa học nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, trong đó nổi lên
các công trình sau:
* Nghiên cứu về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nguyễn Đăng Thành (chủ biên), (2007), “Góp phần xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb
4


Chính trị quốc gia, Hà Nội [47]. Các tác giả đã phân tích thực trạng GCCN
thành phố Hồ Chí Minh, qua đó phần nào khái quát thực trạng GCCN Việt
Nam để từ đó nghiên cứu, tham khảo và đưa ra những luận cứ khoa học cho
việc định hướng phát triển GCCN nước ta hiện nay.
GS.TS Dương Xuân Ngọc (2008), “Giai cấp công nhân Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [38]. Tác giả đã đề cập đến GCCN và những nhân tố tác động đến quá
trình biến đổi GCCN Việt Nam; thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; quan điểm, mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam trở thành lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
TS Nguyễn An Ninh (2008), “Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện
nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [39]. Cuốn sách đã đề cập đến những
vấn đề liên quan tới quá trình phát triển của GCCN đã được đề cập, trong đó
có việc hoàn thiện cơ cấu GCCN đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
TS Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), (2010), “Xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”, Nxb Lao động, Hà Nội [59]. Cuốn sách đã
góp phần làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng trong vấn đề xây dựng GCCN;
đưa ra hệ thống giải pháp cho việc xây dựng GCCN trong thập niên tới; cung
cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xác định nội dung xây dựng

GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng và Nhà nước ta.
Phạm Văn Giang (2012), “Xu hướng vận động của giai cấp công
nhân Việt Nam trong quá trình đối mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[21]. Nội dung của cuốn sách góp phần nghiên cứu, tìm hiểu xu hướng vận
động của GCCN Việt Nam trong quá trình đổi mới; những vần đề mới xuất
hiện trong GCCN Việt Nam dưới tác động của điều kiện mới - toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế như: sự đa dạng về thành phần xuất thân, thành phần kinh
5


tế và ngành nghề hoạt động; hiện tượng phân tầng, phân hóa trong nội bộ giai
cấp công nhân.
Phạm Văn Giang (2017), “Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết
học [22]. Tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận, sự biến đổi, thực
trạng, định hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy sự
biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Phan Thanh Khôi (2005), “Nội dung và chủ thể, quan điểm và giải
pháp “trí thức hoá công nhân” ở nước ta hiện nay” [28]. Tác giả đã đưa ra
một số nội dung, các chủ thể chính, những quan điểm cơ bản trong quá trình
“trí thức hoá công nhân” ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp lớn
nhằm “trí thức hoá công nhân” ở nước ta hiện nay.
Dương Văn Sao (2007), “Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công
nhân, nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” [42]. Tác giả đã khẳng định: Giai cấp công nhân là nhân tố quyết định
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó đề xuất một số chủ
trương, chính sách nhằm phát huy vai trò GCCN trong giai đoạn hiện nay.
* Nghiên cứu về đội ngũ công nhân và xây dựng đội ngũ công nhân
tỉnh Hưng Yên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Nguyễn Văn Chung (2008), “Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [7]. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận, thực
trạng, đồng thời đề ra một số giải pháp xây dựng ĐNCN tỉnh Hưng Yên trong
thời kỳ mới.
Nguyễn Thu Phương (2013), “Phát triển nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng
Yên” [40]. Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
6


học. Tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận, thực trạng và đề xuất một số
giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực KHCN trong quá trình CNH,
HĐH ở tỉnh Hưng Yên.
Như vậy đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học
các cấp được công bố đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau có liên quan
đến GCCN; xây dựng GCCN, ĐNCN. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về “Chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên”. Vì vậy, đề tài là
công trình nghiên cứu độc lập của tác giả, có kế thừa những nội dung nghiên
cứu của các công trình nói trên liên quan đến đề tài, nhưng không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn chất lượng
ĐNCN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên, luận văn đề xuất
một số yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng ĐNCN trong sự nghiệp
CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng ĐNCN trong thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên.
Đánh giá thực trạng chất lượng ĐNCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ở tỉnh Hưng Yên.
Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng ĐNCN
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng ĐNCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên.
7


* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu chất lượng ĐNCN trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên, tuy nhiên có trọng tâm vào những KCN điển
hình như: Tổng công ty may Hưng Yên; Khu công nghiệp Phố Nối A; KCN
Thăng Long II. Các số liệu được sử dụng từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, Nghị quyết của Đảng về xây dựng
GCCN, về CNH, HĐH. Đồng thời, luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu
của một số công trình khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp khác như: lôgíc lịch
sử; phân tích, tổng hợp; điều tra xã hội học và xin ý kiến chuyên gia để làm sáng
tỏ góc độ chính trị và xã hội của đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp cho cấp ủy, chính quyền
tỉnh nghiên cứu xây dựng ĐNCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu học tập tại nhà trường trong
quân đội. Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo
trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách trong quản lý, phát triển
ĐNCN tỉnh Hưng Yên; cho việc nghiên cứu lý luận chuyên ngành CNXH
khoa học.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và các công trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÔNG NHÂN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH HƯNG YÊN

1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
1.1.1. Giai cấp công nhân và chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
* Quan niệm về giai cấp công nhân và vai trò của giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quan niệm về giai cấp công nhân
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định GCCN là sản phẩm của nền đại
công nghiệp, giai cấp có sứ mệnh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
về giai cấp công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân

trong giai đoạn hiện nay: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn
định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội
hoá ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và
cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội” [59, tr.65].
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của GCCN thế giới, ra đời
gắn liền với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, trưởng thành và
phát triển gắn liền với phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của GCCN quốc tế.
Cùng với quá trình phát triển đất nước, với đặc thù riêng và những điều kiện
9


lịch sử cụ thể nên GCCN Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: Giai cấp
công nhân Việt Nam sinh trưởng ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến với
một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, đa số dân
cư là nông dân. Do sinh trưởng trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu
tranh chống ngoại xâm, chịu hai tầng áp bức của đế quốc thực dân và phong
kiến, nên GCCN Việt Nam có mối thù sâu sắc với đế quốc thực dân, phong
kiến. Giai cấp công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nông dân, đều chịu hai
tầng áp bức của thực dân và phong kiến, nên có mối quan hệ mật thiết gắn bó
với nông dân, sớm tạo lập nên khối liên minh công nhân - nông dân vững chắc
trong cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân
tộc, thấu hiểu hơn ai hết nỗi đau của cảnh nước mất, nhà tan, nên đã kiên quyết
đứng lên đấu tranh dành độc lập tự do cho dân tộc. Quá trình hình thành của
GCCN Việt Nam chủ yếu qua các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược
Pháp và Mỹ. Từ khi ra đời GCCN Việt Nam chịu ảnh hưởng tích cực của cách
mạng XHCN tháng Mười Nga năm 1917, sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin,

nhanh chóng khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội [24, tr.12].
Hiện nay, “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [17, tr.43]. Giai
cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, CNH, HĐH phấn đấu đưa nước ta sớm trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cùng với quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, GCCN Việt Nam đang ngày càng phát triển cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Nghị quyết 20-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) về “Tiếp tục
xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
10


hóa”, Đảng ta xác định: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:
Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng” [17, tr.1], đồng thời đề ra mục tiêu xây dựng GCCN trong thời
gian tới là: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình
trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết hợp tác quốc tế; thực hiện

sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển
nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước; ngày càng được trí thức hóa: Có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ
tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh
với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao” [17, tr.3].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nêu rõ:
“Quan tâm, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công
nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà
ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính
sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
11


nghiệp… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
công nhân” [20, tr.160].
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công cuộc
đổi mới, cùng với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, GCCN Việt Nam đã có
những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu,
chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông bộ phận công nhân,
trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò của mình và có những đóng góp to lớn
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Quan niệm về chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Quan niệm về Chất lượng
“Chất lượng” là một phạm trù phức tạp và có nhiều quan niệm khác

nhau. Tùy theo đối tượng sử dụng, quan niệm về “chất lượng” có ý nghĩa
khác nhau. Ví như trong lĩnh vực kinh tế, người sản xuất coi chất lượng sản
phẩm là điều họ phải làm, phải hướng tới để đáp ứng các qui định và yêu cầu
do khách hàng đặt ra, được khách hàng chấp nhận. Chất lượng sản phẩm được
so sánh với chất lượng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các
chi phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách
hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.
Chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến mức người ta không
thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc dù sẽ còn luôn luôn
thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS
9000:2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các
đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng và các bên có liên quan”.
Với cách tiếp cận như vậy, có thể thấy chất lượng là đặc tính khách
quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài các thuộc tính, các tính chất
vốn có của sự vật. Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người,
một sự vật, sự việc. Nói đến chất lượng là nói tới hai vấn đề cơ bản:
12


Thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, giá trị, những đặc tính tạo
nên cái bản chất của một con người, một sự vật, sự việc.
Thứ hai, những phẩm chất, những đặc tính, những giá trị đó đáp ứng
đến đâu những yêu cầu đã được xác định về con người, sự vật, sự việc đó ở
một thời gian, không gian xác định và chịu sự tác động của những điều kiện
khách quan và chủ quan.
Theo đó, nói đến chất lượng của một con người là nói đến mức độ đạt
được của một người ở một thời gian và không gian được xác định cụ thể, đó
là các mức độ tốt hay xấu, cao hay thấp, ngang tầm hay dưới tầm, vượt tầm,
đạt hay không đạt yêu cầu đặt ra. Tổng hợp những phẩm chất, những giá trị,

những thuộc tính đặc trưng, bản chất của một con người và các mặt hoạt động
của con người đó, chính là chất lượng con người đó.
Khái quát về tỉnh Hưng Yên: Hưng Yên là một tỉnh đồng bằng sông
Hồng, phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây
và tây bắc giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây nam
giáp tỉnh Hà Nam. Đây là vùng đất cổ, có truyền thống lịch sử và văn hiến lâu
đời. “Tỉnh Hưng Yên được thành lập vào năm Minh Mạng thứ 12 (năm
1831)” [48, tr.9]. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, lần đầu tiên
trong lịch sử cái tên Hưng Yên được xuất hiện.
Là một tỉnh thuần nông nhưng Hưng Yên được biết đến là một miền
quê tươi đẹp, một mảnh đất phù sa màu mỡ, có đặc sản Nhãn Lồng và truyền
thống văn hiến lâu đời, một chốn phồn hoa đô hội ngàn xưa: “Thứ nhất Kinh
Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Hưng Yên còn là mảnh đất “Địa linh nhân kiệt”, nơi
sản sinh ra nhiều bậc tài danh của đất nước trong nhiều thời kỳ lịch sử và là
quê hương của nhiều nhà cách mạng, nhiều vị tướng tài.
Hòa bình lập lại, tỉnh Hưng Yên trải qua nhiều lần thay đổi địa giới
hành chính: ngày 26 - 01 - 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết
số 504 - NQ/TVQH phê chuẩn hợp nhất hai tỉnh là Hưng Yên và Hải Dương
13


thành tỉnh Hải Hưng. Sau đó, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, ngày 06 11 - 1996, Quốc hội lại phê chuẩn việc chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải
Dương và Hưng Yên, ngày 01 - 01 - 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập.
Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, thành phố
bao gồm: Thành phố Hưng Yên, các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào,
Yên Mỹ, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ với 160 xã,
phường, thị trấn; diện tích tự nhiên là 930,22 km 2, dân số thống kê đến năm
2016 là khoảng 1,2 triệu người với mật độ dân số 1.228 người/km2.
Tỉnh Hưng Yên không có núi nhưng lại nhiều sông ngòi, hệ thống đại
thủy nông Bắc - Hưng - Hải được khởi công vào năm 1956 đã hòa cùng hệ thống

sông ngòi trước đó tạo thành một hệ thống thủy nông giao thông phong phú. Là
một tỉnh có địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình so với nước
biển là +4m, có 60.524,95 ha đất nông nghiệp, đất đai trong tỉnh chủ yếu là
đất phù sa, đất cát pha và một phần đất thịt rất thích hợp với các loại cây trồng
như: lúa, màu, cây công nghiệp, cây ăn quả.
Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4
mùa rõ rệt (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến
tháng 10 hàng năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 70% tổng
lượng mưa cả năm. Nhiệt độ trung bình trong năm đo được là 23 o c. Nhiệt
độ cao nhất vào tháng 5 lên tới 38 0c, lượng mưa hàng năm đạt từ 1800
đến 2200 mm. Độ ẩm tương đối trung bình tháng từ 80 đến 90%. Một số
năm còn xảy ra lốc, mưa đá tuy không lớn nhưng cũng gây thiệt hại cho
mùa màng và tài sản.
Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, bao gồm 7 tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh
Phúc và Bắc Ninh. Một khu vực có nhiều lợi thế và đang trở thành vùng phát
triển sôi động, có ưu thế rất thuận lợi cho việc hội nhập với nền kinh tế Châu
Á và thế giới thông qua mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập
khẩu và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài.
14


Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới và CNH, HĐH, kinh tế của
tỉnh Hưng Yên đã có bước phát triển với tốc độ nhanh, khá toàn diện và vững
chắc, GDP năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong phần đánh giá thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2016 - 2020 đã chỉ
rõ: Sau khó khăn của những năm đầu nhiệm kỳ, từ năm 2013 đến nay sản
xuất công nghiệp đã từng bước được phục hồi và tiếp tục phát triển đạt hiệu
quả, tăng trưởng bình quân 9,87%; cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích
cực; các ngành, lĩnh vực, sản phẩm có thương hiệu, giá trị gia tăng, chất

lượng và sức cạnh tranh trên thị trường được giữ vững và phát triển; có
thêm nhiều sản phẩm công nghiệp phụ trợ, công nghệ giá tr ị gia tăng cao
như: phụ tùng ô tô xe máy, dệt may, điện tử, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất
khẩu. Các KCN hoạt động hiệu quả, tỷ lệ lấp đầy đạt khá, đóng góp nhiều
vào nguồn thu ngoại tệ qua hoạt động xuất khẩu hàng hóa (như KCN Thăng
Long II, KCN Phố Nối A,...) [10, tr.20].
Tính đến năm 2016, Hưng Yên có 11 KCN với tổng quy mô diện tích
2.481 ha được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung vào Danh mục Quy
hoạch tổng thể phát triển các KCN cả nước. Các KCN được xem là hạt nhân
thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa của tỉnh. Hiện nay, chính quyền địa phương,
các ngành chức năng cũng như nhà đầu tư hạ tầng các KCN luôn nỗ lực tạo sức
hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư, nâng sức cạnh tranh và quyết liệt cải thiện
môi trường đầu tư góp phần để Hưng Yên phát triển công nghiệp bền vững.
Tiểu thủ công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn được duy trì,
59 làng nghề đang hoạt động đã đóng góp vào phát triển KT - XH, nhất là giải
quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới.
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Bình quân mỗi năm có khoảng
530 doanh nghiệp mới được thành lập, đến ngày 30/6/2015 có 5.921 doanh
nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp [10, tr.21]. Đến năm 2017, tốc độ
15


tăng trưởng công nghiệp của tỉnh là: Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng
9,51% (KH 9%), trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,43%,
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,50%; ngành sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 11,91%; ngành
cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,63%. Một
số sản phẩm tăng trưởng khá như: Thép cán các loại tăng 11,56%, tủ lạnh, tủ
đá các loại tăng 22,15%, sản phẩm bằng plastic các loại tăng 12,72%, sản xuất

giấy và sản phẩm từ giấy tăng 10,63% [63, tr.3].
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã xác định: “Tập trung thu hút đầu tư, phát
triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp có giá trị gia tăng cao, hiện
đại” là một trong ba khâu đột phá trong nhiệm kỳ 2016 - 2020 để phấn đấu
đưa Hưng Yên sớm trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
Với chỉ tiêu chủ yếu: Một là, tăng trưởng bình quân năm: GRDP tăng từ 7,5 8%; giá trị sản xuất nông nghiệp - thủy sản tăng từ 2,5 - 3%, chỉ số sản xuất
công nghiệp tăng 9 - 10%, thương mại - dịch vụ tăng 8,5 - 9,5%; kim ngạch
xuất khẩu tăng bình quân 16%; duy trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%.
Hai là, đến năm 2020: Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp, xây dựng 55%; Dịch vụ
37%; Nông nghiệp 8%; giá trị thu được bình quân 210 triệu đồng/ha; 70% số
xã đạt chuẩn nông thôn mới; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 13.000
tỷ đồng, trong đó thu nội địa 9.000 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt 5 tỷ
USD; GDP bình quân đầu người 75 triệu đồng; tỷ lệ đô thị hóa đạt 40,5%; tỷ
lệ hộ dân được dùng nước hợp vệ sinh đạt 98%; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 2%;
tỷ lệ lao động qua đào tạo 65%; 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia
về y tế; tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế đạt trên 80%; 90% số cơ quan,
đơn vị, gia đình và 87% số làng, khu phố đạt danh hiệu văn hóa; thành phố
Hưng Yên đạt đô thị loại II, thị xã Mỹ Hào đạt đô thị loại III. Ba là, hàng năm
tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh trên 50% (theo hướng dẫn
mới); Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đạt vững mạnh trên
85%; kết nạp mới 1.600 đảng viên [10, tr. 61].
16


Khái quát về đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên là
một bộ phận của GCCN Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH, phát triển KT - XH ở tỉnh Hưng Yên.
Đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên

thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị trường, tư tưởng trông chờ vào bao
cấp của Nhà nước được khắc phục rõ rệt; đã bắt đầu hình thành được ý thức
về giá trị của bản thân trong lao động; đã xuất hiện một bộ phận công nhân có
cổ phần trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Trong quá trình hình
thành và thực hiện đường lối đổi mới, ĐNCN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở
tỉnh Hưng Yên, đặc biệt là ĐNCN trí thức, đã phát huy tinh thần sáng tạo, đề
xuất nhiều giải pháp quý báu cho Ðảng bộ tỉnh Hưng Yên nói riêng và cho
Đảng, Nhà nước đúc rút thành những chủ trương và chính sách để lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Những cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật và bộ
phận công nhân trực tiếp sản xuất có trình độ cao, đã phát huy tốt hơn tính
năng động, sáng tạo trong công việc, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích
ứng với cơ chế thị trường, tiếp thu và từng bước làm chủ những thành tựu
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế đang làm cho ĐNCN thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên biến đổi về cơ cấu, số lượng, chất lượng
trên hai phương diện chính:
Một mặt, quá trình xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã thúc đẩy sự biến đổi ĐNCN trong các thành phần kinh tế theo
hướng: số lượng công nhân trong khu vực nhà nước giảm mạnh do chủ trương
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước (từ 5.533 công nhân năm 1997 xuống còn
2.709 công nhân năm 2011 và tăng dần lên 3.834 công nhân năm 2015); số
17


lượng công nhân trong khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có xu hướng tăng mạnh (từ 32.024 công nhân năm 1997 tăng lên 113.857
công nhân năm 2011 và đến nay là 167.939 công nhân) [8, tr.104].
Mặt khác, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và chuyển đổi cơ cấu sản
xuất kinh doanh đang làm biến đổi sâu sắc cơ cấu, số lượng và chất lượng
ĐNCN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên. Tốc độ phát triển

nhanh của công nghiệp, dịch vụ và nhu cầu lớn về nguồn lao động là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu, số lượng, chất lượng
ĐNCN của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Tác động mạnh và trực tiếp nhất với
người công nhân vẫn là quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và thay đổi quy
trình công nghệ tại các doanh nghiệp, khá nhiều công nhân ở độ tuổi trên 40
đã không theo kịp quá trình này.
Cơ chế thị trường vừa tận dụng mọi trình độ lao động lại vừa phân hóa,
đào thải công nhân theo các trình độ tay nghề. Ở tỉnh Hưng Yên hầu như vẫn
chấp nhận tất cả mọi trình độ lao động, hiển nhiên là với mức lương rất khác
nhau. Theo đó, những vấn đề xã hội nảy sinh cũng tương ứng với trình độ
công nghệ. Hiện tượng đình công hay tranh chấp lao động cũng xảy ra ở một
số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Tại một số doanh nghiệp nhà nước, quá trình chuyển
đổi cơ chế sản xuất và quản lý còn chậm; dấu vết của cơ chế bao cấp, ưu đãi
vẫn còn; hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp vẫn chưa tương xứng với vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình chuyển đổi căn bản
toàn bộ nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp gắn với
việc áp dụng công nghệ hiện đại. Vì vậy, vai trò của GCCN là vô cùng to lớn
vì họ là những người trực tiếp sản xuất và hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực
công nghiệp. Ở tỉnh Hưng Yên, trong những năm qua, ĐNCN là những người
lao động trực tiếp và có mặt ở tất cả các ngành công nghiệp quan trọng, các
18


KCN then chốt và ở mọi thành phần kinh tế. Sự phát triển kinh tế ở tỉnh trong
những năm qua chủ yếu dựa vào tốc độ tăng trưởng về công nghiệp. Vì vậy, sự
phát triển của ngành công nghiệp là yếu tố quyết định tạo nên sự thành công của
quá trình CNH, HĐH. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình đổi mới kinh
tế và chuyển giao công nghệ hiện đại, với vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu

của xã hội, ĐNCN tỉnh Hưng Yên là người đầu tiên tiếp nhận, lắp đặt, vận hành,
điều khiển, sử dụng máy móc và các thiết bị hiện đại. Bản thân họ là những
người đi đầu trong việc ứng dụng thành tựu KHCN hiện đại vào quá trình sản
xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng có chất lượng
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đội ngũ công nhân thực sự là lực
lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Hưng Yên.
Chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên là tổng hòa các yếu
tố cấu thành như: số lượng, cơ cấu, tổ chức và chất lượng
(bao gồm: phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ học
vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, ý thức tổ chức kỷ luật,
tác phong lao động công nghiệp, sức khỏe) của người công
nhân và cả đội ngũ công nhân được thể hiện trong thực tiễn,
ở chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Chất lượng ĐNCN có ảnh hưởng trực tiếp, có ý nghĩa quyết định đến
năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến sức cạnh tranh của
hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường, đến tốc độ phát triển KT - XH,
nhất là phát triển công nghiệp. Do đó, xây dựng ĐNCN tỉnh Hưng Yên có
chất lượng ngày càng cao trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là một nội
dung quan trọng hàng đầu.
Nâng cao chất lượng ĐNCN tỉnh Hưng Yên hiện nay cần tập trung vào
các yếu tố: Sự giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần
dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế
19


độ XHCN, ý trí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tinh thần trách nhiệm đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trình độ tri thức, năng lực chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp; đạo đức, lối sống; tính tổ chức, tính kỷ luật, tác

phong công nghiệp; sức khỏe, thể lực... của công nhân. Nói cách khác, nâng cao
chất lượng ĐNCN tỉnh Hưng Yên thực chất là bồi dưỡng nâng cao các phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp
vụ, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong lao động, sức khỏe... cho ĐNCN. Các yếu
tố đó được phản ánh và thể hiện ra trên thực tế ở chất lượng hiệu quả hoạt động
của ĐNCN đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hưng Yên.
1.1.2. Các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công
nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
* Các yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Một là, chất lượng giáo dục, đào tạo: Chất lượng ĐNCN tỉnh Hưng
Yên trước hết chịu sự quy định của chất lượng giáo dục, đào tạo của đất nước
nói chung, của tỉnh nói riêng. Bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài” [20, tr.114]. Theo đó, chất lượng giáo dục đào tạo của đất nước nói chung,
của tỉnh Hưng Yên nói riêng mà tốt thì sẽ góp phần tạo ra nguồn nhân lực có
chất lượng tốt. Ngược lại, chất lượng giáo dục đào tạo thấp thì nguồn nhân lực
đất nước nói chung cũng sẽ hạn chế.
Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên được tuyển chọn từ các địa phương
trên cả nước song chủ yếu là con em nhân dân trên địa bàn tỉnh. Chất lượng
giáo dục, đào tạo của các nhà trường (THCS, THPT, THCN, Cao đẳng, Đại
học, trường đào tạo nghề...) có ảnh hưởng đến chất lượng ĐNCN (chất lượng
đầu vào). Chính những phẩm chất, nhân cách cũng như kiến thức (tự nhiên,
xã hội) mà người công nhân được trang bị trong những năm tháng học tập ở

20


các bậc học là cơ sở nền tảng, là giá đỡ cho họ sau này trong quá trình lao

động ở các doanh nghiệp.
Nguồn tuyển dụng đầu vào là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
của ĐNCN. Tuyển dụng được người học đúng ngành, chuyên ngành sẽ làm cho
việc bố trí, sử dụng công nhân sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn; việc đánh giá năng lực
của công nhân cũng sát với thực tế hơn. Nếu ĐNCN được tuyển dụng hoặc được
luân chuyển không sát với yêu cầu công việc sẽ là một bất lợi cho các doanh
nghiệp vì phải tiến hành đào tạo, đào tạo lại mới có thể sử dụng được.
Nguồn và chất lượng đầu vào của ĐNCN sẽ ảnh hưởng đến chiến lược, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát triển ĐNCN. Nó ảnh hưởng lớn đến nội dung
chương trình đào tạo, bồi dưỡng; thời gian đào tạo, bồi dưỡng; số lượng cần phải
đào tạo, bồi dưỡng và kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân.
Chất lượng ĐNCN không chỉ phụ thuộc vào chất lượng giáo dục, đào
tạo ở các nhà trường, mà còn phụ thuộc vào thực tế công tác đào tạo, bồi
dưỡng, đào tạo lại ở các doanh nghiệp. Những kiến thức được trang bị trong
nhà trường rất quan trọng, là giá đỡ cho họ sau này ra làm việc, song chính
thực tiễn hoạt động, lao động sản xuất đòi hỏi ĐNCN cần phải tiếp tục được
đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại để đáp ứng tốt hơn.
Trên thực tế, nhất là bối cảnh hội nhập hiện nay, các doanh nghiệp
trong quá trình sản xuất kinh doanh đều phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng,
đào tạo lại ĐNCN nhằm nâng cao trình độ, tay nghề cho họ. Có như vậy chất
lượng sản phẩm công nghiệp sản xuất ra của các doanh nghiệp mới đáp ứng
yêu cầu và đứng vững được trên thị trường.
Chính quá trình thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại
cho ĐNCN của các doanh nghiệp cũng sẽ góp phần trực tiếp nâng cao chất
lượng ĐNCN tỉnh Hưng Yên.
Hai là, môi trường, điều kiện làm việc: Các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin đã khẳng định: Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp, đại công nghiệp càng phát triển thì GCCN càng phát triển cả về số
21



lượng và chất lượng. Theo đó, chất lượng GCCN phụ thuộc và chịu sự quy
định của sự phát triển nền công nghiệp. Nói cách khác, nền công nghiệp mà
ngày càng phát triển về quy mô, trình độ công nghệ cao, hiện đại… sẽ là môi
trường, điều kiện thuận lợi cho GCCN phát triển về số lượng và chất lượng.
Với sự phát triển CNH, HĐH của đất nước nói chung, tỉnh Hưng Yên nói
riêng hiện nay chính là môi trường, điều kiện thuận lợi để ĐNCN tỉnh nhà lao
động, cống hiến, ngày càng nâng cao phẩm chất, trình độ tay nghề của mình.
Bên cạnh môi trường làm việc, chất lượng ĐNCN tỉnh Hưng Yên còn
chịu sự tác động của môi trường xã hội. Môi trường xã hội bao gồm nhiều yếu
tố như: dân số, gia đình, văn hóa, đạo đức, lối sống... nó ảnh hưởng sâu sắc
đến hoạt động của đội ngũ công nhân.
Chất lượng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực
đất nước nói chung, đến chất lượng ĐNCN tỉnh Hưng Yên nói riêng. Nếu chất
lượng dân số cao sẽ tạo ra nguồn nhân lực, nguồn lao động tốt và ngược lại.
Tình hình phát triển dân số với lực lượng lao động tăng đòi hỏi phải tạo thêm
nhiều việc làm mới; ngược lại sẽ làm lão hóa đội ngũ lao động trong công ty
và khan hiếm nguồn nhân lực.
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt. Một trong những
chức năng rất quan trọng của gia đình là tái sản xuất ra con người, duy trì nòi
giống, nuôi dạy, giáo dục con cái. Nếu gia đình quan tâm, nuôi dạy con cái tốt,
sẽ cùng với nhà trường tạo ra những công dân tốt cho xã hội. Trái lại, nếu gia
đình không làm tốt chức năng nuôi dạy con cái sẽ cho xã hội những công dân
kém chất lượng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Văn hoá, đạo đức, lối sống cũng là yếu tố quan trọng trong môi trường xã
hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành giá trị nhân cách của mỗi cá nhân
trong xã hội. Nói đến văn hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội là nói đến những giá
trị cao đẹp, chuẩn mực về nhân cách, phẩm giá con người đã được kết tinh, trở
thành nét đẹp truyền thống, có giá trị định hướng, giáo dục các thế hệ mai sau.


22


Nếu môi trường xã hội lành mạnh thì tạo điều kiện thuận lợi cho
ĐNCN phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, năng suất lao động...
Ngược lại, nếu môi trường xã hội không lành mạnh thì gây ảnh hưởng rất lớn
đến công nhân, làm chậm thậm chí là không có sự thúc đẩy và phát triển chất
lượng ĐNCN, sản lượng lao động thấp...
Ba là, cơ chế chính sách: Là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người hoạt
động. Đối với ĐNCN tỉnh Hưng Yên hiện nay, chính sách (đặc biệt là chính
sách tiền lương) thực sự là vấn đề thiết thực nhất được họ quan tâm. Cần chú
trọng hoàn thiện các chính sách việc làm, chính sách khuyến khích các lĩnh
vực, các ngành nghề, khuyến khích người có vốn, có trình độ đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động
xã hội. Quan tâm đến chính sách tiền lương, bảo đảm thu nhập của người lao
động tương xứng với kết quả lao động của họ, hạn chế tình trạng phân hóa giàu
nghèo ngay trong nội bộ GCCN, nhằm tạo động lực khuyến khích công nhân
lao động cống hiến năng lực, trí tuệ cho sự nghiệp CNH, HĐH. Cần quan tâm
tổ chức thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với công nhân lao
động. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện chính sách nhà ở cho
công nhân lao động, trong đó chú trọng nhà ở của công nhân lao động có trình
độ chuyên môn cao và công nhân lao động nghèo. Nếu chính sách phù hợp sẽ
tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, phát huy tiềm năng của người lao động
và người làm công hưởng lương. Các chính sách rõ ràng sẽ giúp công ty xác
định được và ngăn chặn những rủi ro xảy ra đối với người lao động và đảm bảo
rằng công ty đang tuân theo đúng luật pháp. Chúng cũng sẽ giúp tạo lập văn
hoá công ty: khi mà tất cả mọi vấn đề được giải quyết công bằng và nhất quán.
Có được một chính sách lao động phù hợp đem lại rất nhiều lợi ích. Thiết
lập được các tiêu chuẩn là chìa khoá cho mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ lao động và

người lao động. Nó có thể giảm được những vụ kỷ luật hay kiện cáo. Nó cũng có
thể nâng cao năng suất và đạo đức cũng như giúp giữ được người lao động.
23


Lập một chính sách rõ ràng có thể cũng đem lại hình ảnh tích cực cho
doanh nghiệp trong mắt khách hàng và chính quyền địa phương. Bên cạnh việc
nâng cao uy tín doanh nghiệp, nó cũng có thể giúp doanh nghiệp thu hút thêm
nhiều lao động mới. Ngược lại nếu không phù hợp thì sẽ kìm hãm phát triển kinh
tế xã hội, không phát huy được tiềm năng của người lao động; có thể dẫn đến
những rủi ro xảy ra đối với ĐNCN và nó có thể làm tăng những vụ kỷ luật hay
kiện cáo, làm giảm năng suất lao động cũng như không giữ được người lao động...
* Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công nhân thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Tiêu chí: là các tiêu chuẩn dùng để kiểm định hay để đánh giá một đối tượng,
mà bao gồm các yêu cầu về chất lượng, mức độ, hiệu quả, khả năng, tuân thủ các
quy tắc và quy định, kết quả cuối cùng và tính bền vững của các kết quả đó.
Theo đó, tiêu chí đánh giá chất lượng ĐNCN thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ở tỉnh Hưng Yên thực chất là hệ thống các tiêu chuẩn về phẩm chất, trình
độ, năng lực, sức khỏe… được xác định nhằm để tham chiếu, đánh giá mức độ
phát triển của họ so với yêu cầu của đất nước, của doanh nghiệp đặt ra. Cụ thể:
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ công nhân: Là tiêu
chí đầu tiên rất quan trọng cấu thành chất lượng mỗi người công nhân cũng
như cả đội ngũ; là cơ sở để tham chiếu, đánh giá về chất lượng mỗi người
công nhân và đội ngũ công nhân.
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là
xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp
bức bóc lột, bất công. Sứ mệnh đó đặt ra và đòi hỏi ĐNCN phải có phẩm chất
chính trị tốt, đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống cao đẹp. Chỉ có như vậy

họ mới làm tròn vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, ĐNCN tỉnh Hưng Yên nói
riêng hiện nay cũng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập
trường GCCN, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân,
24


kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; xác định và nắm rõ nhiệm vụ
của mình là lực lượng chính, duy nhất thực hiện sứ mệnh lịch sử. Phấn đấu
thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; có phẩm chất nghề nghiệp, yêu nghề đã lựa chọn, chủ động khắc phục
khó khăn, luôn phấn đấu vươn lên trong học tập, trong lao động sản xuất,
nắm vững khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến; luôn nêu cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản
động của các thế lực thù địch, có ý thức bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Có đạo đức trong sáng: Đạo đức là bộ phận cấu thành đặc biệt trong
nhân cách của con người, giúp định hướng hành vi con người. Cùng với trí
tuệ sâu sắc, đạo đức trong sáng là cơ sở vô cùng quan trọng để con người
vững tin và tự lựa chọn được con đường, đưa ra được những quyết định đúng
đắn trong những hoàn cảnh cụ thể, không bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh,
nhất là những tiêu cực của xã hội. Đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo
đức cách mạng, là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tinh hoa đạo đức văn hóa của nhân loại. Trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, hình thành
nên những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp trong các mối quan hệ gia đình, cộng
đồng và xã hội. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước, gắn kết cộng
đồng, ý chí độc lập tự cường, tinh thần chống giặc ngoại xâm; đoàn kết thủy
chung, nhân ái; quý trọng nghĩa tình, yêu lao động… Đạo đức cách mạng là
cái gốc của cán bộ cách mạng, bởi vì muốn làm cách mạng trước hết con

người phải có lương tâm trong sáng, có đức tính cao đẹp. Tâm và đức ấy phải
được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội, với dân, với nước, với đồng chí,
đồng nghiệp, đồng bào và với công việc. Chính vì vậy ĐNCN phải có đạo đức
trong sáng; Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó
25


×