Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc qua Vợ chồng A Phủ Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.94 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

---

QUÁCH ĐÌNH LỢI

TÍCH HỢP GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC CHO HỌC SINH LỚP 12, ĐỊA BÀN MIỀN
NÚI QUA DẠY HỌC VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính
trọng tới Ban giám hiệu, cùng các thầy, cô và cán bộ các phòng- ban Trường
Đại học Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn của mình.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới PGS.TS Trần Khánh Thành đã định hướng, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận luân văn.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu và đội
ngũ giáo viên Trường THPT Ba Vì, Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đã tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tác giả cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tận
tình giúp đỡ động viên tác giả hoàn thành khóa học và luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn không tránh khỏi thiếu xót,


tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô, các bạn đồng
nghiệp và những người quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Quách Đình Lợi


MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3
2.1. Vấn đề tích hợp ............................................................................... 3
2.2. Về tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài .................................... 3
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ....................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................... 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 6
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................. 6
CHƯƠNG I ................................................................................................... 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................................... 7
1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc .................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về văn hóa .................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm bản sắc ....................................................................... 9
1.1.3 Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc ....................................... 10
1.1.4. Tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam ..................... 12
1.1.5. Bản sắc văn hóa các tộc người Việt Nam .................................. 16
1.2. Vấn đề giảng dạy theo hướng tích hợp ........................................... 20
1.2.1. Các khái niệm về tích hợp ......................................................... 20

1.2.2. Mục đích của dạy tích hợp......................................................... 22
1.2.3. Khuynh hướng chung của việc dạy học tích hợp trên thế giới . 22


1.2.4. Khuynh hướng dạy học tích hợp ở nước ta ............................... 24
1.2.5. Tích hợp giáo dục giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
phổ thông qua dạy học tác phẩm văn học ở bậc THPT ...................... 26
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn chương ở
trường THPT .......................................................................................... 26
1.3.1. Tác phẩm văn học là một bộ phận của văn hóa ........................ 26
1.3.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc miền núi được phản ánh qua
nhiều tác phẩm văn chương ................................................................ 27
1.3.3. Việc chuyển tải nội dung bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
qua dạy học tác phẩm văn chương là một điều hết sức cần thiết ....... 30
CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 33
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ
GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC QUA DẠY HỌC TÁC PHẨM
VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT NÓI CHUNG VÀ DẠY
HỌC TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI NÓI RIÊNG... 33
2.1 Thực trạng tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc qua dạy học tác phẩm văn học trong trường THPT nói chung và
tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói riêng ...................................................... 33
2.1.1. Các học liệu có thể tích hợp ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa
trong chương trình ngữ văn THPT ..................................................... 33
2.1.2. Thực trạng việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc cho học sinh THPT qua dạy học môn Ngữ văn và dạy học
Vợ chồng A Phủ nói riêng ................................................................... 34



2.2. Những giải pháp tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc cho học sinh lớp 12 địa bàn miền núi qua dạy học tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài ....................................................................... 36
2.2.1. Những nguyên tắc đề xuất biện pháp ........................................ 36
2.2.1.1. Nắm vững đặc điểm của tác phẩm tự sự giàu chất văn hóa .. 36
2.2.1.2. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là tác phẩm đặc
trưng cho thể loại tự sự..................................................................... 38
2.2.1.3. Tôn trọng một cách tinh tế thi pháp truyện của Tô Hoài về đề
tài dân tộc ít người ở vùng cao Tây Bắc ........................................... 43
2.2.1.4. Đảm bảo nguyên tắc về lượng .............................................. 46
2.2.1.5. Đảm bảo tính giáo dục và phù hợp với đặc thù vùng miền ... 47
2.2.1.6. Phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh trong việc tích
hợp ý thức bản sắc văn hóa dân tộc qua dạy tác phẩm văn học ........ 49
2.2.2. Những biện pháp cụ thể ............................................................ 50
2.2.2.1. Xây dựng mục tiêu bài học ................................................... 50
2.2.2.2. Giải mã cụ thể những thông tin văn hóa có trong tác phẩm . 52
2.2.2.3. Tạo tình huống cho học sinh tự nhận thức, tự bộc lộ những
cảm nhận suy nghĩ, nhận định chủ quan về nhân vật, tình huống, nội
dung tác phẩm .................................................................................. 60
2.2.2.4. Lựa chọn, chắt lọc bản sắc văn hóa đặc sắc, độc đáo để giáo
dục cho học sinh ............................................................................... 63
2.2.2.5. Sử dụng đa dạng hóa các hình thức dạy học như câu hỏi gợi
mở, câu hỏi thảo luận nhóm hướng tới mục đích giáo dục ý thức giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh dưới sự định hướng, bổ
sung, hoàn chỉnh của giáo viên ......................................................... 67
2.2.2.6. Phát huy vai trò tích cực của CNTT ..................................... 70


CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 72
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM VÀ THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM ................. 72

3.1. Mục đích thực nghiệm ..................................................................... 72
3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm ................................................. 72
3.3. Đối tượng và thời gian thực nghiệm ............................................... 72
3.3.1. Đối tượng thực nghiệm .............................................................. 72
3.3.2. Thời gian thực nghiệm .............................................................. 73
3.4. Nội dung thực nghiệm ..................................................................... 73
3.5. Tiến trình thực nghiệm.................................................................... 99
3.6. Kết quả thực nghiệm ....................................................................... 99
3.6.1. Đánh giá của giáo viên quan sát giờ dạy ................................. 100
3.6.2. Kết quả kiểm tra nhanh cuối giờ học ...................................... 101
3.6.3. Ý kiến phản hồi của học sinh .................................................. 103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 108


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đã chi phối và tác động mạnh
mẽ đến các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam về cả hai mặt thuận lợi
và thách thức. Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
đất nước ta đã thu được những thành tựu hết sức to lớn về mọi mặt như: kinh
tế, chính trị và quan hệ quốc tế. Song, để đứng vững và tiếp tục đẩy mạnh hơn
nữa những thành công đó trước sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường và xu hướng toàn cầu hóa đòi hỏi con người Việt Nam phải giữ vững
và phát huy được những tinh hoa văn hóa của dân tộc, trong đó việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những vấn đề hết sức cần thiết.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa XIII), nhận thức
vai trò quan trọng của nền văn hóa trong sự phát triển của đất nước, nối tiếp
truyền thống coi trọng văn hóa của dân tộc, Đảng ta đề ra nghị quyết riêng về
văn hóa, trong đó đã chỉ rõ “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa

nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc,
ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc …”. Đến Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục khẳng định “phải kế thừa, bổ sung và phát
triển quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đã được nêu
trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đồng thời nhấn mạnh văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn nội lực quan
trọng cho phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [59].
1.2. Thực trạng hiện nay, trước ảnh hưởng của thời kì hội nhập và
xu thế toàn cầu hóa một bộ phận người Việt Nam nhất là thế hệ trẻ đã dần
mai một đi những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Do vậy, việc
tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là
1


một vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết đối với sự nghiệp đổi mới và
phát triển của nước ta.
Việc giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có thể thông qua
nhiều cách, nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau, trong đó thông qua việc
dạy học các tác phẩm văn chương trong nhà trường là một trong những cách
giáo dục hữu dụng. Bởi “văn học là một bộ phận không thể tách rời văn
hóa”[ 41]. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Một
tác phẩm văn học hay được đề cao và lưu truyền lại cho thế hệ sau phải là một
tác phẩm trong đó tác giả không những thành công về nội dung mà đòi hỏi cả
ở mặt nghệ thuật vận dụng của các giá trị văn hóa như thế nào. Do vậy, khi
dạy học, nếu giáo viên biệt vận dụng linh hoạt thì có tác dụng rất lớn trong
việc giáo dục cho các em học sinh ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
1.3. Trong chương trình Ngữ văn lớp 12 THPT Vợ chồng A phủ

(1952) in trong tập truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm
hay, đặc sắc, tiêu biểu của nhà văn về đề tài miền núi và cũng là tác phẩm
đặc sắc của văn xuôi Việt Nam giai đoạn (1945- 1975). Thông qua dạy học
tác phẩm này, giáo viên Ngữ văn, đặc biệt là giáo viên giảng dạy ở địa bàn
miền núi có thể kết hợp, tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Bởi đây là tác phẩm văn học mang đậm bản sắc văn hóa H’môngmột dân tộc ít người sống chủ yếu ở vùng Tây Bắc nước ta. Nét văn hóa
của người H’mông cũng là một nét văn hóa đặc sắc, tiêu biểu của các dân
tộc ít người sống trên đất nước Việt Nam.
1.4. Trường THPT Ba Vì, nơi tôi đang giảng dạy thuộc địa bàn miền
núi của Hà Nội. Là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc như:
Kinh, Mường, Dao. Đặc điểm của học sinh miền núi chất phác, giản dị thật
thà tuy nhiên còn tự ti và nhận thức, tiếp thu kiến thức còn chậm hơn so với
học sinh các địa bàn khác. Cùng chung xu thế của thời đại, của đất nước, ý
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của học sinh ở đây cũng đang có xu
hướng bị phai nhạt theo thời gian và năm tháng.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Tích hợp giáo dục ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh lớp 12, địa bàn miền núi qua
dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài” làm đề tài luận văn cao học.
2


2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề tích hợp
2.1.1. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về dạy
học theo hướng tích hợp đã được công bố. Nổi bật nhất là cuốn sách “Khoa
sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường”
[56]. Cuốn sách đã mang lại giá trị lý luận cao, giúp chúng ta hiểu được nội
dung và bản chất tích hợp và cho thấy những ảnh hưởng của khoa học sư
phạm Tích hợp đối với chương trình SGK cũng như kiến thức mà học sinh
lĩnh hội được.

2.1.2. Trong việc dạy học Ngữ văn, quan điểm tích hợp cũng đã được
ứng dụng và nghiên cứu: Phương pháp dạy học Ngữ văn ở THCS theo hướng
tích hợp và tích cực [29]. Ngoài ra còn một số bài báo bàn về quan điểm tích
hợp trong môn Ngữ văn và dạy học Ngữ văn: Tích hợp và liên nội hướng tới
kết nối trong dạy học Ngữ văn [11], Tích hợp trong dạy học Ngữ văn [14],
dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp [5].
2.1.3. Bên cạnh đó, một số luận văn, luận án cũng đã quan tâm lựa
chọn và vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn như: Luận án Hệ
thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực Ngữ văn THCS theo yêu cầu tích
hợp của Nguyễn Thị Hồng Vân. Dạy học ca dao trong ngữ văn 10 theo hướng
tích cực và tích hợp [6]. Tích hợp kỹ năng sống, tích hợp giáo dục môi
trường, tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh…
2.2. Về tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài
Vợ chồng A phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc (1953) cùng với Cứu
đất cứu mường, Mường Giơn và là các tác phẩm xuất sắc nhất, tác phẩm
đã được tặng giải nhất giải thưởng văn học của Hội văn nghệ Việt Nam
năm (1954 - 1955).

3


Đây là một tác phẩm được trích giảng trong chương trình lớp 12 phổ
thông. Vợ chồng A phủ nhận được rất nhiều ý kiến của các nhà phê bình,
nghiên cứu, các nhà giáo và đông đảo bạn đọc là đối tượng học sinh, sinh
viên. Tác phẩm được sự đánh giá chung là một tác phẩm hay và xuất sắc của
Tô Hoài khi viết về đồng bào dân tộc ở miền núi Tây Bắc.
Đỗ Kim Hồi trong cuốn Giảng văn học Việt Nam, đã đánh giá rất cao về
tác phẩm này: “Sức chinh phục của Vợ chồng A phủ phải chăng là ở chỗ nhà văn
đã đứng về phía khát vọng được sống, được yêu để tố cáo xã hội đã giam hãm,
trói buộc tuổi xuân và sinh lực, ở chỗ nhà văn tin tưởng vào sức sống bất diệt

của con người để cảm thông với nguyện vọng đau đáu, thiết tha muốn được
vươn lên sống làm người, muốn phản kháng lại thực tại đen tối để tìm đến tình
yêu, tự do và hạnh phúc và sự chinh phục của thiên truyện còn ở cái nhìn thật
biện chứng của tác giả vào thế giới nội tâm của nhân vật” [20, tr 273].
Tác giả Nguyễn Phan Long khi viết về Vợ chồng A phủ đã nhấn mạnh ý
nghĩa giáo dục tư tưởng của tác phẩm: “Vợ chồng A phủ đã miêu tả một cách
cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành con đường đi đến cách mạng
của nhân dân lao động miền núi, của các dân tộc đã trải qua mấy mươi năm.
Con đường đó càng làm sáng tỏ chân lí của thời đại: chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ” [32, tr 198].
Mai Hạnh Ngân, trường THPT chuyên Lê Quý Đôn- Điện Biên cũng
có bài viết: Nhãn quan phong tục trong Vợ chồng A phủ của Tô Hoài, tác giả
đã đi sâu vào tìm hiểu các phong tục của người H’mông trong tác phẩm như:
Tục cho vay nặng lãi, tục cưới vợ trình ma, tục xử kiện phạt vạ, trình ma
người vay nợ, những ngày tết vùng cao, đêm tình mùa xuân. Bài viết thể hiện
sự hiểu biết tường tận về các phong tục của người H’mông ở vùng cao Tây
Bắc và đánh giá được khả năng khám phá, tìm hiểu sâu sắc của Tô Hoài về

4


những phong tục tập quán mà chỉ có người dân tộc thiểu số ở vùng cao tiêu
biểu là dân tộc H’mông mới có.
Một vài tác giả khác cũng rất tâm đắc với tác phẩm Vợ chồng A phủ của
Tô Hoài và đã nghiên cứu, tìm hiểu một phương pháp tiếp cận mới qua dạy
học tác phẩm này đó là “Dạy học tác phẩm Vợ chồng A phủ cho học sinh
vùng cao theo hướng đối thoại văn hóa”.
Bên cạnh đó, hàng loạt các tác giả nổi tiếng khác đã thiết kế dạy học tác
phẩm Vợ chồng A phủ như: Phan Trọng Luận -Tổng chủ biên, cùng nhóm tác

giả khác với cuốn SGK Ngữ văn (tập 2), Nxb Giáo dục 2008; thiết kế bài
giảng Ngữ văn 12 tập 2, Nxb Hà Nội do Nguyễn Văn Đường chủ biên năm
2008; Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 nâng cao tập 2, Nxb Hà Nội do Nguyễn
Văn Đường chủ biên; Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 – Nxb Giáo dục năm
2008; do tác giả Lưu Đức Hạnh chủ biên vv … Hướng thiết kế của các tác giả
đó bám rất sát chuẩn kiến thức của Bộ giáo dục đề ra. Chủ yếu hướng học
sinh đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh của giá trị tác phẩm Vợ chồng A phủ.
Đây là những tài liệu rất đáng tin cậy để giáo viên và học sinh tham khảo
trong quá trình dạy học tác phẩm này.
Rõ ràng, tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài được rất nhiều người
quan tâm và đánh giá cao. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập cụ thể tới việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc cho học sinh lớp 12 THPT ở địa bàn miền núi qua dạy học tác
phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài. Chính vì vậy chúng tôi mạnh dạn đi
vào nghiên cứu vấn đề này.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
3.1.1. Nhiệm vụ
Tìm hiểu khái niệm về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc; Bản sắc văn
hóa của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
5


Lý thuyết về dạy học theo hướng tích hợp.
Tìm hiểu thực trạng về dạy hoc tích hợp và vận dụng tích hợp giáo dục
ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài ở
một số trường trên địa bàn miền núi khu vực Hà Nội.
Đề xuất một số biện pháp tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc cho học sinh.
3.1.2 Mục đích
Đưa ra phương hướng tiếp cận tác phẩm Vợ chồng A Phủ dựa trên

những tín hiệu văn hóa và trên cơ sở đó lồng ghép giáo dục ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc cho học sinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng lựa chọn nghiên cứu là tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A phủ của
Tô Hoài. Từ đó đề xuất quy trình dạy học tích hợp ý thức giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc qua dạy học tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
Phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng dự kiến tiến hành tại hai trường
trên địa bàn Hà Nội là: Trường THPT Ba Vì và Trường Phổ thông Dân tộc
Nội trú Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu.
Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Cấu trúc luận văn
6


Dự kiến, ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng và biện pháp tổ chức dạy học tích hợp giáo dục ý
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
Chương 3: Giáo áo thể nghiệm và thực nghiệm sư phạm.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự tiến hóa nhân
loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và
khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để
hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó
có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở phương Đông cũng
như ở phương Tây. Ở phương Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ tiếng La tinh:
Cuture, có nghĩa là vun trồng, chăm bón, cải thiện tạo ra những sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu của con người. Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, văn
7


hóa được hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng văn
hóa và giáo hóa, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con người.
Văn là là cái tốt, cái đẹp; hóa là cảm hóa, giáo dục. Nghĩa là giáo dục con
người bằng cái tốt, cái đẹp và hiện thực hóa cái tốt đẹp đó trong cuộc sống. Ở
nước ta gần 600 năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã mơ ước một xã hội văn trị,
lấy nền tảng văn hiến cao, lấy trình độ học vấn và trình độ tu thân của mỗi
người làm cơ sở cho sự phát triển hài hòa của xã hội.
Khái niệm văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú. Tùy cách tiếp
cận khác nhau, cách hiểu khác nhau, đến nay đã có mấy trăm định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Theo định nghĩa của cựu Tổng giám đốc UNESCO Federico
Mayor "Văn hóa phản ảnh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá
khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu
thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa
trên đó từng dân tộc tự khảng định riêng bản sắc của dân tộc mình".
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội,

có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là
yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát
triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính
cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc nói ông đã tìm được trên 300
định nghĩa về văn hóa và những định nghĩa này đều theo tinh thần luận. Ông
nhận xét: " …không có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất cứ vật gì
cũng có cái mặt văn hóa". Theo thao tác luận, ông định nghĩa: "Văn hoá là
một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực
tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người,
một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các
kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác
8


nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp thu hay sáng tạo
đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở
một tộc người khác" [43, tr 104]. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [42, tr 431].
Còn Trần Ngọc Thêm lại định nghĩa : "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình" [50 tr 20].
Việc xác định khái niệm văn hóa không đơn giản, bởi vì mỗi một nhà
nghiên cứu đều xuất phát từ những quan điểm riêng, cứ liệu riêng, mục đích
riêng phù hợp với vấn đề mình cần nghiên cứu để đưa ra các định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Tuy khác nhau, nhưng các định nghĩa đó đều thống nhất ở

một điểm: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra”. Mọi thứ văn hóa đều là văn hóa thuộc về con người, các
thứ tự nhiên không thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa là đặc trưng căn bản,
phân biệt con người với động vật, cũng là tiêu chí căn bản để phân biệt sản
phẩm nhân tạo và sản phẩm tự nhiên.
Như vậy với những định nghĩa giá trị về văn hóa nói trên, chúng ta có thể
sử dụng để nghiên cứu lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử của một dân tộc, một
cồng đồng người.
1.1.2. Khái niệm bản sắc
"Bản sắc" là một khái niệm phức tạp, liên quan đến cả cái chung và cái
riêng, bao gồm cả yếu tố nội dung và yếu tố hình thức. Theo Từ điển tiếng
Việt [45], thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành
9


phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù
riêng của sự vật đó. Thực tế, khi nói "bản sắc" thường là nói tới cái riêng, cái
rất riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới
khách quan. Cách định nghĩa này có phần nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù,
cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất sự vật.
"Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận
khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là
cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu
hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Cách tiếp cận này được
nhận thức trên hai bình diện: mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện bên
ngoài và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mặt
bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp đối tượng sự vật nhất
định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự
vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác.
Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc.

Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói
đến dân tộc, bản sắc dân tộc.
1.1.3 Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
Dân tộc nào cũng có nền văn hóa truyền thống. Đó là tổng hợp những
hiện tượng văn hóa-xã hội bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu
văn hóa, các tư tưởng xã hội, các phong tục tập quán, các lễ nghi, thiết chế xã
hội… được bảo tồn qua năm tháng, trở thành thói quen trong các hoạt động
sống của con người và nó được in dấu mọi mặt của đời sống xã hội thuộc
một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt, chúng ta gọi là đó “bản
sắc dân tộc của văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”.
Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất
của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được
10


biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị
đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu
hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu
dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái niệm vô định, vì
nói tới văn hóa là nói tới con người và nói tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra,
duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân
tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện một cách trọn vẹn.
Ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề bản sắc văn
hóa như tính chất dân tộc, hình thức dân tộc, đặc điểm, cốt cách, bản
lĩnh, sắc thái dân tộc... Hoàng Trinh trong tài liệu Văn hoá dân tộc trong
quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay [ 53] cho rằng: "Bản sắc văn hoá
dân tộc và tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, sắc thái biểu
hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển giúp cho dân tộc đã
giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản
thân mình trong quá trình phát triển”.

Nói tới bản sắc văn hóa của dân tộc tức là nói những “giá trị gốc, căn
bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân” của dân tộc. Giá trị hạt nhân không
phải là tất cả mọi giá trị, mà chỉ là những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất
nhất, mang tính dân tộc sâu sắc nhất biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền
văn hóa, trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu
khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của con
người. Bản sắc văn hóa dân tộc là những biểu hiện giá trị của dân tộc, là
cái hồn của dân tộc được biểu hiện trong văn hóa, chi phối dẫn đạo văn
hóa. Đó là những yếu tố độc đáo, đặc sắc của một nền văn hóa, biểu hiện
“đặc tính”, “cốt cách” của dân tộc. Bản sắc này tạo lên sức mạnh duy trì và
phát triển cộng đồng với tư cách là một dân tộc.

11


Bản sắc văn hoá dân tộc là những yếu tố độc đáo, đặc sắc của một nền
văn hóa, biểu hiện “đặc tính dân tộc”, “cốt cách dân tộc”, tạo nên sức mạnh
cố kết, duy trì và phát triển đời sống của dân tộc, là bộ “gen” bảo tồn của dân
tộc, là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, truyền thống, bản
lĩnh, phẩm chất, tâm hồn, lối sống, cách cảm, cách nghĩ, khát vọng và biểu
tượng riêng của mỗi quốc gia, dân tộc;
Từ việc nghiên cứu hệ thống hoá các quan niệm của các tác giả đi
trước, có thể quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc như sau: “Bản sắc văn
hóa dân tộc là những giá trị vật chất tinh thần cô đọng nhất, bền vững
nhất, tinh túy nhất, là sắc thái gốc, riêng biệt của mỗi dân tộc, làm cho
dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác”. Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ
thống giá trị bền vững mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá trị
tinh hoa của dân tộc được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ sung, hoàn thiện những giá trị
mới, đồng thời là gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời, để những giá trị bền

vững luôn sống động với thực tiễn xã hội.

1.1.4. Tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân
tộc. Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông
qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi: “Bản sắc chính là văn hóa, song không
phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ
coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này
với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [51, tr.13].
Từ nhận định trên có thể thấy yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất
của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội
sinh, là cái “thẻ căn cước” của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân
tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình
12


trong quá trình giao lưu và hội nhập. Bản sắc văn hóa dân tộc là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, quốc gia này
với quốc gia khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong truyền
thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền
lại, được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình,
tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa.
Nói đến tính độc đáo, đặc sắc của văn hóa Việt Nam là nói đến những
tinh hoa, những giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài
lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những
giá trị ấy, những tinh hoa ấy đã tạo nên những nét đặc sắc, riêng có ở cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, trong con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc, c h í n h là bản sắc riêng của dân
tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân

tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét
hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự
tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.
Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên
trong và biểu hiện bên ngoài. Giá trị bên trong như năng lực sáng tạo,
tư duy, chiều sâu tâm hồn, truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh
quan; giá trị bên ngoài như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ
thuật kiến trúc đình, chùa, nét đặc trưng của các làn điệu dân ca, ngôn từ,
các tác phẩm văn học nghệ thuật…Các giá trị này luôn có mối quan hệ
khăng khít củng cố thúc đẩy nhau phát triển.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc dân tộc có thể do nhiều yếu tố như:
hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức
hoạt động kinh tế. Nhưng bản sắc văn hoá dân tộc, không thể xuất phát từ
nhừ yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân
13


tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là
hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế
hệ các dân tộc Việt Nam. Đ á nh giá về vấ n đề trê n, Nghị quyết hội
nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc
bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ưý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng
xã- Tổ quốc… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [60, tr.56].
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng

nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong lối sống”. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và
liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu
của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc
đó không phải là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá
trị mới được hình thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa
các nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và
phát triển phụ thuộc vào đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử tự nhiên,
môi trường cư trú, thể chế chính trị cũng như sự giao lưu với nền văn
hóa khác. Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc đã sáng tạo ra, đã vun
14


trồng nền văn hóa đó, bản sắc dân tộc của văn hóa cũng chính là bản sắc
văn hóa của dân tộc ấy.
Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét,
màu sắc, kiểu lựa chọn… giúp cho mỗi dân tộc giữ vững được tính duy
nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của dân tộc mình trong quá trình phát
triển. Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, sức mạnh nội tại của dân tộc.
Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ
đời này qua đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc dù biểu hiện
có thay đổi nhưng giá trị bản sắc văn hoá vẫn duy trì: “Một dân tộc qua các
biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị
người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của
mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được

bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa
khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập” [8, tr. 48].
Bản sắc văn hóa có tính dân tộc vì nó được tạo ra, được lưu truyền
trong công đồng dân tộc với một sắc thái thiên nhiên, điều kiện xã hội,
lịch sử riêng; qua quá trình phát triển lâu dài, những đặc điểm dân tộc in
dấu ấn vào các sáng tạo văn hóa. Trải qua nhiều thử nghiệm, thách thức
của thời gian dần dần lắng đọng, định hình tạo thành bản sắc dân tộc
của văn hóa. Nó tạo nên cốt cách, bản lĩnh, sức sống nội sinh củ dân tộc,
trên cơ sở đó nảy sinh và hoàn thiện ý thức dân tộc, tạo nên lực hút, quy
tu, gắn kết với các thành viên cộng đồng, tạo ra thế đứng vững chắc
trong quá trình phát triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua hàng trăm
thế kỷ nối tiếp nhau trong lịch sử, như dòng phù xa dã hóa thân vào màu
xanh của đồng lúa, như tính chất của đất trở thành sức sống của cây, cỏ,
hoa, trái. Tất cả các Quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản
văn hóa của dân tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc
15


văn hóa dân tộc thì tính da dạng của văn hóa thế giới sẽ bị nghèo đi do sự
lai căng của các nền văn hóa vì thế bản sắc văn hóa dân tộc phải đứng
vững trên đôi chân của mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại, làm cho các
yếu tố hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống.
Tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam chính là năng lực
chế ngự thiên nhiên, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong chống giặc
ngoại xâm; sự hình thành một hệ giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc với tinh
thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức cố kết
cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái, sự
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, lấy nhân nghĩa làm gốc; trách nhiệm
của cá nhân đối với cộng đồng nhà- làng- nước; trọng dân, đề cao dân, lấy

dân làm gốc; hòa hợp đề hòa đồng, cần cù, khiêm tốn, giản dị trong lối
sống,… Tất cả tạo thành nhân cách của con người và được nhân dân làm
thành nhân cách, cốt cách của dân tộc Việt Nam.
1.1.5. Bản sắc văn hóa các tộc người Việt Nam
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là
một quốc gia đa dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số (85,7%) còn
lại 53 dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 14,3%. 54 dân tộc là 54 sắc màu văn
hoá tạo nên nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi
dân tộc được phân bố ở các vùng miền của Tổ quốc và có giá trị truyền
thống, sắc thái văn hoá riêng. Nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, ý thức về việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa,
tôn vinh những nét văn hóa đặc sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trong
54 dân tộc anh em, Nhà nước đã quyết định lấy ngày 19-4 hằng năm làm
"Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam". Từ đó, làm cho các dân tộc trong
đại gia đình Việt Nam, vốn gần gũi, càng gần gũi, sát cánh bên nhau thành
một khối đại đoàn kết không gì lay chuyển nổi để chung lòng, chung sức
bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu, đẹp. Giữ gìn và phát huy bản
16


sắc dân tộc của tất cả các dân tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo nên sự phong phú đa dạng trong
tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng
như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ
của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán
riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa
dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét
chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa
đều có những giá trị riêng của nó. Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc

như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng
đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của
mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân
tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là
yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa.
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới tính độc đáo của dân tộc. Người yêu cầu:
“Mỗi dân tộc cần chăm lo đến đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”, Bác
cũng đã từng nói: “Gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cũng đã khẳng định: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, một dân tộc
đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc cũng sẽ mất tất
cả”. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính
mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản
sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn
hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn
lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh
sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa.
17


Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp
nối, khai thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên
tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống
mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh
hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa
không phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động
mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu
tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi
của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị do

dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được
tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội
sinh của dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc cũng chính là một tiêu chí quan
trọng quyết định đến sự tồn vong của dân tộc này hay dân tộc khác.
Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng
với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập
vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh
đến văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai
mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các
dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục
thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính
sách, biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học
sinh các dân tộc thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt
trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; Di sản văn hoá các
dân tộc thiểu số Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết
tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.

18


“Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được
nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng Then
của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng nghìn
làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân
tộc (kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền
thống, các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến
mất theo xu hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái của cơ
chế thị trường rất cần phải nhanh chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn,

phát huy trong cuộc sống đương đại” [54].
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trước những đòi hỏi của
thực tế, yêu cầu của xu hướng phát triển, trên cơ sở kế thừa, tích luỹ những
bài học về bảo tồn, phát triển văn hoá dân tộc thiểu số giai đoạn trước, ngày
27 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1270/ QĐTTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020”. Đề án có đối tượng là “các dân tộc thiểu số Việt Nam,
tập trung ưu tiên cho phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người, các
dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hoá của dân tộc
mình. Với địa bàn: Miền núi, dân tộc thiểu số. Ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; những vùng phải di dời để phát
triển kinh tế; vùng có nguy cơ cao bị mai một bản sắc văn hóa; vùng dân tộc
trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ)”.
Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hóa cấp
quốc gia như: “Lễ hội Lồng Tồng” của dân tộc Tày, “Lễ Cấp sắc” của dân tộc
Dao… cùng nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận di sản cấp tỉnh.
Ngày 19.4 hàng năm là ngày truyền thống văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Quốc tế cũng đã công nhận “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên”,
“Thánh địa Mỹ Sơn”… là di sản văn hóa thế giới. Năm 2011, Việt Nam đã tổ

19


×