Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận cao học Môn kinh tế báo chí sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc biệt” và những đặc tính của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.1 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trước đây, khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
bao cấp thì sản phẩm báo chí không được coi là sản phẩm hàng hóa
mà chỉ được coi là sản phẩm tuyên truyền đơn thuần. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc báo chí không có chức năng kinh tế - dịch vụ,
không được quảng cáo, PR,... Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu
hóa như ngày nay, quan niệm sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng
hóa đã được hình thành và chấp nhận. Sản phẩm báo chí cũng có giá
trị và giá trị sử dụng, có giá thành và giá bán, chịu sự chi phối của
quy luật cung - cầu, quy luật giá trị,... Nhưng cũng cần nhìn nhận
một cách chắc chắn rằng sản phẩm báo chí là một loại sản phẩm
hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt trước hết thể hiện ở chỗ sản phẩm
báo chí là kết tinh giá trị vô hình về thời gian, công sức, trí tuệ,
không thể cân, đo, đong, đếm như một hàng hóa bình thường được.
Tính đặc biệt còn thể hiện ở chỗ trong điều kiện nước ta, báo chí
không chỉ là hàng hóa mà còn là phương tiện, là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước và nhân dân trong việc thực hiện chức năng thông tin, văn
hóa, tư tưởng, tình cảm,.. cho xã hội.
Trong khuôn khổ một tiểu luận của môn học, tôi xin trình bày
rất ngắn gọn những quan điểm, cách nhìn nhằm luận giải cho luận
điểm “Sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc biệt” và
những đặc tính của nó.

1


NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG:
1.1.Tác phẩm báo chí và sản phẩm báo chí:
Theo Điều 9 Nghị định 100/200/NĐ-CP, Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học, được thể hiện bằng bất kỳ


phương tiện hay hình thức nào. Tác phẩm còn được thể hiện bằng các ký hiệu
thay cho chữ viết như chữ nổi, ký hiệu tốc ký, ký hiệu tương tự khác mà có
thể sao chép bằng nhiều hình thức khác nhau. Theo đó, tại Điều 11 Nghị định
100/2006/NĐ-CP, Tác phẩm báo chí bao gồm: phóng sự, ghi nhanh, tường
thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, chuyên luận, ký báo chí và
các thể loại khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình báo, điện tử
hoặc các phương tiện khác.
Căn cứ vào các điều khoản trên cùng với các lý thuyết về báo chí –
truyền thông, Tác phẩm báo chí là thuật ngữ dùng để chỉ sản phẩm tư duy
của nhà báo, lấy hiện thực khách quan làm đối tượng nghiên cứu và phản ánh,
có hình thức tương ứng với nội dung thông tin, thường gắn với các thể loại
báo chí, được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, là bộ
phận cấu thành sản phẩm báo chí, nó có giá trị tạo lập dư luận xã hội, làm
thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của người tiếp nhận thông tin. Tác
phẩm báo chí được pháp luật bảo hộ quyền tác giả và được trả nhuận bút.
Như chúng ta đã biết, hoạt động báo chí là một hoạt động truyền thông
đại chúng. Sản phẩm, tác phẩm báo chí được tạo ra là để chuyển tải tới công
chúng những thông tin thời sự về các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện tượng, con
người xảy ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội. Đích hướng đến của
một tác phẩm báo chí là đem lại giá trị thông tin cho công chúng xã hội, do
đó, đảm bảo tính thông tin là chức năng quan trọng đầu tiên của một tác phẩm
báo chí. Để đạt được hiệu quả thông tin, một tác phẩm báo chí phải đạt các
tiêu chí như: mới, thời sự, cập nhật; chân thực, khách quan; có ý nghĩa xã hội,
mang lại giá trị giáo dục và nhân văn… Ngoài ra, tác phẩm báo chí còn phải
2


đảm nhiệm các chức năng xã hội khác như: định hướng dư luận xã hội; giám
sát, quản lý và phản biện xã hội; giáo dục và giải trí.
Các nhà báo chuyên nghiệp đều phải tuân thủ các bước tiến hành cơ bản

trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo chí là: Nghiên cứu, thâm nhập thực
tiễn, phát hiện đề tài; Thu thập thông tin, dữ liệu; Thể hiện tác phẩm; Tự biên
tập tác phẩm; Tổ chức tác phẩm trên sản phẩm báo chí, phát tán thông tin;
Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi. Khi sáng tạo tác phẩm báo chí,
những yêu cầu về năng lực chuyên môn của nhà báo luôn phải gắn với những
chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp. Điều này được thể hiện trong từng bước
tiến hành sáng tạo một tác phẩm báo chí. Có như vậy, tác phẩm báo chí mới
đem lại những giá trị đích thực cho công chúng xã hội.
Nói đến tác phẩm báo chí, ta cũng cần xem xét nó như là một chỉnh thể,
trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức là quan hệ bên trong
cơ bản của nó. Tính chất chỉnh thể của tác phẩm báo chí mang ý nghĩa tương
đối trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí hoàn chỉnh. Một tác phẩm báo
chí dù hay đến đâu, chất lượng thông tin cao như thế nào cũng không có ý
nghĩa nếu nó không được chuyển tải đến công chúng thông qua một sản phẩm
báo chí hoàn chỉnh. Sản phẩm báo chí là một chỉnh thể hoàn chỉnh được hình
thành từ tập hợp các tác phẩm báo chí và từ quá trình lao động báo chí miệt
mài của đội ngũ phóng viên, nhà báo, biên tập viên, đội ngũ quản lý, giám sát,
thiết kế,... , có hình thức tương ứng với nội dung thông tin, được kiểm duyệt
kỹ lưỡng trước khi in ấn và xuất bản. Sản phẩm báo chí của mỗi loại hình báo
chí khác nhau có hình thức thể hiện khác nhau và được công chúng tiếp nhận
bằng những hình thức khác nhau. Sản phẩm báo chí là một loại sản phẩm
hàng hóa đặc biệt.
Tuy nhiên, xét trong một sản phẩm báo chí hoàn chỉnh thì tác phẩm báo
chí lại có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối đó thể hiện ở việc
công chúng tiếp nhận, đánh giá nó như một chỉnh thể riêng biệt và khả năng tác
động của nó đến công chúng, xã hội tùy thuộc vào thông điệp mà nó mang lại.
3


Chính mối quan hệ giữa sản phẩm báo chí và tác phẩm báo chí tạo nên mối

quan hệ và sự gắn kết giữa các cá nhân và tập thể trong hoạt động báo chí.
1.2.Sản phẩm và hàng hóa:
1.2.1. Sản phẩm:
Sản phẩm là mọi thứ có thể chào bán trên thị trường để chú ý, mua, sử
dụng hay tiêu dùng, có thể thỏa mãn được một mong muốn hay nhu cầu. Nó
có thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm, tổ chức và ý tưởng.
Về cơ bản, sản phẩm được phân loại thành ba nhóm: sản phẩm lâu bền
(là những thứ có thể sử dụng nhiều lần), sản phẩm không lâu bền (là những
thứ bị tiêu hao sau một hay nhiều lần sử dụng), sản phẩm dịch vụ (là những
thứ thỏa mãn được nhu cầu của người sử dụng được đưa ra để bán).
Phần lớn các sản phẩm được cấu trúc ở năm mức độ: lợi ích cốt lõi, sản
phẩm chung, sản phẩm mong đợi, sản phẩm hoàn thiện và sản phẩm tiềm ẩn.
Trong đó, lợi ích cốt lõi mà sản phẩm mang lại cho người tiêu dùng chính là
mức độ cơ bản nhất. Hay nói cách khác, đó chính là công dụng chủ yếu mà
sản phẩm mang đến cho người sử dụng dù về mặt tinh thần hay vật chất.
Chẳng hạn, khách hàng mua điện thoại thông minh thực chất là mua sự tiện
lợi, khách hàng mua mỹ phẩm thực chất là mua niềm tin rằng nhờ có các loại
mỹ phẩm mà họ trở nên xinh đẹp hơn, lung linh hơn,... Lúc này, người cung
cấp sản phẩm phải đặt mình vào vị thế của người cung ứng lợi ích và phải
biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm chung.
Tiếp theo, nhà kinh doanh phải chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là
tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi và
chấp thuận khi họ mua sản phẩm đó. Chẳng hạn khi chọn mua xe hơi, người
mua sẽ mong đợi có được một sản phẩm tiện lợi, sang trọng, phục vụ cho
công việc, đi lại mà mưa không đến mặt, nắng không đến đầu,... Vì hầu hết
các loại xe hơi đều đáp ứng được nhu cầu này nên khách hàng lựa chọn đến
mức độ phù hợp với túi tiền của họ để thỏa mãn cả hai mong đợi của bản thân
đó là một chiếc xe có đầy đủ đặc tính cần thiết và vừa với túi tiền của họ.
4



Ở mức độ thứ tư, nhà kinh doanh phải chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện
thêm, tức là một sản phẩm bao gồm cả những dịch vụ và lợi ích phụ thêm làm
cho sản phẩm của doanh nghiệp mình khác với sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh. Ví dụ khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản phẩm của mình so với các
khách sạn thông thường bằng cách trang bị máy thu hình, bổ sung dầu gội đầu
và hoa tươi, dịch vụ đăng ký và trả phòng nhanh chóng,…
Ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và
biến đổi mà sản phẩm đó có thể có được trong tương lai. Trong khi sản phẩm
hoàn thiện thể hiện những gì đã được đưa vào sản phẩm hiện nay, thì sản
phẩm tiềm ẩn chỉ nêu ra hướng phát triển có thể của nó. Vì thế các doanh
nghiệp tích cực tìm kiếm những cách thức mới để thỏa mãn khách hàng và tạo
ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình.
Như vậy, sản phẩm bao gồm nhiều thuộc tính cung ứng sự thỏa mãn nhu
cầu khác nhau của khách hàng. Hay nói cách khác, khi mua một sản phẩm
người mua mong muốn thỏa mãn cho cả một chuỗi nhu cầu, và các nhu cầu
đó có quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau trong quá trình quyết định
mua của khách hàng.
1.2.2. Hàng hóa:
Hàng hóa là một phạm trù cơ bản của kinh tế - chính trị. Theo nghĩa hẹp,
hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong không gian và có thể
trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả những gì có thể
mang ra trao đổi, mua bán được. Hàng hóa có thể hữu hình như quyển sách,
cái cốc, cái bát,... cũng có thể vô hình như dịch vụ, giao thông vận tải,...
Theo học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin, hàng hóa là sản
phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có 2 thuộc tính là: giá trị sử
dụng và giá trị hàng hóa.
Với tư cách là giá trị sử dụng, hàng hóa trước hết “là một vật nhờ có
những thuộc tính của nó mà thỏa mãn được một loại nhu cầu nào đó của con

5


người”, không kể nhu cầu đó được thỏa mãn một cách trực tiếp, nếu vật ấy là
một tư liệu sinh hoạt, hay gián tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sản xuất. C.Mác
từng nói: “Là những giá trị sử dụng, các hàng hóa khác nhau trước hết về
chất”. Giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc mà có thể phát
hiện ra được hết mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của
khoa học – kỹ thuật. Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn và chỉ thể hiện
khi con người sử dụng hay tiêu dùng nó.
Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng nhưng
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa. Do đó, một vật
muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất
ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Nhưng cũng cần nhận thấy hao phí lao động của con người kết tinh
trong sản phẩm không phải lúc nào cũng là giá trị. Trong các xã hội mà người
ta sử dụng sức lao động làm ra sản phẩm để tự tiêu dùng cho bản thân và gia
đình mình thì sự hao phí lao động đó không có hình thái giá trị. Chỉ trong
những xã hội người ta làm ra sản phẩm để trao đổi, thì hao phí lao động đó
mới mang hình thái giá trị. Do đó, giá trị là một phạm trù mang tính lịch sử.
Như vậy, thuộc tính tự nhiên của hàng hóa là giá trị sử dụng, thuộc tính
xã hội của hàng hóa là hao phí lao động kết tinh trong nó và là giá trị. Hai
thuộc tính này của hàng hóa vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Chúng thống
nhất ở chỗ cùng tồn tại trong hàng hóa. Bất cứ một vật nào muốn trở thành
hàng hóa đều phải có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Nếu thiếu một
trong hai thuộc tính đó thì sản phẩm không thể là hàng hóa. Tuy nhiên, chúng
cũng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về mặt giá trị sử dụng thì hàng hóa khác
nhau về chất, còn về mặt giá trị thì hàng hóa lại giống nhau về chấ; thứ hai,
giá trị được sử dụng trong quá trình lưu thông còn giá trị sử dụng được thực

hiện trong quá trình tiêu dùng.

6


Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính trên bởi nó có tính hai mặt, đó là: lao
động cụ thể và lao động trừ tượng. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới
một hình thức cụ thể, có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng,
phương pháp riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng.
Trong khi đó, lao động trừu tượng là sự hao phí trí óc, sức thần kinh và sức cơ
bắp nói chung của con người chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó như
thế nào. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
Và một điều không thể không nhắc đến khi nói về hàng hóa chính là
thước đo giá trị của hàng hóa. Theo C.Mác, thước đo giá trị của hàng hóa
được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội
cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện
bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ
khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội
nhất định.
2. TÍNH CHẤT ĐẶC BIỆT CỦA SẢN PHẨM BÁO CHÍ –
TRUYỀN THÔNG:
2.1.Sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc biệt:
Nhắc đến khái niệm “báo chí là hàng hóa”, ở nước ta hiện đang tồn tại
hai quan niệm hoàn toàn khác nhau. Quan niệm thứ nhất coi báo chí là hàng
hóa thông thường vì trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì mọi thứ đều
trở thành hàng hóa, chịu sự tác động và chi phối của nhiều quy luật kinh tế
như cung cầu, cạnh tranh, giá trị,... Trong khi đó, quan niệm thứ hai cũng coi
sản phẩm báo chí là hàng hóa nhưng là hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt trước
hết thể hiện ở chỗ sản phẩm báo chí là kết tinh giá trị vô hình về thời gian,
công sức, trí tuệ, không thể cân, đo, đong, đếm như một hàng hóa bình thường

được. Tính đặc biệt còn thể hiện ở chỗ trong điều kiện nước ta, báo chí không
chỉ là hàng hóa mà còn là phương tiện, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và
nhân dân trong việc thực hiện chức năng thông tin, văn hóa, tư tưởng, tình
cảm,.. cho xã hội. Điều đó đồng nghĩa với việc phải hài hòa giữa chính trị, tư
7


tưởng và kinh tế trong hoạt động báo chí. Hai quan niệm này cùng song song
tồn tại. Tuy nhiên, trong điều kiện như hiện nay thì đại đa số các ý kiến đều
tán thành với quan niệm thứ hai.
Khi xem xét sản phẩm báo chí như là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, ta
cần xem xét những khía cạnh như sau:
Thứ nhất, mỗi tác phẩm báo chí và sản phẩm báo chí là sản phẩm của lao
động, là sản phẩm tinh thần của nhà báo, dựa trên khả năng quan sát, phát
hiện, tư duy, tìm tòi và năng lực thể hiện của mỗi nhà báo, phóng viên. Nhà
báo là nhân tố chính sáng tạo ra tác phẩm báo chí và sản phẩm báo chí.
Nhưng để sản phẩm báo chí ấy đến được với công chúng xã hội thì cần phải
trải qua một quá trình lao động của nhiều công đoạn khác nhau như: lao động
quản lý, lao động kỹ thuật – công nghệ, lao động mỹ thuật – trình bày, lao
động chế bản – in ấn, lao động nghiên cứu dư luận xã hội và công chúng, phát
hành, quảng cáo,... Quá trình trên cũng đồng nghĩa với thời gian hao phí lao
động để tạo ra một sản phẩm báo chí hoàn chỉnh là quá nhiều. Một nhà báo
muốn sáng tạo ra một tác phẩm báo chí đều phải trải qua quá trình trăn trở,
chiêm nghiệm trước cuộng sống, tìm đề tài, chủ đề, vấn đề để đưa vào bài viết
của mình. Sau đó phải trăn trở làm sao để viết cho hay, cho đúng, trúng và
hấp dẫn công chúng. Đôi khi, nhà báo phải đánh đổi rất nhiều thứ không chỉ
là trí lực, vật lực để có được tác phẩm báo chí hoàn hảo. Nghề báo đòi hỏi sự
hy sinh và cống hiến cao hơn bất kì một nghề nào khác. Và mỗi một tác phẩm
báo chí, một sản phẩm báo chí là đứa con tinh thần có ý nghĩa rất lớn đối với
bất kì một người làm báo, một cơ quan báo chí nào.

Thứ hai, sản phẩm báo chí thỏa mãn hai yêu cầu cơ bản của thuộc tính
hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị.
Về giá trị sử dụng: Có thể thấy, mỗi một sản phẩm báo chí ra đời đều
nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng,chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời thỏa mãn nhu cầu thông tin của

8


công chúng, là diễn đàn của toàn thể nhân dân. Như vậy, nó đã đáp ứng toàn
bộ nhu cầu của một xã hội.
Mỗi tác phẩm báo chí và sản phẩm báo chí có giá trị sử dụng khác nhau.
Chẳng hạn, báo Đảng ra đời chủ yếu phục vụ cho công tác tuyên truyền
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến
với nhân dân, phục vụ hoạt động chính trị - xã hội của các tổ chức Đảng; các
tác phẩm báo chí về văn hóa nghệ thuật lại phục vụ nhu cầu học hỏi, giao lưu
hay giải trí của công chúng,... Sản phẩm báo chí chính là những sản phẩm
dịch vụ lâu bền bởi nó có thể sử dụng nhiều lần mà không bị tiêu hao. Một tòa
soạn báo in có thể phát hành 50.000 bản/kỳ nhưng không thể thống kê hết
được số lượng bạn đọc bởi một tờ báo không chỉ thuộc sở hữu của duy nhất
một người mà nó được truyền tay nhau qua rất nhiều người. Và khối lượng
thông tin, kiến thức trên tờ báo ấy có thể thiết thực với từng nhóm người khác
nhau trong từng giai đoạn khác nhau chứ không nhất thiết đều có lợi cho tất
cả đối tượng độc giả ngay khi tờ báo được phát hành. Trên thực tế, những sản
phẩm bình thường càng nhiều người sử dụng thì giá trị càng thấp nhưng đối
với sản phẩm báo chí thì hoàn toàn ngược lại. Càng nhiều người sử dụng thì
giá trị càng cao, phù hợp với kinh tế tri thức.
Một điều không thể không nhắc đến khi nói đến thuộc tính giá trị sử
dụng của sản phẩm báo chí đó là công chúng muốn tiếp nhận thông tin từ các
sản phẩm báo chí đều phải chi trả một khoản chi phí dù nhỏ hay lớn như mua

báo, mua sóng phát thanh – truyền hình, trả phí cho truyền hình kỹ thuật số,
phí bảo trì trang web,...
Về giá trị: Tác phẩm báo chí hay sản phẩm báo chí là sự kết tinh của quá
trình lao động báo chí. Trong đó có lao động tổ chức – quản lý, lao động biên
tập, lao động tác giả, lao động kinh tế - dịch vụ,... Nhà báo lao động để sản xuất
ra thông tin để đáp ứng nhu cầu của công chúng một cách nhanh nhất, hiệu quả
nhất. Đó chính là sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và người tiếp nhận.

9


Thứ ba, sản phẩm báo chí có tính hai mặt là lao động cụ thể là lao động
trừu tượng. Để tạo ra một tác phẩm báo chí đòi hỏi nhà báo phải trải qua một
quá trình lao động miệt mài và nghiêm túc. Từ việc quan sát thực tế cuộc
sống, nhà báo phát hiện đề tài, từ đó tư duy tìm hướng đi, góc tiếp cận vấn đề
cho bài viết, cách thức tiếp cận nguồn tin, thu thập và xử lý thông tin. Sau đó
là quá trình biên tập, in ấn và xuất bản, phát sóng sản phẩm báo chí.
Mỗi một tòa soạn, một cơ quan báo chí đều có những mục đích hoạt
động riêng, có cách thức tổ chức riêng, đối tượng độc giả riêng,... Trong khi
đó, mỗi một phóng viên, nhà báo lại có phương thức làm việc riêng, cách thức
tổ chức tác phẩm báo chí riêng,... Điều đó cho thấy, sản phẩm báo chí chính là
sản phẩm của tư duy sáng tạo và mồ hôi công sức của bản thân nhà báo và
của cả một tập thể.
2.2.Đặc điểm – tính chất của sản phẩm báo chí với tư cách là sản
phẩm hàng hóa:
Với tư cách là sản phẩm hàng hóa đặc biệt, sản phẩm báo chí có những
đặc điểm sau:
1. Sản phẩm báo chí hay tác phẩm báo chí là sản phẩm tinh thần của
bản thân nhà báo hoặc của cả tập thể dựa trên khả năng quan sát, phát hiện, tư
duy, tìm tòi và năng lực thể hiện của mỗi người làm báo.

2. Đối tượng tác động của các sản phẩm báo chí chính là đông đảo quần
chúng nhân dân trong xã hội. Mặc dù mỗi một sản phẩm báo chí đều nhắm
vào những đối tượng cụ thể nhưng khi chúng đã được xã hội hóa thì khó có
thể xác định được đối tượng tiếp nhận. Đây cũng chính là tính công khai của
các sản phẩm báo chí.
3. Sản phẩm báo chí luôn hướng tới việc ưu tiên, thỏa mãn nhu cầu,
mong đợi của công chúng xã hội và nhân dân. Những nội dung trong một sản
phẩm báo chí đều liên quan mật thiết đến việc giải thích, giải đáp và tháo gỡ
những vấn đề bức xúc trong cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân,

10


lấy lợi ích của nhân dân làm trọng, giúp nâng cao nhận thức và góp phần giải
quyết các vấn đề vướng mắc trong cuộc sống của họ.
4. Sản phẩm báo chí tác động đến toàn bộ đời sống, tư tưởng, tình cảm,
thế giới quan, nhân sinh quan của mọi thành viên trong xã hội. Từ đó hình
thành dư luận xã hội, điều chỉnh dư luận xã hội và góp phần thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi của quần chúng.
5. Các sản phẩm báo chí đều mang tính mục đích rõ ràng mà trước hết
là mục đích chính trị.
6. Sản phẩm báo chí càng được nhiều người sử dụng bao nhiêu thì giá
trị càng cao bấy nhiêu.
2.3. Sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc biệt nhưng không
phục vụ mục đích thương mại hóa báo chí:
Cần khẳng định rõ ràng rằng sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc
biệt nhưng không ra đời để phục vụ mục đích thương mại hóa báo chí mà để
phục vụ lợi ích chính trị - xã hội. Bởi lẽ, xét cho đến cùng, mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu của hoạt động báo chí trong nền kinh tế thị trường là mâu thuẫn
giữa lợi ích chính trị - xã hội với lợi ích kinh tế. Khi hai lợi ích này mâu thuẫn

gay gắt sẽ dẫn đến đấu tranh tư tưởng, ý thức hệ. Mà báo chí chính là công cụ
hữu hiệu nhất để truyền bá ý thức hệ cho cả một quốc gia, dân tộc. Chính vì
vậy, không nên chạy theo mục đích thương mại đơn thuần nhằm thu lợi nhuận
cho cơ quan báo chí mà xâm hại đến lợi ích chính trị - văn hóa – xã hội của
đất nước. Lợi ích kinh tế chỉ là cục bộ và trước mắt, trong khi mục đích chính
trị - xã hội mới là toàn cục và lâu dài.
Để mỗi sản phẩm báo chí ra đời đều phục vụ cho mục đích chính trị - xã
hội lâu dài đòi hỏi mỗi người làm công tác quản lý báo chí hay mỗi người làm
báo phải đặt ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc cho bản thân mình.
Trước hết, nhà báo phải giữ vững lập trường chính trị của mình. Sau đó phải
sống thật với lương tâm, ngòi bút và tuân thủ triệt để đạo đức nghề nghiệp nhà
báo.
11


12


KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, báo chí không chỉ
đặt mục đích chính trị lên hàng đầu mà còn ưu tiên làm kinh tế. Tuy
nhiên, không phải vì vậy mà các cơ quan báo chí, nhà báo, phóng
viên,... sa đà vào khuynh hướng thương mại hóa báo chí. Muốn như
vậy cần hiểu rõ sản phẩm báo chí không phải là sản phẩm hàng hóa
bình thường mà là sản phẩm hàng hóa đặc biệt. Từ đó mới có thể
nhận thức được giá trị thực sự của một sản phẩm báo chí khi nó
được đưa ra thị trường và được công chúng tiếp nhận một cách đúng
đắn. Đây không chỉ là yêu cầu đối với bất kì nhà báo nào mà còn là
nhiệm vụ của các cơ quan báo chí.


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, 2008.
2. Cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS. Nguyễn Văn Dững, Nxb Lao Động,
2012.
3. Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Dương Xuân Sơn, Đinh Văn
Hường, Nxv ĐH Quốc gia Hà Nội, 2004.
4. Báo chí trong kinh tế thị trường, Grabennhicop, Nxb Thông Tấn,
2004.
5. Những vấn đề của báo chí hiện đại, Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng,
Nxb Lý luận chính trị, 2007.

14


MỤC LỤC

15



×