MỞ ĐẦU
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư
tưởng, văn hoá của Đảng; là một trong những công cụ sắc bén, hiệu quả để xây
dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, động viên, cổ vũ, tổ chức nhân dân thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là chiếc cầu nối
hữu nghị để Việt Nam mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới.
Xuất phát từ vai trò to lớn, quan trọng của báo chí đối với đời sống xã
hội, chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định: “Báo chí có tính giai cấp, tính đảng,
tính nhân dân, tính văn hóa. Đảng cách mạng phải lãnh đạo báo chí cách mạng,
đó là nguyên tắc không thể thay đổi được. Quan điểm về vấn đề này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “... Phải có lập trường chính trị vững chắc, chính
trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được.
Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng". Trong bài nói
chuyện tại Đại hội lần thứ 3 Hội Nhà báo Việt Nam, Người căn dặn: “Cán bộ
báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của
họ". Trong bức điện gửi Hội Nhà báo Á-Phi, Người nhấn mạnh: "Đối với những
người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách
mạng". Người còn động viên, nhắc nhở những người làm báo: "Ngòi bút của
các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". Người
căn dặn: "Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn
thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng,
đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hoá,
phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình".
Thực hiện lời dạy của Bác, 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo
chí cách mạng Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của mình trước vận
mệnh của đất nước. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng đã dùng báo chí như là
vũ khí đấu tranh, công cụ tuyên truyền, phương thức lãnh đạo cách mạng, trở
thành những nhà báo xuất sắc; hàng trăm nhà báo đã chiến đấu, hy sinh anh
dũng trong tư thế của nhà báo - chiến sỹ. Có tác phẩm báo chí được in ấn thô sơ
dưới hầm sâu, trong ngục tối, trong những điều kiện hết sức khó khăn, nhưng đã
được đồng chí, đồng bào chuyền tay nhau đọc; thắp lên trong họ niềm tin mãnh
liệt về lý tưởng cách mạng, hun đúc ý chí, khích lệ hành động xả thân vì nghĩa
lớn. Nhiều tác phẩm báo chí như hồi kèn tập hợp, động viên, cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân xiết chặt đội ngũ, dưới cờ Đảng quang vinh, đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN,
báo chí cách mạng luôn đi đầu trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cổ vũ những thành tựu của sự
nghiệp đổi mới, những tấm gương điển hình tiên tiến, loại bỏ cái xấu, cái ác;
tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống tham nhũng, tiêu cực,
làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch...
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa sâu sắc, báo chí ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trên mọi mặt trận
từ kính tế, chính trị đến văn hóa, xã hội. Dù ở bất cứ thời đại nào, cuộc đấu
tranh về chính trị, tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo chí, luôn gay go, phức
tạp; ở giai đoạn hiện nay, tính chất đó còn cao hơn so với trước. Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra những thời cơ và cả những thách
thức. Cách thức thu nhận, trao đổi thông tin (mạng internet, các website, các
blog cá nhân; sự tương tác nhiều chiều trong thông tin); các trào lưu, khuynh
hướng tư tưởng xâm nhập, tác động vào nước ta ngày càng mạnh mẽ. Các thế
lực cơ hội, phản động, thù địch tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt, nhất là
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá, báo chí; thực hiện âm mưu "Diễn biến
hoà bình" ngày càng thâm độc, nham hiểm hơn,...
Trước tình hình đó, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng ta phải
không ngừng đổi mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công
tác báo chí. Với tất cả những lý do trên, bản thân em xin chọn vấn đề “Lãnh
đạo, quản lý hoạt động báo chí trong bối cảnh hội nhập hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu môn học của mình.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoạt động báo chí
- Công tác báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt
động của Đảng, là yếu tố cấu thành hoạt động tư tưởng, lý luận. Báo chí là công
cụ xung kích trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Báo chí có vai trò quan trọng đối
với công tác tư tưởng, lý luận và tổ chức. Báo chí là bộ phận hữu cơ, đặt dưới
sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng.
- Báo chí góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Báo chí phải góp phần tích cực xây dựng lý tưởng xã
hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
góp phần ổn định chính trị tư tưởng, bình ổn đời sống tinh thần để huy động
nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. Xây dựng
lý tưởng xã hội, tuyên truyền tư tưởng của Đảng là một công việc lâu dài, khó
khăn, phức tạp nhất là trong tình hình hiện nay, cho nên đòi hỏi phải có sự kiên
trì, nhiệt thành, trung thành và tính chuyên nghiệp cao.
- Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội và
là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật; đảm bảo tính tư tưởng, tính
chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng.
- Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, thông qua nhà
nước, thông qua công tác tổ chức- cán bộ, thông qua giám sát, kiểm tra hoạt
động thường xuyên trong thực tiễn. Quản lý nhà nước về báo chí còn bằng sức
mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mỗi cán bộ báo chí là một chiến sĩ cách mạng, cây bút và trang giấy
là vũ khí sắc bén của họ. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
công tác tư tưởng- văn húa của Đảng, là nhà truyền thông- vận động xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
1.2. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng
quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí và định hướng nội dung thông
tin, tuyên truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí;
lãnh đạo các đoàn thể chính trị trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách nhiệm
thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng pháp luật, chính
sách trong quản lý hoạt động báo chí. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong
việc đổi mới tư duy, phong cách và phương thức lãnh đạo đối với công tác báo
chí. Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã ra Chỉ thị 63-CT/TW, ngày 25-7-1990 về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản. Có thể nói rằng, đây là văn kiện quan
trọng đầu tiên nêu rõ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí;
đồng thời, xác định các công việc mà Đảng, Nhà nước cần thực hiện để lãnh
đạo, quản lý báo chí; trách nhiệm của cơ quan chủ quản; trách nhiệm, quyền hạn
của người phụ trách cơ quan báo chí và việc thành lập các tổ chức đảng trong
các cơ quan báo chí. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp báo chí, ngày 31-3-1992,
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 08-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo
và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản;
Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) ra Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 18-21995 về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng. Trong đó, Đảng yêu
cầu phải: nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng công tác bồi
dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí, nắm vững và chủ động thực
hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng; đấu tranh
có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu "Diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch... Đến Đại hội VIII, lần đầu tiên Đảng đề ra chủ trương
sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin, theo hướng: coi trọng
việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và
tính đa dạng của thông tin; phát hiện và đề cao các nhân tố mới, đấu tranh phê
phán các hiện tượng tiêu cực, tăng cường công tác thông tin đối ngoại.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, báo chí nước ta có những khởi sắc đáng mừng;
song, cũng còn bộc lộ những hạn chế trước yêu cầu mới của thực tiễn. Để khắc
phục tình trạng đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị
số 22-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác
báo chí; trong đó, xác định các quan điểm và định hướng lớn; đồng thời, yêu
cầu các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí nhận rõ và chủ động khắc phục các
yếu kém, khuyết điểm. Trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), Đảng yêu
cầu: phải hiện đại hoá hệ thống thông tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm tăng
hiệu quả thông tin; xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông
quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát triển của truyền thông thế
giới; ngăn chặn, hạn chế thông tin độc hại, tiêu cực qua mạng internet; không
ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ, chất lượng tư tưởng, văn hoá
của hệ thống thông tin đại chúng; khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá"
trong hoạt động báo chí; chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng, văn
hoá cũng như kỹ thuật đối với báo chí. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, khi đề
cập đến công tác lãnh đạo báo chí, tiếp tục khẳng định quan điểm mang tính
khoa học: "phát triển đi đôi với quản lý tốt"... Nghị quyết nêu rõ: “Báo chí, xuất
bản... làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp
trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những gương điển hình tiên
tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu
tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo
dục và tính chiến đấu của thông tin;... khắc phục khuynh hướng "thương mại
hoá" trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, ý
thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội
ngũ báo chí, xuất bản"6. Để định hướng hoạt động của báo chí, xuất bản trong
thời kỳ mới, căn cứ vào tình hình cụ thể, Đảng ta cũng ban hành một số nghị
quyết, chỉ thị, thông báo quan trọng. Nổi lên là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
X) "Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới"; trong đó, Đảng
ta tiếp tục khẳng định: Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức
chính trị-xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; đảm bảo
tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng.
Cùng với đó, Đảng khẳng định: phải tăng cường thể chế hóa đường lối,
nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực
báo chí, xuất bản. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 282, ngày 24-12-1956 quy định chế độ
hoạt động của báo chí; về những điều báo chí không được thông tin; thủ tục cấp
giấy phép và điều kiện hoạt động của báo chí và lưu chiểu; hình thức kỷ luật
nếu báo chí vi phạm. Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của cách mạng Việt
Nam, hệ thống văn bản pháp luật về báo chí được bổ sung và từng bước hoàn
thiện. Tiêu biểu như: Luật Báo chí 1989; Luật Báo chí 1999; Đề án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999; Quyết định số
77/2007/QĐ-TTg, ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; Thông tư số 07/2007/ TT-VHTT
của Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ nhà báo; Quyết
định số 52/2008/QĐ-BTTTT, ngày 02-12-2008 của Bộ Thông tin và Truyền
thông về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin trên báo chí; Thông tư số
13/2008/TT-BTTTT, ngày 31-12-2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông
hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường
trú trong nước của các cơ quan báo chí; Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, ngày 288-2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông
tin điện tử trên internet; Nghị định số 28/2009/NĐ-CP, ngày 20-03-2009 quy
định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và
thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh,
truyền hình đến năm 2020... Như vậy, chỉ trong một thời gian không dài, thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan làm công tác tham mưu của Đảng và
Nhà nước về báo chí đã xây dựng, ban hành một khối lượng khá lớn các văn
bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý báo chí. Đây là cơ
sở pháp lý hết sức quan trọng, bảo đảm cho các cơ quan báo chí, xuất bản hoạt
động theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tuân thủ đúng tôn chỉ, mục đích đã được xác định.
Để bảo đảm cho báo chí thực sự là công cụ tin cậy của Đảng, Nhà nước,
thể hiện tiếng nói của nhân dân, đòi hỏi những người làm báo phải vững vàng
về lập trường, quan điểm; trong sáng về đạo đức, lối sống; sắc bén về chuyên
môn, nghiệp vụ. Trong suốt quá trình phát triển của sự nghiệp báo chí, Đảng ta
đã đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, bồi dưỡng về bản lĩnh chính trị, đạo
đức nghề nghiệp, trình độ của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên các cơ
quan báo chí. Bởi vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đội ngũ cán bộ những người
làm báo luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng; bám sát
thực tiễn, không ngừng sáng tạo ra những tác phẩm báo chí có chất lượng cao,
phản ánh trung thực mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, các cấp đã
thường xuyên coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí vững
mạnh về mọi mặt; đề cao vai trò đảng viên của người làm báo, nhất là đội ngũ
những người giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan báo chí; giữ đúng
tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí và nhà báo; nâng
cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hoá, khoa học của từng cơ quan báo chí,
để báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội,
xã hội-nghề nghiệp và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
Hoạt động của báo chí thực chất là hoạt động chính trị; nội dung quan
trọng nhất trên báo chí là nội dung chính trị; vì vậy, tiếp tục tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của báo chí, xuất bản
trong tình hình hiện nay là một đòi hỏi khách quan, đồng thời là nguyên tắc cơ
bản bảo đảm tính Đảng trong hoạt động của báo chí. Có thông qua sự lãnh đạo
của Đảng, hoạt động của báo chí mới đi đúng hướng và thực hiện đúng chức
năng, trách nhiệm xã hội của mình. Mọi mưu toan "phi chính trị hóa" đối với
hoạt động báo chí, cố tình tách báo chí ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước đều là ảo tưởng; dù với danh nghĩa gì, cũng làm cản trở tới hoạt
động của báo chí cách mạng; đồng thời, cũng làm cản trở tới sự phát triển, tiến
bộ của đất nước, tổn hại đến lợi ích của nhân dân.
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ thông tin phát triển như vũ
bão, vấn đề tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, cuộc đấu tranh tư
tưởng và đấu tranh dân tộc ngày càng phức tạp, tinh vi thì lãnh đạo và quản lý
báo chí là một yêu cầu tất yếu để báo chí phát triển đúng định hướng, phục vụ
tốt nhất cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Chương 2
KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO VÀ
QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY
2.1. Về mặt chủ quan
2.1.1. Từ phía các cơ quan báo chí
Khó khăn đầu tiên và dễ dàng nhận thấy nhất lại đến từ chính sự phát
triển của các cơ quan báo chí. Việc phổ biến rộng khắp hệ thống báo chí từ báo
in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử… từ Trung ương tới địa phương đã
khiến việc quản lý gặp không ít khó khăn. Theo báo cáo Đánh giá công tác Báo
chí của Hội nhà báo Việt Nam, tính đến cuối năm 2013, cả nước có 835 cơ quan
báo chí với 1050 ấn phẩm báo in. Về phát thanh, truyền hình, hiện toàn quốc có
67 đài Phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc
gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 Đài Phát thanh - truyền hình cấp tỉnh.
Ngoài hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở nước ta
phát triển mạnh bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn như cáp, vệ tinh, số mặt
đất và đang bước đầu thử nghiệm công nghệ IPTV. Cả nước có 47 đơn vị được
cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 09 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín
hiệu truyền hình cáp. Trong đó có 3 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín hiệu
truyền hình cáp lớn nhất trong cả nước là VCTV, SCTV và HTVC. Riêng 5 cơ
quan báo chí truyền hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam,
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài
Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình
Dương) đã sản xuất 62 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ thống truyền
hình trả tiền hiện có 75 kênh truyền hình nước ngoài, phục vụ gần 2,5 triệu thuê
bao trên toàn quốc. Năm 2011, toàn ngành phát thanh - truyền hình nộp ngân
sách nhà nước 900 tỷ đồng. Cũng tính đến cuối năm 2013, trong lĩnh vực thông
tin điện tử, cả nước có 92 báo, tạp chí điện tử, hàng trăm trang tin thông tin điện
tử của các cơ quan và hơn 1.000 trang thông tin tức điện tử tổng hợp. Với một
số lượng “khổng lồ” như thế, việc quản lý, giám sát, kiểm tra lại thường chỉ
“quy” về một vài cơ quan có thẩm quyền như Ban Tuyên giáo, Bộ TT&TT, Hội
Nhà báo, khiến cho công tác này khá “nặng nề”, hoạt động chưa thực sự hiệu
quả.
Mặt khác, cả sự phát triển lớn mạnh về quy mô, đội ngũ những người làm
báo cũng khiến cho việc quản lý ngày càng trở nên khó khăn. Với số lượng gần
17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, hàng nghìn phóng viên đang hoạt động
báo chí chuẩn bị đến thời hạn cấp thẻ hiện nay đã khiến hiện tượng “giả mạo” là
phóng viên, nhà báo để làm việc phạm pháp gần đây xảy ra ngày càng nhiều.
Nhiều vụ việc cho đến khi bị phát hiện đã gây ra không ít hậu quả xấu tới xã
hội. Một số nhà báo còn lợi dụng danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí dọa dẫm,
sách nhiễu địa phương, doanh nghiệp để vụ lợi, vi phạm đạo đức nghề nghiệp
và quy trình tác nghiệp, thậm chí dẫn đến vi phạm pháp luật.
Sự quản lý trong việc cung cấp thông tin cho báo chí còn có những hạn
chế nhất định. Một số cơ quan hành chính nhà nước cung cấp thông tin cho báo
chí chưa đầy đủ nên đã gây khó khăn cho phóng viên khi tác nghiệp. Cũng
nhiều trường hợp thông tin cung cấp cho báo chí thiếu sự định hướng, thậm chí
cung cấp thông tin sai lệch dẫn đến việc thông tin báo chí không chính xác, tác
động xấu trong xã hội. Một số cơ quan, tổ chức khi có vụ việc bị báo chí nêu
chưa tiếp thu, xử lý thông tin nghiêm túc, thậm chí có trường hợp còn có những
phát ngôn, hành động làm nóng hơn thông tin báo chí, tạo bức xúc trong dư luận
xã hội.
Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, do sự tác động của “đồng
tiền”, vì chạy theo lợi nhuận không ít cơ quan báo chí coi nhẹ tính định hướng,
giáo dục của báo chí, vi phạm các quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng không
tốt đến chất lượng báo chí. Khuynh hướng “thương mại hóa” gia tăng (đăng tải
những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan). Có những vụ việc
thông tin thiếu chính xác, thiếu khách quan, mang tính một chiều, gây nhiễu
thông tin, đưa tin sai không cải chính hoặc cải chính chiếu lệ, gây ảnh hưởng
xấu hoặc xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, nhân phẩm của công dân, làm
ảnh hưởng tới uy tín đội ngũ làm báo.Thậm chí, việc đưa thông tin bịa đặt hoàn
toàn đã diễn ra ở một số tờ báo (như bịa đặt bài phỏng vấn khi không phỏng
vấn), từ tin đồn, tin từ mạng xã hội không được kiểm chứng biến thành tin chính
thức trên báo chí. Theo số liệu xử lý vi phạm trên báo chí của Cục Báo chí, Cục
Quản lý Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử trong 3 năm 2009 - 2011,
trong 82 trường hợp vi phạm (với tổng số tiền xử phạt hành chính gần 470 triệu
đồng), hành vi thông tin sai sự thật chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 2009 là 22,5%,
năm 2010 là 24% và trong năm 2011 là 33%. Dạng sai phạm này thường chỉ
được phát hiện vơi sự “lên tiếng” của công chúng - những người trực tiếp tiếp
nhận thông tin, rất ít trường hợp được các cơ quan quản lý phanh phui. Dạng sai
phạm này tuy được thường xuyên nhắc nhở, xử lý nhưng vẫn tiếp tục xảy ra ở
một số cơ quan báo chí của tất cả các loại hình báo chí. Một trong những vụ
việc tiêu biểu nhất, có tác động mạnh phải kể đến nhân vật Lượm trong chuyên
mục “Người xây tổ ấm” của Đài truyền hình Việt Nam phát sóng tháng 2 năm
2011. Đây là nhân vật hoàn toàn không có thật, nên dù chương trình mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc, thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp nhân dân nhưng
chính việc đưa thông tin thiếu kiểm chứng đã làm giảm sút niềm tin của công
chúng vào báo chí.
Bên cạnh sai phạm về thông tin, những dạng sai phạm khác cũng đặt cơ
quan quản lý vào tinh thế khó khăn. Một số sách, báo, tạp chí, nhất là các số
phụ, số chuyên đề xa rời tôn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ, nhất là đối với
công nhân, nông dân. Một số nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông
tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử
lý kịp thời theo pháp luật. Có trường hợp một số bài báo phủ nhận truyền thống
và thành tựu cách mạng, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, làm lộ bí mật quốc
gia, coi nhẹ công tác đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, khai thác tin tức, tư
liệu, bài vở báo chí nước ngoài thiếu chọn lọc. Thêm vào đó, một số thông tin,
bình luận có tính suy diễn vẫn còn khá phổ biến trên các trang báo mạng và
nhiều trang thông tin điện tử. Ví dụ như tin tức về các vụ án, lúc đầu báo chí
đưa tin chuẩn xác nhưng một số tờ báo, trang tin điện tử khai thác, suy diễn quá
nhiều theo hướng khác nhau dẫn đến sai lệch bản chất vụ việc; từ thông tin sai
của một tờ báo, nhiều báo khác không kiểm chứng đã đưa lại, thậm chí “thêm
thắt” nên từ một tin sai trên một báo, thành nhiều tin sai trên nhiều báo. Nhiều
thông tin thiếu thẩm mỹ, vô bổ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, văn
hoá Việt Nam, có lúc còn mang tính săm soi, lại được các phóng viên, các báo
khai thác quá nhiều như tin, ảnh về đời tư, những hớ hênh của nghệ sỹ, người
mẫu trong và ngoài nước. Tình trạng sai về văn phạm, chính tả diễn ra khá phổ
biến ở nhiều báo điện tử; phát âm tiếng Việt thiếu chuẩn mực, đọc sai, đọc vấp ở
một số phát thanh viên làm mất đi sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng Việt.
Một số chương trình giải trí trên truyền hình, nhất là các chương trình liên kết
không được kiểm tra, thẩm định đưa lên những hình ảnh, lời nói phản cảm, gây
bất bình trong dư luận xã hội. Những sai phạm này tuy tương đối phổ biến,
nhưng lại thường được coi là “nhỏ nhặt”, “không gây hậu quả lớn”, khiến cho
một số tờ báo, trang mạng “được nước lấn tới”, tạo thành một trào lưu “lá cải
hóa” phổ biến hiện nay.
2.1.2. Từ phía các cơ quan quản lý báo chí
Ngay trong công tác quản lý, chỉ đạo của mình, cơ quan lãnh đạo - quản
lý báo chí cũng vẫn gặp nhiều khó khăn. Việc chỉ đạo, quản lý thông tin đôi lúc
còn chưa chủ động, chạy theo sự vụ, tổ chức, cán bộ chuyên trách về quản lý
báo chí ở một số đơn vị vẫn còn thiếu và yếu nên rất khó nắm bắt tình hình và
đề xuất xử lý, giải quyết công việc. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản,
người đứng đầu cơ quan báo chí (Tổng biên tập, Giám đốc...) có lúc, có nơi còn
mờ nhạt, chưa được phát huy đầy đủ, còn có hiện tượng né tránh trách nhiệm.
Công tác quản lý, kiểm soát các hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền còn
bị buông lỏng, có nơi còn khoán trắng cho cơ quan báo chí toàn quyền quyết
định trong việc liên kết, một số nội dung trên báo chí bị thao túng, dẫn đến sai
phạm, đưa thông tin không đúng với tôn chỉ, mục đích, không đúng đối tượng
phục vụ đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn nhất, kéo
dài nhất, trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản
báo chí. Tình trạng báo của ngành này, địa phương này nhưng lại đưa thông tin
nhiều về ngành khác, địa phương khác, mà lại chủ yếu là các vấn đề tiêu cực,
thông tin một chiều, thiếu kiểm chứng, làm cho báo chí thiếu bản sắc, trùng lặp
thông tin, thiếu tính định hướng của tờ báo đã gây nên sự bức xúc trong nhiều
năm. Khi sai phạm xảy ra, các cơ quan này xử lý không nghiêm, nể nang, thậm
chí bao biện cho sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị cho phóng viên, biên tập viên của cơ
quan báo chí chưa được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, trong xử lý vi phạm, ngay chính cơ quan quản lý Nhà nước về
báo chí còn thiếu kiên quyết, điều này xuất phát từ việc luật Báo chí dù thực thi
nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao, các chế tài xử lý chưa mạnh, hình thức xử lý
chưa nghiêm, chưa kịp thời. Cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật để quản lý còn thiếu và chưa theo kịp thực tiễn phát triển khiến cho
hiệu quả công tác giám sát, quản lý báo chí chưa cao. Việc bổ nhiệm lãnh đạo
cơ quan báo chí không đúng quy trình, không đúng quy định pháp luật, quy định
của Đảng như không thỏa thuận với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin
và Truyền thông, kể cả việc bổ nhiệm ở một số cơ quan báo chí lớn dẫn đến
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý không được phát huy. Lĩnh vực quảng
cáo, sở hữu trí tuệ còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ,
ngành và chưa được phân định rõ ràng, làm hạn chế công tác quản lý, xử lý vi
phạm. Gần đây, trong những lĩnh vực thông tin của báo chí, Nghị định
79/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh
vực thống kê; Nghị định 109/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh
vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn ngày 24/9/2013; Nghị định 138/2013/NĐCP ngày 22/10/2013 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giáo dục; Chính
phủ ban hành Nghị định số 173/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh
vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ có hiệu lực từ 1/1/2014;... lại tạo ra
một cách hiểu khác: quy định cho phép hàng loạt cấp, ngành được xử phạt báo
chí đưa tin sai sự thật khiến tính thống nhất về lãnh đạo và quản lý báo chí bị
phá vỡ, gây “lúng túng” trong quyết định thẩm quyền xử lý sai phạm. Quy định
dễ gây hiểu lầm rằng cơ quan nào cũng có quyền “phạt” báo chí này vẫn chưa
có cách giải thích cụ thể và xác đáng hơn, cũng tạo thêm một khó khăn trong
việc quản lý báo chí.
2.2. Về mặt khách quan
Bên cạnh những yếu tố chủ quan, không ít các yếu tố khách quan xuất
phát từ thực tiễn trong nước và thế giới đã tác động mạnh mẽ đến báo chí, tạo ra
những thách thức lớn cho việc quản lý, lãnh đạo.
Đầu tiên, toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực, đã và đang dẫn đến
những “tổn thương” sâu sắc về văn hóa từ trực tiếp đến gián tiếp. Các thế lực
chính trị dưới tác động của toàn cầu hóa cố tình gây đảo lộn các giá trị xã hội ở
các quốc gia qua sự can thiệp tinh vi vào đời sống chính trị với chiêu bài tự do
báo chí, tự do tôn giáo, nhân quyền… Sự xuất hiện của mạng xã hội, blog, các
trang cá nhân… cùng với việc phá vỡ mọi ranh giới quốc gia với sự bùng nổ của
Internet đã khiến cho việc thông tin nhiều luồng xuất hiện, gây ảnh hưởng cả
tích cực và tiêu cực cho báo chí nước nhà. TS Nguyễn Thế Kỷ, trong bài viết
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước yêu cầu mới” đã nhận
định: “Cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo chí, dù
thời chiến hay thời bình luôn gay go, phức tạp; ở giai đoạn hiện nay, tính chất
đó còn cao hơn so với trước”. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, thông thường
được nhìn thấy ở lĩnh vực kinh tế, nhưng điều lo ngại là song hành với kinh tế là
sự “đồng hóa” về văn hóa có tính chất chính trị. Những quan điểm sai trái, đạo
đức lệch lạc, suy đồi, lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân gần như
không có biên giới ào ạt tràn vào các quốc gia đang phát triển. Báo chí Việt
Nam cũng phải đối mặt với những thách thức và khó khăn chung, thách thức
chung của báo chí khu vực và báo chí thế giới
Điều đáng quan tâm là toàn cầu hóa mang đến nguy cơ “xâm lược chính
trị” thông qua “toàn cầu hóa báo chí” - một vũ khí của chiến lược “diễn biến
hòa bình”. Khi các thế lực chính trị trên thế giới lan truyền thông tin đã bị biến
dạng bằng các thủ đoạn nhân danh cái tốt đẹp để xuyên tạc, bóp méo, mang tính
phá hoại, lừa đảo người tiếp nhận…, thì tính nghiêm trọng của mặt trái toàn cầu
hóa là mất ổn định về chính trị và văn hóa, trong đó có báo chí, đã tăng lên rất
đáng lo ngại. Bối cảnh trong và ngoài nước có diễn biến phức tạp, nhiều sự kiện
diễn ra nhanh, thông tin nhiều chiều nhiễu loạn dẫn đến tình trạng khó dự đoán
đúng bản chất vụ việc. Trong khi thông tin của các cá nhân, tổ chức khái thác
trên mạng thông tin khá dễ dãi và nhanh chóng. Thông tin thiếu nhạy cảm về
chính trị, không phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân, không phù hợp
định hướng thông tin. Đây là dạng sai phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội,
là kẽ hở để báo chí nước ngoài, các trang tin điện tử của các thế lực chống đối
lợi dụng để xuyên tạc. Khuyết điểm này trước hết thuộc về người đứng đầu, Ban
biên tập và người biên tập cũng như trình độ nhận thức và độ nhạy cảm chính trị
của một bộ phận phóng viên, biên tập viên còn những hạn chế nhất định. Không
ít trường hợp phóng viên có những bài viết thể hiện sự non kém về nhận thức
chính trị nhưng ban biên tập vẫn duyệt cho đăng mà không kiểm chứng lại.
Trong khi đó, trình độ công chúng ngày càng được nâng cao. Cùng với sự
phát triển của báo chí hướng tới công chúng số đông, mở rộng ra nhiều đối
tượng xã hội khác nhau thì trình độ nhận thức khác nhau. Cùng với sự nâng cao
dân trí, phát triển của khoa học kỹ thuật và các công cụ xã hội, trình độ hiểu
biết, nhận thức của công chúng khác nhau. Mỗi đối tượng, mỗi lứa tuổi họ đều
có nhu cầu thông tin riêng trong mỗi thời điểm, báo chí cần có sự tác động khác
nhau và yêu cầu khác nhau. Tuy đây là thực tế khách quan, nhưng lại nảy sinh
nhiều khó khăn trong việc quản lý báo chí, nhất là với việc cập nhật các báo chí
ngoài luồng, có khuynh hướng chống đối lại nhà nước và phá hoại đất nước.
Đồng thời, với sự phát triển của xu thế mới, mỗi công chúng đều có thể trở
thành một người đưa tin, thì việc kiểm soát báo chí trở nên khó khăn hơn, nhất
là trên những trang mạng xã hội hay các thông tin chưa thẩm định.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ BÁO CHÍ
3.1. Đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước
Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với báo chí trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước hết là bằng quan điểm, đường lối,
thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị và qua sự quản lý của Nhà nước. Đảng lãnh
đạo báo chí là nhằm nắm vững và sử dụng công cụ tư tưởng của mình, đồng
thời bảo đảm quyền sáng tạo của báo chí, giúp báo chí hoàn thành chức năng
cao cả của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí mới có quyền lực chính trị
và quyền lực xã hội mạnh mẽ. Quyền lực đó của báo chí nằm trong sự quy định
của pháp luật. Quyền lực đó bảo đảm để báo chí luôn giữ vững bản lĩnh chính
trị, đấu tranh kiên quyết với các hành vi, thủ đoạn chống đối chế độ; Bảo đảm
phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trước tình hình đó, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng ta phải
không ngừng đổi mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công
tác báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định
hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí và định hướng nội dung
thông tin, tuyên truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan
báo chí; lãnh đạo các đoàn thể chính trị trong cơ quan báo chí. Nhà nước có
trách nhiệm thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng pháp
luật, chính sách trong quản lý hoạt động báo chí. Trong quá trình lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan
trọng trong việc đổi mới tư duy, phong cách và phương thức lãnh đạo đối với
công tác báo chí.
Về nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí: Đảng tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện quan điểm, đường lối, phương thức lãnh đạo báo chí sát hợp với đặc
thù của báo chí và tình hình thực tế vận động liên tục, phong phú hiện nay; Tiếp
tục tăng cường nội dung lãnh đạo có tính khoa học cao, có tầm bao quát vừa
rộng, vừa sâu, vừa lâu dài; Đảng tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng đối với hoạt động báo chí; Đảng chỉ đạo nâng
cao vai trò quản lý, chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí; Tăng cường vai trò
lãnh đạo của cấp ủy trong cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí; Cơ quan chỉ
đạo, quản lý báo chí phải công khai, minh bạch, chủ động hơn nữa trong việc
cung cấp thông tin và định hướng thông tin...
3.2. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp lý về báo chí
Về vấn đề xây dựng, hoàn thiện pháp luật và các chính sách đối với báo
chí: Tăng cường vai trò của pháp luật tức là tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động báo chí thông qua hoạt động của bộ máy Nhà nước; Sửa
đổi Luật Báo chí cho phù hợp với hoạt động báo chí trong bối cảnh mới; Củng
cố, bổ sung cơ chế để tăng cường giám sát xã hội đối với báo chí; Đảng và Nhà
nước định hướng chính sách xây dựng quy hoạch và phát triển lâu dài hệ thống
báo chí tiên tiến, mạnh về đội ngũ, có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu thông tin
trong các tình huống phức tạp nhất; Tiếp tục đầu tư xây dựng một số đơn vị báo
chí có vị thế đầu đàn, đủ năng lực cung cấp thông tin cho các tầng lớp nhân dân,
giữ vai trò chi phối dư luận xã hội, giữ nhịp cho cả hệ thống báo chí, vươn ra
thế giới, chủ động thông tin về những diễn biến kinh tế, chính trị trong nước và
trên thế giới; Bổ sung và hoàn thiện chính sách khuyến khích theo hướng phải
bảo đảm được sự tự chủ, chủ động sáng tạo của báo chí.
Tăng cường sức mạnh của luật Báo chí, điều này phải căn cứ vào việc
chỉ đạo, lãnh đạo, nắm giữ hoạt động báo chí - truyền thông thông qua các công
cụ luật pháp. Các công cụ pháp lý không thể thay thế chỉ đạo chính trị, nhưng là
công cụ chủ yếu, cơ bản của lãnh đạo chính trị đối với báo chí - truyền thông
trong bối cảnh mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực ngôn luận.
Tăng cường công cụ này cũng là tăng cường sự lãnh đạo chính trị đối với hoạt
động truyền thông. Các quy định pháp lý đối với hoạt động báo chí - truyền
thông càng đầy đủ, chi tiết, thì càng có tác dụng khuyến khích hoạt động hữu
ích, đồng thời ngăn ngừa các sai phạm của hoạt động báo chí- truyền thông. Cả
khi cần chấn chỉnh sai sót thì cũng thuận tiện và hiệu quả hơn vì đã có các quy
định pháp lý cụ thể, chi tiết để vận dụng. Hoàn chỉnh các quy định luật pháp
không những mang lại thuận lợi cho người quản lý, mà còn thuận lợi cho bản
thân hoạt động bị quản lý, bởi có sự minh bạch trong xử lý các vấn đề của hoạt
động đó. Khi đó sự chỉ đạo báo chí sẽ chủ động hơn, chủ yếu là định hướng,
cung cấp thông tin, phát huy năng lực sáng tạo của báo chí.
Hiện nay Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt
động báo chí - truyền thông, dù đã sửa đổi, bổ sung đáng kể, vẫn còn mang tính
chung chung của luật khung, nhất là các điều khoản quy định các việc báo chí
không được làm. Cần cố gắng sao cho các quy định pháp luật có thể bao trùm
đa số các dạng sai phạm của hoạt động báo chí - truyền thông. Trước mắt cần
dồn sức để hoàn chỉnh Luật Báo chí và các luật liên quan đến báo chí - truyền
thông, chuyển từ dạng luật khung sang luật chi tiết. Khi có những hiện tượng
mới của báo chí thì cần có các quy định dưới luật thật sát và kịp thời.
3.3. Tăng cường tính chủ động, nâng cao chất lượng của cơ quan báo
chí, đào tạo đội ngũ người làm báo
Về đổi mới hoạt động của các cơ quan báo chí: Báo chí phải tuân thủ sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng (đó là nghĩa vụ, trách nhiệm và đồng thời là lợi ích,
là phẩm chất chính trị của cơ quan báo chí và người làm báo của Đảng - ý thức
này phải được thực hiện với nguyên tắc nhất quán); Cơ quan báo chí cần phải
nâng cao tính định hướng tư tưởng xã hội, phải trở thành cơ quan đi đầu về
thông tin chính trị, định hướng dư luận xã hội tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới
của Đảng và tiến trình phát triển đất nước; Cơ quan báo chí phải năng động
trong hoạt động kinh tế báo chí nhưng đúng quy định của pháp luật...
Về phía cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí: Xác định rõ
ràng, quyền hạn, nâng cao ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, khả năng
chuyên môn của những người trực tiếp quản lý các cơ quan báo chí. Đội ngũ
này là cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí và những người làm
báo, vừa có trách nhiệm đề ra phương hướng, vừa giám sát, kiểm tra công việc,
giúp báo chí đi theo đúng định hướng, mục tiêu đã đề ra.
Về vấn đề tổ chức, nhân sự: Tiếp tục kiện toàn bộ máy và tăng cường
nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị của cán bộ quản lý báo chí;
Nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam; Nâng cao
chất lượng người làm báo, xây dựng chuẩn hóa đội ngũ phóng viên, biên tập
viên; Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao ý thức, bản lĩnh chính trị và
phát triển Đảng tại cơ quan báo chí cũng như cơ sở đào tạo báo chí; Chọn lọc kỹ
và nâng cao vai trò của người lãnh đạo cơ quan báo chí...
KẾT LUẬN
Báo chí - truyền thông ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước. Vì vậy, song song với các quy định pháp luật cần xây dựng và
hoàn chỉnh các quy chế lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với hoạt động báo chí
- truyền thông, chi tiết hóa các quy định và kỷ luật trong Đảng đối với các sai
lầm, khuyết điểm của đảng viên làm công việc báo chí - truyền thông. Tăng
cường thực lực của toàn bộ nền báo chí - truyền thông nói chung, đặc biệt là
thực lực của các đơn vị báo chí đầu đàn, để truyền thông nhà nước nhất định
đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin, nhất định chi phối được dư luận. Quản lý nhà
nước về báo chí không chỉ bằng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật,…
mà còn bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy đảng, chính quyền,
trong đó cơ sở đảng của cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản báo chí có vai trò
rất quan trọng. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó vai trò của Hội
Nhà báo Việt Nam, chi hội nhà báo cơ sở cần đươc thể hiện và phát huy. Mỗi
tòa soạn báo chí và chi hội nhà báo có vai trò quan trọng trong việc tuyền
truyền, giáo dục, giúp đỡ thành viên của mình, cũng như kiểm tra, giám sát mọi
hoạt động chấp hành pháp luật và quy ước đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Đánh giá đúng vai trò của công chúng như là lực lượng xã hội quan trọng
quyết định vai trò, vị thế và sức mạnh xã hội của cơ quan báo chí. Công chúng
là người giám sát mọi hoạt động của nhà báo, đánh giá và thẩm định sản phẩm
báo chí. Khi công tác lãnh đạo - quản lý báo chí có hiệu quả sẽ giúp báo chí
phát huy hiệu quả, huy động được sức mạnh “mềm” của toàn dân, tăng cường
niềm tin chính trị của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
nâng cao đời sống tinh thần của xã hội.