Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đề cương Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.33 KB, 34 trang )

Câu 1. Trình bày Định nghĩa của Lênin về vật chất. Mối quan hệ biện
chứng giữa Vật chất và ý thức.
* Khái niệm.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Phân tích định nghĩa vật chất:
+ Vật chất là một phạm trù triết học:
Xác định góc độ của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm triết học
về bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc và những
thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.
Với tư cách là phạm trù triết học, nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn vô tận không sinh
ra, không mất đi còn các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó
sinh ra và mất đi chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung
về vật thể.
+ Tồn tại khách quan:
Đây là thuộc tính chung, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng của vật chất.
Tồn tại khách quan đây cũng là tiêu chí để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì
không phải là vật chất cả trong tự nhiên và xã hội. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và
độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất.
+ Vật chất đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại
Vật chất không tồn tại một cách trừu tượng, mà tồn tại hiện thực, cụ thể cảm
tính. Vật chất tác động vào giác quan của con người gây lên cảm giác.
→ Thừa nhận vật chất là yếu tố thứ nhất
Vật chất đem lại cho con người trong cảm giác, nó là nguồn gốc, nguyên nhân
của cảm giác của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của ý thức. Cảm giác
chỉ là sự chép lại, chụp lại, phản ánh nó có sau so vơi vật chất
→ Thừa nhận ý thức là yếu tố thứ 2 và vật chất quyết định ý thức.
Tóm lại: định nghĩa phạm trù “Vật chất” bao gồm nội dung sau:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người


+ Vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người
+ Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin:
+ Đã khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật
chất của chủ nghĩa duy vật cũ, làm cho chủ nghĩa duy vật phát triên lên một bước mới
trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1


+ Là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết không
thể biết, đảm bảo sự vững chắc của chủ nghĩa duy vật trước ự phát triển của khoa học.
+ Định nghĩa của Lênin cũng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa
học cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất.
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
* Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất quyết định ý thức
- Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của thế
giới vật chất, là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao đó là bộ nào người
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức
- Mọi sự phản ánh của ý thức đều xuất phát từ tiền đề vật chất
- Quá trình vận động và biến đổi của vật chất thì ý thức cũng có sự thay đổi
* Vai trò của ý thức đối với vật chất: Ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện vật chất thông qua hoạt động của
con người ( tạo ra thiên nhiên thứ 2…)
- Ý thức có thể làm suy giảm sức mạnh vật chất ngay trong chính bản thân con
người nếu có tư tưởng bi quan chán nản
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng :
Tích cực: nếu con người có tri thức khoa học đúng đắn thì có hành động đúng
Tiêu cực: còn nếu ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan
sẽ dẫn đến những hành động sai, không đem lại hiệu quả.

* Ý nghĩa phương pháp luận
Chủ nghĩ duy vật biện chứng khẳng định: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải thực hiện: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn phải chú ý:
- Tôn trọng khách quan: Trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người phải xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của
mình. Không được lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, tình cảm của mình làm điểm
xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng
- Phát huy tính năng động của ý thức:Ý thức chỉ có tác động trở lại hiện thực
thông qua hoạt động của con người. Vì vậy phải phát huy tính năng động, sáng tạo của
ý thức để cải tạo hiện thực.
+ Trang bị cho con người những tri thức về bản chất, quy luật khách quan của
đối tượng cho cơ sở ấy con người xác định đúng đắn các mục tiêu đề ra và phương
hướng hoạt động cho phù hợp.
2


+ Ý thức phản ánh đúng bản chất quy luật hiện tượng sẽ là cơ sở cho hoạt động
đúng đắn. Ngược lại ý thức có thể làm cho con người hành động sai khi phản ánh
không đúng hiện thực khách quan.
Hai nguyên lý
Câu 2. Trình bày Nguyên lý về sự phát triển
* Khái niệm phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, thậm trí đối lập nhau:
- Quan điểm siêu hình:
+ Xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng,
không có sự thay đổi gì về chất của sự vật
+ Nếu có sự thay đổi về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng
khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới, chất mới.

+ Sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh co thăng
trầm, phức tạp.
- Quan điểm biện chứng:
+ Phát triển là quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp..
+ Cách thức của sự phát triển là quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất.
+ Quá trình đó diễn ra vừa dần, vừa nhảy vọt, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ.
+ Con đường của sự phát triển theo hình xoáy ốc, hết mỗi chu kỳ sự vật dường
như lặp lại sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
+ Phát triển diễn ra không phải theo đường thẳng mà rất quanh co phức tạp,
thậm trí có cả những bước thụt lùi nhưng đó chỉ là bước thụt lùi tạm thời.
+ Nguồn gốc của sự phát triển: đó là mâu thuẫn trong chính sự vật quy định.
Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật do đó cũng là quá trình
tự thân phát triển của sự vật.
- Khái niệm phát triển:
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ qúa trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự
vật.
+ Theo quan điểm này phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên
của sự vật.
* Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan:
+ Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở ngay trong chính bản thân sự vật hiện tượng.
3


+ Nó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật.
- Tính phổ biến:

+ Nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy
+ Diễn ra trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú
+ Mỗi một sự vật hiện tượng khác nhau thì có quá trình phát triển không giống
nhau..
+ Tồn tại ở không gian khác nhau, thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác
nhau.
+ Trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu tác động của sự vật hiện
tượng khác.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải tôn trọng quan điểm phát triển:
+ Khi nhận thức giải quyết vấn đề nào đó, phải đặt chúng ở trạng thái động,
nằm trong khuyng hướng chung của sự phát triển.
+ Phải thấy được khuynh hướng phát triển tương lai của chúng, phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như biến đổi có tính chất thụt lùi.
- Quan điểm phát triển phải kết hợp với quan điểm lịch sử cụ thể, phải xem xét
sự vật trong tính lịch sử của nó.
- Phải khắc phục những quan điểm: trì trệ, bảo thủ, định kiến cứng nhắc trong xem xét
đánh giá sự vật.

Câu 3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm về mối liên hệ
Trong lịch sử triết học có nhiều quan điểm khác nhau về mối liên hệ:
- Theo quan điểm siêu hình: Xem xét các sự vật hiện tượng trên thế giới này
tách rời nhau, cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia.
Giữa chúng không co sự ràng buộc lẫn nhau, nếu có chỉ là sự liên hệ hời hợt bên
ngoài.
- Theo quan điểm biện chứng duy vật: Các sự vật hiện tượng, các quá trình trong thế
giới không tách rời cô lập nhau mà là một khối thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng

liên hệ với nhau một cách chằng chịt, ràng buộc nhau và tác động qua lại.
Nếu cho rằng thế giới này có mối liên hệ với nhau vậy cái gì quy định mối liên hệ
ấy:
4


- Theo quan điểm duy tâm: Cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tượng là do một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức,
cảm giác của con người.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng: Tính thống nhất vật chất của thế giới là
cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
Vậy “ liên hệ” là gì?
- Liên hệ: Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới.
- Liên hệ phổ biến: Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới, trong đó mối liên hệ phổ biến là những mối liên hệ tồn tại ở
mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng.
* Các tính chất của mối liên hệ:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú.
- Tính khách quan: Là các mối liên hệ vốn có của mọi sự vật hiện tượng, nó
không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Là mối liên hệ vốn có của sự vật hiện tượng: sự vật hiện tượng nào cũng có
mối liên hệ, mối liên hệ là tự bản thân sự vật có không phải do một lực lượng siêu
nhiên thần thánh nào chi phối cả.
+ Không phụ thuộc vào ý thức con người: vì nó là mối liên hệ vốn có của sự vật
hiện tượng nên nó tồn tại khách quan. Con người không thể tạo ra mối liên hệ của sự

vật nhưng có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ ấy.
- Tính phổ biến của mối liên hệ:
+ Bất kỳ sự vật hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian và thời gian nào cũng có
mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác.
+ Ngay trong cùng một sự vật hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một
yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
+ Tính phổ biến của mối liên hệ diễn ra trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên- xã hội
và tư duy.
- Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ:
+ Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, ở hoàn cảnh khác nhau, thì các mối liên
hệ biểu hiện khác nhau.

5


+ Phân chia mối liên hệ: Mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, trực tiếp,
gián tiếp, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ yếu… Sự phân chia mối liên hệ này chỉ có
tính chất tương đối..
* Vai trò của mối liên hệ
- Sự tồn tại của các sự vật được quy định bởi cách thức liên hệ, các bộ phận cấu
thành nó mà chủ yếu là mối liện hệ tác động qua lại của những mặt đối lập.
- Các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật liện hệ tác động qua lại lẫn nhau quyết định
bản chất sự vật.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Quan điểm toàn diện:
+ Khi nhận thức về sự vật hiện tượng đòi hỏi chúng ta nhìn nhận sự vật trong mối
liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác.
+ Xem xét toàn diện nhưng không phải là xem xét dàn trải mà là xem xét có trọng
tâm.
+ Chống quan điểm phiến diện, chiết chung, ngụy biện

(Chiết trung: là kết hợp một cách vô nguyên tắc những mặt khác nhau, đối lập
nhau, lẫn lộn cái bản chất với cái không bản chất; Nguỵ biện: là lập luận đem mối liên
hệ thứ yếu thành chủ yếu, cái không cơ bản thành cái cơ bản).
- Quan điểm lịch sử cụ thể: Tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện cụ thể
mà nó sinh ra, tồn tại và phát triển.
Trong giai đoạn nước ta hiện nay, để xác định đướng lối đúng đắn phải tính đến đặc
điểm của đất nước, của quốc tế trong từng giai đoạn.
Ba quy luật
Câu 4. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Khái niệm chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là
cái khác.
Ví dụ: Đường là một chất, Muối là một chất.
* Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
* Mối quan hệ:
- Những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:

6


Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có sự thống nhất giữa mặt chất và lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn
tại, nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
- Trạng thái đứng im tương đối: Sự vật hiện tượng bao giờ cũng có sự thống
nhất giữa mặt chất và lượng. Chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy. Những thay đổi về
lượng trong giới hạn nhất dịnh mà không làm thay đổi chất sự vật. Ở thời điểm này sự
vật còn là nó chưa thành cái khác. Giới hạn đó gọi là độ:

Ví dụ: Khi nung một thỏi thép lên tới hàng trăm độ song thỏi thép vẫn ở trạng
thái rắn chưa chuyển sang lỏng.
Ví dụ: Nước đun sôi ở nhiệt độ 80 độ vẫn chua chuyển sang trạng thái hơi.
Độ: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thống nhất giữa chất và lượng. Nó là một
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật ấy.
Ví dụ: Nước dưới 0oc là thể rắn
Từ 0oc 100oc là thể lỏng
Từ 100o c trở lên là thể khí.
Giới hạn mà nước tồn tại dưới các dạng cụ thể gọi là độ.
- Lượng tiếp tục phát triển tăng lên hay giảm đi đến 1 giới hạn nào đó bị phá
vỡ, vượt độ nghĩa là nó làm thay đổi chất của sự vật. Sự vật không còn là nó nữa mà
chuyển thành sự vật khác. Giới hạn diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật người ta gọi
là điểm nút:
Nút: Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ: Điểm giới hạn 0oc và 100oc ở ví dụ trên được gọi là điểm nút
- Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời
Bước nhảy: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
+ Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển mới.
+ Nó là gián đoạn trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề
cho sự liên tục và sự liên tục là kết tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
→ Như vậy sự phát triển của bất cư sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút của quá trình ấy, không cố định mà có thể
có những thay đổi. Sự thay đổi ấy do tác động của những điều kiện chủ quan và khách
quan quy định.
* Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng:
7



- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy
thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật.
→ Chất mới ra đời đòi hỏi một lượng mới tương ứng với nó.
Như vây không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà những thay
đổi về chất cũng dẫn đến những thay đổi về lượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức phải biết tích luỹ về lượng
để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này giúp chúng ta tránh được tư
tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, nôn nóng đốt cháy giai đoạn.
- Khi đã tích luỹ đủ về lượng thì phải có quyết tâm tiến hành bước nhảy, phải
kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành thay đổi về chất. Khắc phục tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ
là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
- Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy, tuỳ vào điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể.
- Để thay đổi chất của sự vật còn phải tác động vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật và kết cấu của sự vật đó.
Câu 5. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Vai trò của quy luật mâu thuẫn: Quy luật này được coi là hạt nhân của phép
biện chứng, nó chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn: dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh,
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện
tượng với nhau.
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau nhưng đồng thời là điều kiện, tiền
đề tồn tại của nhau.

- Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng: là sự liện hệ tác động qua lại, sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập biện chứng tạo nên sự vận động và phát triển của bản
thân sự vật.
Ví dụ: Đồng hóa dị hoá là mâu thuẫn biện chứng
Ngày và đêm không phải là mâu thuẫn biện chứng vì chúng không phải là mâu
thuẫn bản chất mà chỉ là hình thức.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn:
8


+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng phong phú
* Quá trình vận động của mâu thuẫn
* Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Sự thống nhất:
+ Các mặt đối lập nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối
lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Vì vậy các mặt
đối lập bao giờ cũng có nhân tố giống nhau, đồng nhất với nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn
ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các lực lượng đối lập.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Đó là quá trình bài trừ,
phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Quá trình ấy có thể chia thành nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng của nó
+ Trong một mâu thuẫn cụ thể không phải lúc nào 2 mặt đối lập cũng đấu tranh
gay gắt với nhau. Chỉ có 2 mặt nào có liên hệ với nhau có khuynh hướng phát triển đối
lập nhau thì mới đấu tranh, loại trừ nhau.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập là 1 quá trình diễn ra nhiều giai đoạn, cuối

cùng đi đến chỗ các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau.
→ Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập.Thống nhất là tiền đề là điều kiện cho các mặt đối lập đấu tranh với nhau, để triển
khai mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn. Nó tạo ra sự liên kết gắn bó chặt chẽ các mặt đối
lập. Nhờ đó mà tác động qua lại đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau. Đấu tranh mới thúc
đẩy sự phát triển mới tạo ra sự biến đổi của sự vật.
Lênnin: thống nhất là tương đối, đấu tranh là tuyệt đối. Nhưng trong thống nhất đã
chứa đựng đấu tranh, đấu tranh mới tạo lên động lực phát triển của xã hội, sự vận động
và phát triển của sự vật.
- Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
+ Mâu thuẫn bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh, 2 mặt này không tách rời
nhau trong quá trình vận động và phát triển. Sự tác động qua lại của các mặt đối lập
làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi mâu thuẫn phát triển đỉnh điểm nó được giải quyết,
sự vật vận động và phát triển..
+ Lúc mới đầu xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối
lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn
9


nhau. Mâu thuẫn được giải quyết.Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay bằng thể
thống nhất mới,sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời.
→ Sự vận động và phát triển bao giờ cũng thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính
thay đổi của sự vật. Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát
triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn phát hiện đúng bản chất sự vật phải đi sâu vào nghiên cứu mâu thuẫn sự
vật. Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện (về quá trình phát sinh, phát triển,
vai trò, vị trí) các mặt đối lập của nó.

- Thúc đẩy sự vật phát triển phải giải quyết mâu thuẫn, không điều hoà mâu thuẫn.
- Phải giải quyết mâu thuẫn đúng lúc đúng chỗ không được nóng vội khi chưa đủ điều
kiện.
- Giải quyết mâu thuẫn trong xã hội chống bệnh giáo điều, máy móc giải quyết
mâu thuẫn một cách dập khuân.
Câu 6. Quy luật phủ định của phủ định
Vai trò của quy luật phủ định của phủ định: Chỉ ra xu hướng vận động và phát
triển của sự vật
* Khái niệm phủ định, phủ đinh biện chứng
- Phủ định theo nghĩa thông thường: Phủ định được hiểu là gạt bỏ một cái gì đó,
thủ tiêu cái gì đó.Sự phủ định thông thường không bao hàm sự phát triển.
- Theo quan điểm siêu hình: Hiểu phủ định như là sự can thiệp của những lực
lượng bên ngoài làm phá hủy, thủ tiêu khách thể, chấm dứt sự phát triển của nó. Coi
phủ định là bác bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm dứt sự vận động và phát triển của bản thân
sự vật, hiện tượng. Khi cần kế thừa thì họ kế thừa nguyên xi, không có phê phán cải
tạo.
- Khái niệm phủ định: Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng một sự vật khác
trong quá trình vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng: Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là
mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
- Đặc điểm phủ định biện chứng:
+ Phủ định biện chứng mang tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định
nằm ngay trong bản thân sự vật .
+ Phủ định biện chứng bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện cụ thể. Mỗi
loại sự vật có phương thức phủ định riêng biệt của nó, tuỳ theo tính chất của bản thân
sự vật đó.
10


+ Phủ định biện chứng mang tính kế thừa: cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ chứ

không phải từ hư vô. Nó kế thừa những yếu tố tích cực của sự vật bị thay thế. Những
yếu tố này gia nhập vào sự vật mới, nhưng chúng không giữa nguyên như cũ mà được
cải biến cho phù hợp
→ Như vậy phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ mà còn là sự
liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự khẳng định và phủ định, quá khứ với hiện tại. Phủ
định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và phát triển.
* Nội dung phủ định của phủ định
- Phát triển là một quá trình phủ định biện chứng từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp:
Trong sự vận động vĩnh viễn của vật chất, sợi dây chuyền các lần phủ định biện
chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới này lại trở thành cái cũ và
bị cái mới phủ định. Không có lần phủ định nào là cuối cùng. Sự phát triển của sự vật
thông qua những lần phủ định biện chứng tạo ra một khuynh hướng phát triển tất yếu
từ thấp đến cao.
- Sự phủ định trải qua nhiều giai đoạn. Song, xét đến cùng sự phủ định thông
qua hai lần… rồi dường như trở về với cái ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn.
+ Sự phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là bước trung
gian trong sự phát triển.
+ Sự phủ định lần thứ 2 tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn, nó thể
hiện rõ bước tiến lên của sự vật.
+ Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể rất khác nhau số lượng các lần phủ
định có thể lớn hơn 2…mới hoàn thành chu kỳ phát triển, nhưng vẫn có thể quy về 2
lần phủ định.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật
– xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà theo
đường “xoáy ốc”.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” biểu thị sự rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng
của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên.
Mỗi vòng xoáy dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn
của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối

tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường xoáy ốc.
→ Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ sự kế thừa giữa cái
khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển,
nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính
mới làm cho sự phát triển đi theo đường xoáy ốc.
* Ý nghĩa phương pháp luận
11


- Vì sự phát triển của sự vật không diễn ra theo một đường thẳng, mà nó quanh
co, phức tạp nhất là trong xã hội. Do đó, cần phải hiểu được đặc điểm của sự phát triển
để tác động tích cực phù hợp tạo điều kiện cho sự vật phát triển đi lên. Thông qua đó,
cung cấp chúng ta có cái nhìn biện chứng về xu thế phát triển của thời đại.
- Vì sự phát triển có tính kế thừa, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, cần kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực để hoàn thiện hơn trong quá trình
vận động và phát triển.
- Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý
thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố
chủ quan trong mọi hoạt động. Có niềm tin vào sự chiến thắng của cái mới, ủng hộ cái
mới tiến bộ, chống cái cũ lỗi thời
06 CẶP PHẠM TRÙ
Câu 7. Cặp phạm trù Cái chung và cái riêng
* Khái niệm:
- Cái riêng: dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất
định
- Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Chú ý: phân biệt cái riêng và cái đơn nhất
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng

- Cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan: nó không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người hay một lực lượng siêu nhiên nào cả.
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của mình: nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại ngoài cái riêng:
- Cái riêng tồn tại trong mối liên hệ với cái chung: Không có cái riêng nào tồn
tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Vì bất cứ cái riêng nào đều tồn tại
trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất định. Nó tham gia vào vô vàn mối liên hệ
qua lại giữa các sự vật hiện tượng trong số mối liên hệ ấy sẽ có những mối liên hệ dẫn
đến cái chung.
→ Như vậy sự vật hiện tượng riêng lẻ nào cũng bao hàm cái chung.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng
không gia nhập hết vào cái chung vì thế cái riêng phong phú hơn cái chung:
+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì nó khái quát những mối liên hệ bên trong,
những quy luật chung của sự vật
12


+ Cái riêng phong phú hơn cái chung: vì ngoài những đặc điểm chung nó còn
giữ những nét đặc thù mà chỉ riêng nó mới có.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật
Trong những điều kiện nhất định cái chung chuyển hoá thành cái riêng, cái
riêng thành cái chung. Cái chung thành cái đơn nhất, cái đơn nhất thành cái chung gắn
liền với sự vận động phát triển đi lên.Vì trong hiện thực khách quan nhất là trong xã
hội cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà xuất hiện dưới dạng cái
đơn nhất, về sau theo quy luật cái mới hoàn thiện dần thay thế cho cái cũ lúc đầu là cái
chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp mất đi và trở thành cái đơn nhất
* Một số kết luận về phương pháp luận:
- Tìm cái chung từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của con người.

- Cái chung là cái sâu sắc, bản chất chi phối cái riêng, nên trong nhận thức phải
tìm cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cái tạo cái riêng.
- Phải chú ý đến yếu tố cá biệt hoá của những cái riêng vì cái riêng không gia
nhập hết vào cái chung, vẫn giữ cho mình những đặc điểm riêng
- Không được tuyệt đối hoá cái chung cũng như cái riêng.Tuyệt đối hoá cái
chung dẫn đến giáo điều, tuyệt đói hoá cái riêng dẫn đến hữu khuynh, xét lại
- Cần tạo điều kiện để cái đơn nhất có lợi cho con người thành cái chung, và cái
chung bất lợi trở thành cái đơn nhất
Câu 8. Cặp phạm trù Nguyên nhân và kết quả
* Khái niệm nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân: là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra những biến đổi nhất định
- Kết quả: là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Điều kiện: bản thân nó không gây ra kết quả, nhưng là cái để đảm bảo kết quả sinh ra
* Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Mối quan hệ biện chứng nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan
của bản thân sự vật hiện tượng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quản của con người.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào đều có nguyên nhân của nó, nguyên nhân nằm ngay
trong chính bản thân nó Chính nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân
luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã
xuất hiện.Tuy nhiên không phải sự nối tiếp nhau về mặt thời gian và không gian cũng
là quan hệ nhân quả.Cái để phân biệt quan hệ nhân quả và quan hệ liên tiếp về mặt
thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ sản sinh ra nhau.
13


- Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả tuỳ thuộc vào hoàn cảnh
cụ thể

+ Một nguyên nhân trong điều kiện khác nhau có thể sinh ra những kết quả
khác nhau:
+ Một kết quả có thể được tạo bởi một hoặc nhiều nguyên nhân.
Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì
chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả làm cho kết quả xuất
hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng
khác nhau thì sẽ cản trở tác dụng của nhau, thậm trí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều
đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
- Có nhiều nguyên nhân tác động hình thành nên kết quả, phải biết phân loại
nguyên nhân. Có những nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo 2 hướng:
+ Thúc đẩy: sự hoạt động của nguyên nhân
+ Kìm hãm: sự hoạt động của nguyên nhân.
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau:Trong một sự vật hiện
tượng nào đó, trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối quan hệ khác là
kết quả và ngược lại. Trong quá trình vận động và phát triển vô tận của hiện thực: cái
là kết qủa của hiện tượng trước lại là nguyên nhân của hiện tượng sau.
* Một số kết luận về phương pháp luận:
- Tìm nguyên nhân sự vật hiện tượng phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện
tượng.
- Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
Muốn làm cho một hiện tượng xuất hiện cần tạo nguyên nhân và điều kiện để nguyên
nhân đó phát sinh tác dụng.
- Một kết quả được tạo bởi nhiều nguyên nhân vì thế phải biết phân loại nguyên
nhân để nắm được nguyên nhân chính làm sự vật phát triển, biết tạo ra sức mạnh từ

những nguyên nhân cùng chiều, hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động
tiêu cực

14


- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân, vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng
ta cần phải khai thác, tận dụng những kết quả đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy
nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích
Câu 9. Cặp phạm trù Tất nhiên và ngẫu nhiên
* Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên: là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất
quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể
khác được
- Ngẫu nhiên: là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất,
bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu nhiên hợp nhiều
hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có
thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế khác
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách khách quan, ở ngoài và độc lập
với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
+ Cái tất nhiên có tác dụng chi phối quá trình phát triển của sự vật
+ Cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới
dạng thuần tuý mà bao giờ cũng có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó
thể hiện ở chỗ cái tất nhiên vạch đường đi của minh thông qua vô số cái ngẫu nhiên,
còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho
cái tất nhiên.
→ Như vậy ở đây cái tất nhiên là khuynh hướng chung của sự phát triển, khuynh
hướng đó không tồn tại thuần tuý, biệt lập mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu

nhiên. Cái ngẫu nhiên không tồn tại thuần tuý mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất
nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau:Tất nhiên và ngẫu nhiên
không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong
những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại.
- Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính chất tương đối. Trong quan
hệ này nó biểu hiện là cái tất nhiên, trong quan hệ khác biểu hiện là cái ngẫu nhiên và
ngược lại.
* Một số kết luận về phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải dựa vào cái tất nhiên, nhưng
không thể bỏ quan cái ngẫu nhiên, vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối quá trình vận
động và phát triển của sự vật nhưng có ảnh hưởng đến quá trình phát triển đó. Trong
15


hoạt động thực tiễn cần phải có phương án hành động dự phòng cho các trường hợp
các sự ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện. Có như vậy mới tránh được bị động trong hoạt
động thực tiễn.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải nhận thức cái tất nhiên, muốn vậy phải thông
qua vô số cái ngẫu nhiên:
- Cần tạo điều kiện cho cái tất nhiên thành cái ngẫu nhiên và ngược lại tuỳ theo
yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Câu 10. Cặp phạm trù Nội dung và hình thức
* Khái niệm nội dung và hình thức
- Nội dung: là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố những quá trình tạo nên
sự vật.
- Hình thức: là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối
liện tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Sự thống nhất gắn bó khăng khít giữa nội dung và hình thức:

- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không
có hình thức thuần tuý không chứa đựng nội dung và cũng không có nội dung lại
không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào hình thức đó.
+ Nội dung gắn bó với hình thức vì: nội dung bao gồm những mặt, những yếu
tố, những quá trình tạo nên sự vật. Còn hình thức chính là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố ấy. Như vậy các yếu tố góp phần tạo nên nội dung
vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức.
+ Nội dung và hình thức trong những điều kiện khác nhau 1nội dung có thể
chưa đựng nhiều hình thức khác nhau và ngược lại một hình thức có chuyển tải nhiều
nội dung:
- Nội dung và hình thức tồn tại bao giờ cũng có độ lệch:
+ Nội dung và hình thức không tách rời nhau nhưng không phải vì thế lúc nào nội
dung và hình thức cũng phải phù hợp với nhau, bởi nội dung là yếu tố động. Các yếu tố
tạo nên nội dung luôn trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng trong khi đó hình
thức lại có tính chất tương đối ổn định, bền vững. Cho nên giữa nội dung và hình thức bao
giờ cũng có độ lệch.
+ Nội dung và hình thức cũng không bao giờ có sự không phù hợp hoàn toàn, vì trong
trường hợp sự thống nhất tương đối giữa nội dung và hình thức bị phá vỡ, sự vật sẽ không
còn nữa.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và
phát triển của sự vật:
+ Nội dung bao giờ cũng đòi hỏi hình thức phải phù hợp với nó.
16


+ Nội dung bao giờ cũng là mặt động, nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi.
Còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật. Sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự
biến đổi, phát triển của nội dung. Hình thức biến đổi chậm hơn. Khi nội dung biến đổi
thì hình thức cũng buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
* Một số kết luận về mặt phương pháp luận:

- Không được tách rời, tuyệt đối hoá giữa nội dung và hình thức, đặc biệt cần
chống chủ nghĩa hình thức.
- Một nội dung trong điều kiện khác nhau được thể hiện bằng nhìêu hình thức
khác nhau cho nên phải tận dụng mọi hình thức có thể, kể cả hình thức cũ phục vụ cho
nội dung mới.
- Khi xem xét sự vật cần cứ trước hết vào nội dung nhưng cũng phải chú ý đến hình
thức, do vậy phải chú ý mối quan hệ nội dung và hình thức có sự điều chỉnh kịp thời.
Câu 11. Cặp phạm trù Bản chất và hiện tượng
* Khái niệm bản chất và hiện tượng
- Bản chất: là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật
- Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất luôn bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là biểu hiện
bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện
tượng, đồng thời không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Lênin
đã viết “bản chất hiện ra và hiện tượng thì có tính bản chất”.
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện
tượng nào cũng có sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó ít hoặc nhiều, bản chất và
hiện tượng căn bản là phù hợp với nhau.
+ Bản chất bộc lộ mình qua hiện tượng nhất định. Bản chất khác nhau thì bộc
lộ qua hiện tượng khác nhau.
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện cũng thay đổi.Khi bản chất
biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng biến mất. Nếu xuất hiện bản chất mới thì
cũng xuất hiện hiện tượng mới trong đó bản chất mới ấy sẽ bộc lộ mình.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Sự đối lập bản chất và hiện tượng trước hết là sự đối lập giữa cái bên trong và
cái bên ngoài: Bản chất bao giờ cũng là mặt ẩn giấu sâu xa bên trong của sự vật, vì thế
nó sâu sắc. Hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan, hiện tượng thường

xuyên thay đổi vì thế nó rất phong phú.
17


+ Mẫu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn là bản chất phản ánh cái chung,
cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật còn hiện tượng phản ánh cái
riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau
tuỳ theo sự đổi của điều kiện hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất,
còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định còn hiện tượng
thường xuyên biến đổi.
- Tất cả hiện tượng đều phản ánh bản chất, nhưng biểu hiện một cách khác
nhau. Hiện tượng không phản ánh đầy đủ bản chất, có hiện tượng chỉ phản ánh bản
chất cục bộ thậm trí sai lạc. Bản chất đôi khi bị xuyên tạc bởi vẻ bên ngoài
- Bản chất sự vật thì luôn tồn tại trong quá trình phát sinh phát triển của sự vật,
chỉ khi nào sự vật mất đi thì bản chất mới thay đổi. Nhưng trong điều kiện khách quan
mà bản chất của nó được biểu hiện khác nhau. Hiện tượng thi luôn thay đổi, còn bản
chất thì giữ nguyên có thay đổi thì là thay đổi ít và chậm.
* Mốt số kết luận về mặt phương pháp luận
- Nhận thức bản chât sự vật phải xuất phát từ những sự vật hiện tượng, phải biết
phân tích tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng nhất là hiện tượng điển hình mới
hiểu rõ được bản chất của sự vật.
- Nhận thức sự vật phải tìm hiểu bản chất của sự vật không chỉ dừng lại ở hiện
tượng. Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương
thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng.
- Hiện tượng phong phú, 1 bản chất biểu hiện rất nhiều hiện tượng cho nên phải
chú ý đến hiện tượng điển hình để xem xét bản chất của sự vật
- Bản chất sự vật có thể thay đổi thì phương thức tác động vào sự vật cũng
phải thay đổi.
Câu 12. Cặp phạm trù Khả năng và hiện thực
* Khái niệm khả năng và hiện thực

- Khả năng là phạm trù chỉ những cái chưa có, chưa tới nhưng sẽ có sẽ tới khi
có điều kiện tương ứng
- Hiện thực là phạm trù chỉ những cái hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực cùng tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong qúa trình phát triển của
sự vật Quá trình phát triển chính là qúa trình mà trong đó khả năng biến thành hiện
thực, còn hiện thực này vì những quá trình phát triển lại sinh ra khả năng mới, khả
năng mới trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới… và cư như
thế tiếp tục mãi tạo thành một quá trình vô tận.
18


- Cùng một điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ có một khả năng. Ngoài những khả năng vốn có ở sẵn trong
sự vật, trong điều kiện đã có nào đấy, khi có thêm những điều kiện mới bổ sung thì sẽ
xuất hiện thêm những khả năng mới
- Ngay bản thân mỗi khả năng cũng có sự thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi tuỳ
thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể
- Để khả năng thành hiện thực phải có một tập hợp các điều kiện
* Một số kết luận về mặt phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng
để đưa ra chủ trương, phương hướng hành động của mình..
-Một hiện thực bộc lộ nhiều khả năng, lựa chọn kỹ các khả năng sẽ là khuynh
hướng phát triển của sự vật
- Trong hoạt động xã hội phải chú ý đến phát huy nhân tố, nguồn lực con người
để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy xã hội phát triển.
- Để khả năng thành hiện thực thì chúng ta phải tạo điều kiện cần thiết.
Câu 13. Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất

* Khái niệm LLSX, QHSX
- Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phản ánh
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, đại diện cho mặt tự nhiên của Phương
thức sản xuất.
- Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái xuất xã hội). QHSX bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối
kết quả của quá trình sản xuất đó. Những QHSX này tồn tại trong mối quan hệ thống
nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất.
* Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng,
trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.
LLSX và QHSX là hai mặt cơ bản tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó
LLSX là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn QHSX là “hình thức xã hội”
của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực, không thể có sự kếp hợp các nhân tố của
quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên
lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Đây là yêu cầu tất yếu,
phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
19


Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo nguyên tắc khách
quan : QHSX phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của LLSX trong mỗi giai đoạn
lịch sử xác định ; bởi vì, QHSX chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất,
còn LLSX là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Tuy nhiên, QHSX, với tư
cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có khả năng tác
động trở lại sự vận động, phát triển của LLSX. Sự tác động này có thể diễn ra theo
chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không
phù hợp của QHSX với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển

LLSX. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác
dụng tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả
năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội xác định,
LLSX của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định, phù hợp của QHSX
đối với LLSX càng cao thì LLSX càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát
triển của LLSX lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những QHSX
từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nó. Từ
chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở thành những xiềng
xích của các LLSX.
Như vậy, mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện
chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tê - xã hội của quá trình sản
xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những
khác biệt đối lập,xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải
quyết theo nguyên tắc QHSX phải phù hợp với sự phát triển của LLSX. Sự vận động
của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy luật, “phủ định của phủ định”, khiến cho
quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự,
lại vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình
độ ngày càng cao hơn.
Câu 14. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
* Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
* Khái niệm cơ sở hạ tầng (CSHT) dùng để chỉ toàn bộ những QHSX hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
* Khái niệm kiến trúc thượng tầng (KTTT) dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết
cấu các hình thái ý thức xã hội ( đạo đức, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…)
20



cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng ( đảng phái, giáo hội, nhà nước…),
được hình thành trên một CSHT kinh tế nhất định.
KTTT của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể được phân tích từ những
giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi phối lẫn nhau của
chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy KTTT của một xã hội bao gồm : hệ thống
các hình thái ý thức xã hội và các thiết chế chính trị tương ứng của chúng.
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức
chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai
thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống KTTT của xã hội.
* Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện
kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT
và đồng thời KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại CSHT kinh tế của xã hội.
* Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT được thể hiện trên nhiều phương
diện : tương ứng với một CSHT sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp, có tác dụng bảo vệ
CSHT đó. Những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi
tương ứng trong CSHT. Tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu
thuẫn trong hệ thống KTTT. Như vậy, CSHT quyết định KTTT, còn KTTT là sự phản
ánh đối với CSHT, phụ thuộc vào CSHT,
Tính chất phụ thuộc của KTTT vào CSHT có nguyên nhân từ tính tất yếu kinh
tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính
trị, pháp luật.... hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại
phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các LLSX khách quan của
xã hội.
* Vai trò tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể thông qua nhiều phương thức.
Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong KTTT, phụ thuộc vào vị trí, vai

trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên trong điều kiện KTTT có yếu tố nhà
nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường
phải thông qua nhân tố nhà nước mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế
của nó. Nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới CSHT
kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc KTTT có thể diễn ra theo nhiều xu hướng,
thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều đó phản
ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối
21


lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế
độ xã hội hiện tại.....
Câu 15. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội.
* Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện
sinh hoạt vật chất
Ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
nhất định.
* Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Một trong những công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phát triển chủ
nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết một
cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Theo C.Mác :
“...không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại
đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,
bằng sự xung đột hiện có giữa các LLSX xã hội và những QHSX xã hội”.
Ngược lại, theo quan điểm duy vật lịch sử thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội ; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã

hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội , những quan
điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,v.v..tất yếu sẽ
biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những
lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau
của đời sống vật chất quyết định.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại
ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng,
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà
thường thông qua các khâu trung gian.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng định tính quyết định
của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ những nội dung của tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
được phân tích trên các phương diện chính sau đây :
- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã hội biến
đổi sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên, không phải trong
22


mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi
của ý thức xã hội; trái lại, nhiều yếu tố của tồn tại xã hội có thể còn tồn tại rất lâu dài
ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi căn bản. Sở dĩ như vậy
là vì :
Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói
chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự
biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động
thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.
- Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một
tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chỉ chú ý đến
các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó.
- Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm
cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích
được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
- Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm mà còn
bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế”. Theo
Ph.Ăngghen : “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật,v.v.. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng với
sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể. Cũng do đó, ở đây
cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối
với sự phát triển xã hội.
Câu 16. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức
(Tóm tắt lại ngắn gọn hơn)
* Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
23


Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính mục đích, mang tính

lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Phân tích định nghĩa:
+ Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất: Có nghĩa là nó đối lập với hoạt động
tinh thần nhưng không tách rời hoạt động tinh thần mà ngược lại có sự gắn bó mật
thiết với nhau.
+Thực tiễn là hoạt động bản chất của con người và mang tính xã hội. Nó khác
hoàn toàn với hoạt động bản năng. Hoạt động bản năng là hoạt động khi sinh ra đã có
mà không cần học tập rèn luyện ( bú mẹ là hoạt động bản năng). Còn hoạt động thực
tiễn phải trải qua quá trình học tập rèn luyện mới có được. Nó là hoạt động bản chất
của con người vì chỉ con người mới có hoạt động thực tiễn, con người không có hoạt
động thực tiễn.
+ Hoạt động thực tiễn có tính mục đích: đó là hoạt động tác động cải tạo thế
giới để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của con người. Vì thế không bao giờ hoạt động
thực tiễn là hoạt động không có mục đích.
+ Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử do vậy trình độ và hình thức hoạt động thực
tiễn ở
- Các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản ( hướng dẫn sinh viên tự học)
+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị xã hội
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học
Các dạng hoạt động thực tiễn này có mối liên hệ mật thiệt với nhau. Trong đó
hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động thực tiễn đầu tiên và cũng là hoạt động quan
trọng nhất. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội trong mọi thời kỳ. Hoạt
động chính trị hay hoạt động thực nghiệm khoa học đều phục vụ hoạt động sản xuất
vật chất.
* Nhận thức và các trình độ nhận thức.
* Bản chất của nhận thức:
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.
Đã xác định được chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức:
+ Chủ thể nhận thức: là con người

+ Khách thể nhận thức: là thế giới khách quan. Nó là cơ sở, nguồn gốc của
nhận thức cuả con người. Khách thể nhận thức có thể là thế giới vật chất cũng có thể là
thế giới tinh thần.
+ Nhận thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào đầu óc của con người
từ đó sinh ra nhận thức.
24


- Nhận thức không phải là sự phản ánh đơn giản nhất thời, thụ động mà là quá
trình phức tạp mang tính tích cực sáng tạo
+ Nhận thức không phải là sự phản ánh nguyên xi mà là sự phản ánh có chọn
lọc theo mục đích, theo khả năng của con người.
+ Nhận thức là sự phản ánh phức tạp: là một quá trình không ngừng giải quyết
mâu thuẫn. Lênin đã chỉ ra rằng nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết đến cái
biết, đi từ chưa sâu sắc đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất, tư bản chất cấp I đến
bản chất cấp II..… cứ như thế là một quá trình nối tiếp nhau.
+ Nhận thức là sự phản ánh mang tính sáng tạo: dựa trên các kỹ năng phân tích
tổng hợp những cái đã có sẵn trong hiện thực khách quan để hình dung ra những cái
chưa có, chưa biết nhưng cần phải có cho con người (sự sáng tạo của nhận thức)
+ Nhận thức không phải là một quá trình nhất thời :nghĩa là tất cả tri thức có
được của con người, không phải ngay một lúc mà có được mà là một quá trình lâu dài.
Thực tiễn đã chứng minh rằng không có điều con người không thể biết mà chỉ có
những điều con người chưa biết mà thôi.
- Nhận thức không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Kết luận: Bản chất của quá trình nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào đầu óc con người. Nó là một quá trình lâu dài, phức tạp, sáng tạo. Con
người hoàn toàn có khả năng nhận thức thế giới từ đó có hoạt động cải tạo thế giới.
* Các trình độ của nhận thức
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
- Nhận thức kinh nghiệm: là loại nhân thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp

các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Nhận thức kinh nghiệm nảy sinh trong
quá trình đời sống và của thực tiễn do đó luôn mới mẻ và không ngừng phát triển.
Trong tri thức kinh nghiệm có hai loại tri thức đó là : tri thức kinh nghiệm thông
thường và trị thức kinh nghiệm khoa học:
+ Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan
sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và lao động sản xuất
+ Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu nhận được từ sự khảo sát
các thí nghiệm khoa học
- Hai loại tri thức này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong nhận thức kinh
nghiệm.
- Tri thức kinh nghiệm là cơ sở để tổng kết khái quát thành lý luận cũng là căn
cứ để chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung sửa đổi phát triển hệ thống lý luận cũ
- Hạn chế của tri thức kinh nghiệm:

25


×