Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông triệu sơn 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.51 KB, 21 trang )

Phần

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Mở đầu
Một

I. Lí do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.

Nội dung

Hai

Ba

I. Cở sở lí luận.
II. Cơ sở thực tiễn (thực trạng).
III. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo
đức học sinh lớp chủ nhiệm.
1. Vai trò của GVCN trong công tác giác dục đạo đức học sinh.
1.1 Vai trò chung..
1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong sự phối kết hợp với
các đoàn thể, giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh.
1.3. Vai trò của GVCN đối với lớp chủ nhiệm.
2. Đặc điểm tình hình lớp.
2.1. Đặc điểm chung.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn


3. Những biểu hiện và nguyên nhân vi phạm đạo đức của HS.
3.1. Những biểu hiện.
3.2. Nguyên nhân:
4. Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp chủ nhiệm.
4.1. Sự thân thiện của người giáo viên khi nhận lớp và trong suốt
quá trình chủ nhiệm.
4.2 Lựa chọn Ban cán sự lớp.
4.3. Lập sơ đồ lớp học.
4.4. Hoàn thiện các loại hồ sơ, sổ sách cho lớp chủ nhiệm.
4.5. Phương pháp nêu gương.
4.6. Huy động nội lực tập thể.
4.7. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoài giờ.
4.8. Giáo dục đạo đức học sinh bằng cái “Tâm” của người
GVCN.
5. Những kết quả ban đầu thực nghiệm đề tài.

Kết luận, kiến nghị.
1.Kết luận
2. Kiến nghị và đề xuất.
Tài liệu tham khảo
Những Sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đông khoa học xếp loại
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU

Trang
1
2

3

5


6

7
8
12
13
146
17
18
20

1


I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Ngày nay, cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, của nền kinh tế thị
trường trong xu thế hội nhập thì sự nghiệp Giáo dục và đào tạo càng được chú
trọng, đầu tư và vẫn luôn là “quốc sách hàng đầu” của Đảng và Nhà nước.
Nhưng để Giáo dục mãi mãi là quốc sách hàng đầu thì tất yếu phải có những
đột phá, những đổi mới cần thiết. Tại Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI , Đảng
ta đã các định“Đổi mới căn bản toàn diện về Giáo dục đào tạo, thực hiện đồng
bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng Giáo dục đào tạo, thực
hiện đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp
thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng, đạo
đức lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội…”[1]. Đây là định hướng cơ bản, thiết thực đối với
ngành Giáo dục đào tạo nói chung và vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh nói
riêng.

Đại thi hào Nguyền Du đã quan niệm “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”
[2] và Thân Nhân Trung (danh sĩ – tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tông, trong
“Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại bảo thứ ba”) cũng đã
khẳng định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” [3]. Điều đó cho thấy, bất
kỳ thời đại nào, xã hội nào, hoàn cảnh nào thì cái Đức – cái Tâm con người
cũng luôn được đề cao, coi trọng và được đặt lên hàng đầu. Một con người có
cả Đức lẫn Tài là con người được mọi người ngợi ca, trân trọng, ngưỡng mộ,
yêu mến. Một đất nước có nhiều Hiền – Tài là đất nước thịnh vượng, phát triển.
Và một trường học có nhiều trò ngoan, trò giỏi là một địa chỉ đáng tin cậy của
nhân dân. Vì vậy, song song với việc nâng cao trí tuệ, văn hóa chúng ta cần tập
trung giáo dục đạo đức cho học sinh, nhất là học sinh Trung học phổ thông
(THPT).
2. Một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất ở các trường THPT hiện nay là
đạo đức học đường của một bộ phận học sinh đang bị xuống cấp dẫn đến tình
trạng bạo lực học đường, a dua đùa đòi, lôi kéo bạn bè tham gia vào các tệ nạn
xã hội, vi phạm pháp luật, bỏ học đi chơi, xúc phạm giáo viên…….. Đây là
những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân cách đạo đức học sinh. Điều này
không chỉ gây hoang mang cho dư luận xã hội mà còn gióng lên hồi chuông
cảnh báo về lối sống đạo đức của lứa tuổi học sinh THPT. Để giáo dục đạo đức
học sinh, giúp các em trở thành một người con người toàn diện, có đủ cả Đức
lẫn Tài, thành con người vừa “hồng” vừa “chuyên” trước khi bước ra ngoài xã
hội thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong đó tôi thiết nghĩ “Vai trò của giáo viên chủ nhiệm” là vô cùng quan
trọng.
3. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn đâu đó những quan niệm sai lầm về giáo
viên chủ nhiệm (GVCN), chưa nhận thấy tầm quan trọng của GVCN trong việc

2



quản lý, giáo dục, rèn luyện nhân cách người học. Ở một số giáo viên, công tác
chủ nhiệm lớp vẫn còn được coi là vừa khó, vừa nặng; vẫn còn tồn tại chuyện
phụ huynh học sinh (PHHS ) xúc phạm, có những biểu hiện thô bạo với GVCN
con mình; vẫn còn có những HS coi thường, vô lễ, thậm chí đánh lại GVCN
của mình. Và cũng còn những GVCN lớp nóng nảy, thô bạo với HS như: cùng
một lúc đuổi nhiều HS ra khỏi giờ học, lấy thước hay rút dép đánh học trò
trong lớp hay bắt HS súc miệng bằng nước giặt giẻ lau bảng như trường hợp
cô giáo Nguyễn Thị Minh Hương trường Tiểu học ở Hải Phòng….[4]. Ngược
lại cũng có những GVCN quá dễ dàng, buông lỏng quản lý, xa rời lớp chủ
nhiệm, thiếu trách nhiệm với chức năng đã được giao.... để cho HS tự do vi
phạm nội quy nề nếp trường lớp, vi phạm đạo đức người học, thậm chí bị lôi
kéo vào các tệ nạn xã hội…
Vậy làm thế nào để giáo dục đạo đức HS? Làm thế nào để giúp các em trở
thành con ngoan, trò giỏi, một con người biết tự mình từng bước hoàn thiện
nhân cách, có đủ cả Tài lẫn Đức, biết sống có lý tưởng, có mục đích, ước mơ,
biết vươn lên trong cuộc sống, phấn đấu vì mình, vì mọi người?
Từ những trăn trở đó, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò của giáo viên chủ
nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Trung học phổ
thông Triệu Sơn 5”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Qua đề tài này, người viết xin nêu lên Vai trò của GVCN lớp, chỉ ra nguyên
ngân dẫn đến HS vi phạm đạo đức người học và đề ra một số biện pháp nhằm
giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Triệu Sơn 5.
Từ đó, giúp mọi người có cái nhìn toàn diện về GVCN và nâng cao sứ mệnh
của người GVCN trong các hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu vai trò của GVCN trong việc giáo dục đạo đức học sinh (HS).
- Tư tưởng đạo đức của HS lớp A3 (2014-2917), 10A7 (2017 – 2018).
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận qua tìm hiểu về luật giáo dục, về nhiệm vụ,

quyền hạn của GVCN.
- Phương pháp quan sát, tìm hiểu, điều tra, phân tích, xử lý.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

PHẦN HAI. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.

3


- Đạo đức là “hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng,
của xã hội”[5]. Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức từ
những đòi hỏi bên ngoài của xã hội thành những đòi hỏi bên trong của mỗi cá
nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học
sinh có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bảo lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức
công dân, lòng yêu nước…”[6].
- Đạo đức là thước đo nhân cách, phẩm giá con người, là nền tảng để xã hội
phát triển. Giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp các em nhận thức được các
chuẩn mực đạo đức của xã hội, rèn luyện kỹ năng hành vi theo các chuẩn mực
đó và hình thành thái độ, ý thức trong học sinh về đạo đức, giúp các em sống
thiện sống có ích, có ước mơ, hoài bảo, như Bác Hồ đã khẳng định “Có tài mà
không có đức là người vô dụng”.
- Ở chương trình các môn văn hóa Phổ thông có rất nhiều môn học hướng vào
giáo dục đạo đức người học như: Ngữ Văn, Giáo dục công dân, Lịch sử… và
cũng có nhiều bài viết, đề tài bàn về phương pháp giáo dục đạo đức học sinh

như đề tài: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác giáo viên chủ nhiệm (của
cô Trương Thị Minh Nguyệt –THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội), Kinh
nghiệm giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm
của cô Lê Thị Hạnh, trường THPT Thọ Xuân 5 [6]. Tuy nhiên các đề tài chỉ
mới đi vào một khía cạnh nhỏ, một góc nhỏ chưa có cài nhìn bao quát rộng lớn
về phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT không phải là ngày một ngày hai, càng
không chỉ một vài ba em mà tất cả các em đều được giáo dục để các em không
chỉ phát triển về trí tuệ, thể chất mà còn phải nuôi dưỡng phần “hồn” trong
mỗi con người.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN (thực trạng).
1. Thuận lợi:
- Thuận lợi lớn nhất của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT
Triệu Sơn 5 là được sự quan tâm, chú trọng của BGH, các đoàn thể và được
GVCN đặt lên hàng đầu. Để có thể làm tốt công tác giáo dục đạo đức HS, nhà
trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đấu mối với Công an xã Đồng Lợi,
công an huyện Triệu Sơn, xây dựng mô hình tự quản, thành lập Ban nề nếp,
đặc biệt là bố chí và giao trách nhiệm chủ nhiệm cho những GV có năng lực
trong quản lý, giáo dục HS và tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghẹ, thể
thao, hành trình khám phá tri thức….để các em được học tập, vui chơi, khám
phá và từng bước rèn luyện nhân cách đạo đức.
- Đội ngũ CBGV của nhà trường còn trẻ, năng nổ, nhiệt tình, sáng tạo, chuyên
tâm trong công việc, bám lớp, bám trường, gần gũi, yêu quý, quan tâm HS,

4


luôn để ý uốn nắn, giáo dục những biểu hiện vi phạm đạo đức người học, từng
bước giúp các em nhận thức sâu sắc giá trị đạo đức con người, không để “cái
nết đánh chết cái đẹp”.

- Các em đều là con em nông thân, chất chân quên vẫn được nuôi dưỡng, gìn
giữ. Điều kiện khó khăn về kinh tế lại là thuận lợi giúp các em tránh xa những
cám dỗ, tệ nạn, những ham muốn vật chất nhất thời….
2. Khó khăn:
- Khó khăn lớn nhất và cũng khó kiểm soát nhất ảnh hưởng đến việc xuống
cấp về đạo đức và khó giáo dục đạo đức cho HS đối với nhà trường nói chung
và GVCN nói riêng là tình trạng phát triển của mạng xã hội, thế giới ảo, phim
ảnh không lành mạnh, mang tính kích động bạo lực, mang tư tưởng, lối sống
buông thả, a dua…. rồi các tệ nạn xã hội đang từng bước du nhập vào đời sống
sinh hoạt, thâm nhập vào nếp nghĩ, nếp cảm của HS – dù muốn hay không các
em ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng.
- Do thời kì kinh tế thị trường, vấn đề vật chất tiền bạc được đặt lên hàng đầu
nhiều phụ huynh mãi “miệt mài” kiếm tiền, không dành thời gian, không quan
tâm đến con em mình mà uỷ thác tất cả lại cho nhà trường, cho GVCN, thậm
chí có PH còn thương con quá đà, nuông chiều, tin tưởng con quá mức nên đã
bảo vệ cả cái sai của con em mình hoặc có phụ huynh (PH) tìm cách thoái thác
trách nhiệm, đỗ lỗi cho hoàn cảnh, thầy cô, bạn bè….nếu con mình vi phạm.
- Công tác giáo dục đạo đức HS còn chưa đồng bộ ở đội ngũ CBGV trong nhà
trường. Nhiều giáo viên bộ môn cho rằng đó là việc của GVCN, của Ban nề
nếp hoặc mang tư tưởng “sống chết mặc bay”, nhỡ đụng vào vạ lây thì khổ nên
đôi khi thờ ơ, bỏ qua những hành vi vô lễ, thiếu văn hóa của các em… đó là cơ
hội cho những vi phạm đạo đức HS nảy mầm phát triển.
- Bản thân HS – lứa tuổi muốn khẳng định mình trước đám đông, muốn thể
hiện “bản lĩnh”, thích chơi trội bằng cách gây gỗ đánh nhau, nhuộm tác xanhđỏ, ăn mặc lố lăng, nói năng vô lễ, bỏ học, đi quá xa về mặt tình cảm….
Từ những thực trạng trên, qua đề tài này tôi xin được nêu lên “Vai trò của
GVCN”, chỉ ra “nguyên nhân và những biện pháp giáo dục đạo đức cho học
sinh ở trường THPT Triệu Sơn 5”. Hy vọng sẽ góp phần làm phong phú, đa
dạng phương pháp giáo dục đạo đức cho HS THPT mà các GVCN, nhà trường
và cả xã hội đang quan tâm, trăn trở.


III. VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM.

5


1. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giác dục đạo đức học
sinh [7].
1.1 Vai trò chung.
- GVCN phải xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục nhằm thức đẩy sự tiến bộ của cả lớp, của từng HS.
- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch nhà trường và lớp đã xây
dựng.
- Phối hợp chăt chẽ với gia đình HS, nhà trường, đoàn thanh niên, ban nề
nếp…để cùng hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện của HS.
- Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình lớp - HS với BGH, với PHHS.
- Nhận xét, đánh giá, xếp loại HS cuối kỳ, cuối năm đề nghị nhà trường khen
thưởng, kỷ luật.
1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong sự phối kết hợp với các đoàn thể,
giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh.
- Giáo dục HS phải đồng bộ trên tinh thần trách nhiệm của cả nhà trường, gia
đình và xã hội. GVCN phải phối kết hợp với GVBM, Ban nề nếp để nắm bắt
tình hình lớp mình, kịp thời phát hiện, khắc phục, ngăn chặn những biểu hiện
vi phạm nội quy trường lớp, vô lễ với GV, … để giáo dục.
- Thường xuyên thông báo việc học tập và rèn luyện của HS theo tuần, tháng,
kỳ để HP nắm được tình hình của con em mình qua hệ thống tin nhắn smas,
qua các kỳ họp phụ huynh. Việc giữ mối liên lạc với gia đình HS sẽ giúp
GVCN nắm bắt được hoàn cảnh, tính cách HS và tìm được sự đồng thuận,
thống nhất, tiếng nói chung trong quản lý, giáo dục đạo đức cho HS. Có như
vậy mới tạo được niềm tin ở PH và việc uốn nắn, cảm hóa, chinh phục được

trái tim HS sẽ dễ dàng hơn nhiều.
- GVCN còn phải chịu trách nhiệm trước nhà trường, PH trong việc giáo dục
đạo đức HS để BGH tin tưởng vào việc giao nhiệm vụ của mình, để PH yên
tâm gửi con em họ cho nhà trường, cho GVCN, để HS biết ý thức về trách
nhiệm, bổn phận của một người con, một học trò biết lễ nghĩa, uống nước nhớ
nguồn, biết ước mơ và quyết tâm theo đuổi lí tưởng.
1.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm đối với lớp chủ nhiệm.
- GVCN là người trực tiếp quản lý, giáo dục đạo đức HS trong thời gian được
phân công làm công tác chủ nhiệm (có thể 1 năm, 3 năm).
- Là người lên kế hoạch, tổ chức, giám sát các hoạt động giáo dục của lớp.
- Tìm hiểu, gần gũi, tâm sự để biết được hoàn cảnh, tính cách HS, để có biện
pháp giáo dục phù hợp.
- Là cầu nối giữa HS với GVBM để phát hiện ra năng lực, sở trường, điểm
mạnh, điểm yếu để bồi dưỡng, nâng cao chất lượng học lực cho HS và có biện
pháp giáo dục đạo đức phù hợp và đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh chính
xác, công tâm.
Thiết nghĩ với tất cả vai trò, chức năng, nhiệm vụ trên, có thể khẳng định
GVCN là một nhà quản lý có năng lực, trách nhiệm, tình yêu nghề, yêu trò

6


thiêng liêng cao cả, xứng đáng là người thắp sáng nhân cách toàn vẹn của mọi
thế hệ, là “kỹ sư của tâm hồn”.
2. Đặc điểm tình hình lớp.
2.1. Đặc điểm chung.
- Chủ nhiệm lớp A3 (2014-2917), 10A7 (2017 – 2018).
- Cả hai lớp HS đều theo học khối D, ý thức học tập, rèn luyện của các em
nhìn chung đều cao.
- Tuy nhiên nhiều học sinh (nhất là học sinh Nam) ý thức học tập, rèn luyện

còn thấp dẫn đến tình trạng hay vi phạm nội quy trường lớp, đạo đức học sinh.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn:
- Thuận lợi.
+ HS ngoan, có ý thức học tập, rèn luyện, có tinh thần xây dựng tập thể, tinh
thần trách nhiệm cao trong các phong trào, hoạt động do Nhà trường, Đoàn
trường tổ chức.
+ Giữa GVCN, GVBM và Hội PHHS có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường
xuyên trong công tác giáo dục đạo đức HS.
+ Sự quan tâm , chỉ đạo sát sao, giúp đỡ kịp thời của BGH, đoàn thể.
- Những khó khăn:
+ Đa phần HS đều là con em nông dân, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó
khăn, nhiều em thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo; mồ côi cha, mẹ, thậm chí mồ
côi cả cha lẫn mẹ, bố mẹ đi làm xa, bố mẹ li hôn….
+ Nhiều gia đình không quan tâm tới việc học tập của con em mình, hoặc bất
lực trong giáo dục con nên bỏ mặc cho nhà trường, GVCN.
+ Thực trạng xã hội có nhiều cám dỗ, nhiều tệ nạn và tình trạng yêu đương
sớm – vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay trong các cấp học, nhất là HS THPT.
3. Những biểu hiện và nguyên nhân vi phạm đạo đức của học sinh.
3.1. Những biểu hiện vi phạm đạo đức học sinh.
- Không tuân thủ các quy định về nội quy, nề nếp trường lớp như: bỏ tiết, đến
lớp không ghi bài, mất trật tự, gây gỗ đánh nhau, vô lễ với giáo viên, khích bác
lôi kéo bạn bè…
- Đầu tóc, quần áo không đúng quy định: nhuộm tác xanh – đỏ, cạo trắng từng
vệt- nhiều vệt trên đầu; mặc áo phông không cổ, quần “mốt” rách đầu gối…..
- Học không có mục đích, thiếu ý chí vươn lên, học vì bố mẹ…
- Một số học sinh phát triển sớm về sinh lý, lại thường tiếp xúc với các loại
phim ảnh không lành mạnh dẫn đến có những cảm xúc nam nữ, nảy sinh tình
cảm yêu đương sớm….
3.2. Nguyên nhân:
Như đã nêu ra phần thực trạng và phần đặc điểm tình hình lớp, tuy nhiên qua

nhiều năm làm công tác chủ nhiệm và giáo dục đạo đức HS, tôi xin được chỉ ra
một số nguyên nhân cụ thể:
- Gia đình thiếu sự quan tâm con cái, quá tin tưởng chiều chuộng hoặc bất lực
trước những hành vi đạo đức của con, bố mẹ không gương mẫu hay bản thân

7


các em bị một tai nạn khủng hoảng về tâm lý do bố mẹ li hôn hoặc phải sống
trong cảnh bố mẹ bất hòa thường xuyên cãi nhau.
- Ảnh hưởng của xã hội, cám dỗ trước những trò chơi, tệ nạn, bắt chước bạn
bè yêu đương và kết hôn trước tuổi vị thành niên…
- Sự quản lý chưa chặt chẽ, nghiêm túc, thiếu phù hợp của nhà trường, GV và
ngay cách thức phân luồng HS đã dẫn đến 1 lớp có quá nhiều HS cá biệt tạo cơ
hội cho các em a dua, bắt chước nhau khó giáo dục và giáo dục triệt để. Có
những thầy cô giáo chưa linh hoạt trong các tình huống sư phạm khiến cho
nhiều em không tâm phục, thường có biểu hiện chống đối, đạo đức càng đi
xuống.
4. Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp chủ nhiệm.
4.1. Sự thân thiện của người giáo viên khi nhận lớp và trong suốt quá trình
chủ nhiệm.
- Ấn tượng ban đầu và cũng là ấn tượng đáng nhớ nhất, khó quên nhất trong
lòng HS cũng như giáo viên chính là khoảnh khắc, giây phút gặp gỡ của HS và
GVCN. Vì vậy thái độ thân thiện, cởi mở của GV vô cùng quan trọng. Sự thân
thiện, gần gũi giúp các em thoải mái, yên tâm và có thiện cảm khi đến với ngôi
trường mới, lớp học mới, thầy cô, bạn bè mới. Vì thế, có những HS sau một
thời gian học tập đã trực tiếp tâm sự “mới đầu vào lớp em rất lo lắng, ngại
ngùng và có chút hơi sợ nhưng khi cô bước vào lớp với cái nhìn thân thiện, ấp
áp các em thấy vững tâm và yên tâm với quyết dịnh của mình”.
- Trong quá trình chủ nhiệm cũng vậy, muốn hiểu HS, đặc biệt là những HS có

tính cách, việc làm, lời nói khác biệt (cá biệt) điều quan trọng hàng đầu là phải
gần gũi, thân thiện, hòa đồng để nắm được tâm lý, biết được nguyên nhân,
hành vi vi phạm đạo đức HS. Nếu mình có cái nhìn cảm thông, thấu hiếu HS sẽ
dễ dàng cởi mở, tâm sự. Và như vậy bước đầu ta đã thu phục được trái tim HS,
tạo niềm tin để các em từng bước nghe theo mà thay đổi.
- Nhờ sự thân thiện với các em giúp (dù chỉ mới chủ nhiệm được 1 năm –
10A7) sự thân thiết giữa cô trò còn hơn cả ruột thịt. Các em nếu có chuyện
buồn thường tìm gặp tôi để tâm sự, trao đổi, để tìm sự cảm thông, tìm cách
tháo gỡ. Khoảng cánh cô trò đã dược phá bỏ chỉ còn lại là tình yêu giữa người
mẹ trách nhiệm với các con..
4.2 Lựa chọn Ban cán sự lớp.
- Lựa chọn được một Ban cán sự lớp có năng lục quản lý, biết tổ chức và
quán xuyến công việc của lớp cho GVCN là bước đầu góp phần thành công
của một GVCN giỏi. Ban cán sự sẽ thay GVCN nhắc nhở, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện nề nếp của lớp, có năng lực hướng dẫn, khích lệ các bạn trong
lớp thi đua vươn lên trong học tập, rèn luyện.
- Vậy làm thế nào để có thể lựa chọn được một Ban cán sự tốt có năng lực,
trách nhiệm như vậy? Trước hết GV phải tìm hiểu (qua các em HS cùng trường
lớp 9, thầy cô cũ, quan sát thái độ, khả năng của các em trong những ngày đầu

8


tiên, qua học bạ….) sau đó căn cứ vào sự giới thiệu, tín nhiệm của tập thể lớp
hoặc bình bầu dân chủ trong Đại hội đầu năm của lớp.
- Sau khi có được Ban cán sự, GVCN phải biết dùng, phân công nhiệm vụ
đúng người đúng việc, đúng năng lực cho lớp trưởng, lớp phó, bí thư, phó bí
thư đến các tổ trưởng…
4.3. Lập sơ đồ lớp học.
Đây là cách giúp các em bỏ tính tự do thích đâu ngồi đó, làm mất trật tự, kỷ

cương lớp học và dẫn đến tình trạng các em không tuân thủ sự sắp xếp của GV.
- Trước khi lập sơ đồ lớp học bao giờ tôi cũng tôn trọng HS, cho phép các em
tự tìm nơi ngồi phù hợp, với điều kiện phải thực hiện nghiêm túc qui định lớp
học, khồn làm ảnh hưởng đến người khác, đến tập thể. Sau vài ngày quan sát,
nếu thấy phù hợp thì để nguyên còn bất ổn tôi mới trực tiếp sắp xếp sơ đồ lớp
học cố định ( tuy nhiên có thể thay đổi theo tháng, kỳ nếu thấy chưa hợp lí).
- Cách sắp xếp chõ ngồi cho HS là HS nhỏ- thấp, HS có biểu hiện cá biệt ngồi
trên xuống, hài hòa cân đối giữa những HS ngoan, học lực khá với các em hay
nói chuyện, vi phạm nội quy và lực học trung bình, yếu để các em có điều kiện
học hỏi, tự mình sửa đổi hoặc được giúp đỡ của bạn bên cạnh trên tình thần
“Gần đèn thì sáng”.
4.4. Hoàn thiện các loại hồ sơ, sổ sách cho lớp chủ nhiệm.
- Sổ điểm danh (theo dõi sĩ số) theo buổi học chính khóa và học thêm – giao
cho lớp trưởng điểm danh, quản ký.
- Sổ ghi vi phạm nền nếp từng buổi học để GVCN nắm được tình hình và kịp
thời khắc phục, uốn nắn HS – giao cho bí thư quản lý.
- Sổ sinh hoạt (biên bản) cuối tuần.
- Sổ theo dõi điểm kiểm tra miệng của HS bị điểm kém và đạt điểm cao để có
chính sách phạt – thưởng nhằm khích lệ sự cố gắng của HS.
- Sổ xếp loại hạnh kiểm HS theo tuần, tháng, kỳ đảm bảo sự công bằng trong
đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS giúp các em thoải mái, tâm phục.
- Sổ theo dõi HS gửi xe đạp. Vì HS có gửi xe đạp đầy đủ (đối với những em
đi xe và đăng ký gửi xe đạp trong trường) thì GVCN mới dễ dàng quản lý HS.
Nếu các em hôm đó đi xe mà không gửi xe ở trường thì rất dễ dẫn đến tình
trạng các em bỏ tiết, bỏ học đi chơi.

Một số mẫu hồ sơ của lớp chủ nhiệm [8]

9



TT

1. SỔ THEO DÕI SĨ SỐ LỚP HỌC CHÍNH KHÓA - THÁNG:
Năm học: 2017 – 2018
Họ và tên
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10111213141516171819202122232425262728293031Tổn
g
3 4 5 6 7 cn 2 3 4 5 6 7 cn 2 3 4 5 6 7 cn 2 3 4 5 6 7

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Ghi chú: - Cán bộ lớp phải điểm danh hàng buổi (Nếu vắng có phép ghi = P, nếu vắng không phép
ghi = K vào cột thứ ngày tương ứng)

10


2. SỔ THEO DÕI NỀ NẾP CỦA LỚP:

- Tên học sinh:………………………
- Địa chỉ:……………………………
- Tên bố:…………………………….
- Tên mẹ:……………………………
Số điện thoại:………………………
Số điện thoại:……………………..
Tuần Ngày, tháng Tiết

….

Nội dung vi phạm

…..

3. SỔ THEO DÕI XẾP LOẠI HẠNH KIỂM HỌC SINH THEO TUẦN/ THÁNG:
Năm học: 2017 – 2018
TT

Họ và tên

Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
HKII
1 2 34 5 TH 1 2 3 4 5 TH 1 2 3 4 TH 1 2 3 4 5 TH

1
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
….

4. Trường THPT Triệu Sơn 5 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
11

CN


Lớp:

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Triệu Sơn, ngày..... tháng...... năm......
BIÊN BẢN SINH HOẠT LỚP

I. Địa điểm, thời gian, thành phần.
1. Địa điểm.
.......................................................................................................................
2. Thời gian.
Từ......giờ..... phút đến ...... giờ...... phút ngày...... tháng...... năm....................
3. Thành phần.
...............................................................................................................................

...............................................................................................................................
II. Nội dung.
1. Tình hình học tập, trèn luyện đạo đức của lớp trong tuần.
a. Ưu điểm
...............................................................................................................................
............................................................................................................................
b. Nhược điểm
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
..........................................................................................................................
2. Công việc tuần sau.
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
.......................................................................................................................
3. Những nội dung khác.
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
III. Kết luận
...............................................................................................................................
..........................................................................................................................
Giáo viên chủ nhiệm

Lớp trưởng

Thư ký

4.5. Phương pháp nêu gương.

12



- Đến các trường học, cấp học phần lớn ta thường bắt gặp khẩu hiệu “Mỗi
thầy cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Đây không chỉ là
lời nhắc nhở mà còn là niềm tự hào cho mỗi giáo viên, bởi thiên chức của
chúng ta là mang “ánh sáng” đến cho HS thì hơn ai hết bản thân ta phải là một
nguồn sáng, dù là ánh sáng mặt trời hay chỉ là đốm than hồng thì cũng không
thể thếu trong mỗi tâm hồn GV…. muốn có được thứ ánh sáng ấy đã khó, giữ
được nó trong thời buổi kinh thế thị trường này càng khó hơn nhiều. Chính
điều đó bất kể ai, để trở thành một giáo viên đứng vững trong lòng HS ta đều
phải là một tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của mình.
Đặc biệt người GVCN cần phải làm gương, phải có trí tuệ, lương tâm, sống
mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ “tín” trước HS, đồng thời phải là cán cân
công lí trong quá trình xử lí vi phạm, đánh giá, xếp loại hạnh kiểm hàng tuần,
tháng, kỳ, năm của HS.
Ví dụ: Để giáo dục 1 HS không mặc đồng phục, để tóc không đúng quy
định…trước hết GV phải thực hiện nghiêm túc đồng phục và đầu tóc gọn gàng.
Chẳng hạn để giáo dục em Nguyễn Thị Thúy, em Linh, em Thủy (12A3)
nhuộm tóc không đúng quy định của trường, tôi chỉ nói cô cũng thích nhuộm
tóc vì làm đẹp là ước mơ của tất cả mọi người. Làm đẹp cho mình là làm đẹp
cho xã hội nhưng phải phù hợp với môi trường, hoàn cảnh. Hơn nữa người dân
Việt Nam ta lúc nào cũng coi trọng mái tóc của người con gái “hàm răng mái
tóc là góc con người”. Đồng thời tôi cũng nghiêm khắc nói với các em rằng: đã
là quy định và một khi chúng ta đã cam kết thì chúng ta phải thực hiện đúng
quy định – đó là chữ tín của con người. Người được người khác tôn trọng là
người biết giữ chữ tín. Sau hôm đó các em đã nhuộm tóc lại và không một lần
tái phạm nữa.
- Không chỉ đầu tóc, trang phục mà ngay cả trong lời nói và hành động, bất kể
GV nào đều phải nói năng chuẩn mực trước HS. Người ta thường nói “Lời nói
gió bay” vì thế nhiều GV vô tư phát ngôn với GV khác trước HS bằng từ ngữ
mày tao, chi tớ; có GV xưng xô với học trò bằng tao, mày; mắng chửi bằng

những lời lẽ xúc phạm, văng tục trước học sinh thậm chí nhiều lần đánh HS,
…. Theo tôi nghĩ, đã là HS thì dù ngoan hay hư đều cần được giáo dục bằng
những lời hay ý đẹp, bằng những hành động văn hóa bởi hơn ở đâu hết trường
học là cơ quan văn hóa và mỗi thành viên trong đó (dù là HS hay GV) đều là
những con người có văn hóa. Vì vậy, nếu dùng kiểu ngôn ngữ như thế để giáo
dục những HS được coi là cá biệt thì có lẽ sẽ làm hỏng cả quá trình giáo dục.
- Tuy nhiên chỉ GV nỗ lực thì vẫn chưa đủ, HS mới là yếu tố quyết định. Việc
nêu gương không chỉ ở thầy cô mà còn ngay các em HS bởi “học thầy không
tày học bạn” nhưng cách thức này phải thật tế nhị, khéo léo nếu không vô hình
trung sẽ làm HS tự ái, xấu hổ và mặc cảm.
Ví dụ: Em Long ở lớp 10A7 đầu năm hay đi học muộn, tôi cũng chỉ hỏi qua
vì nghĩ các em chưa quen thời gian biểu ở trường mới nhưng em vẫn tiếp tục đi
học muộn, kể cả học thêm buổi chiều. Tôi hỏi, em bảo nhà có việc bận, xe

13


hỏng. Tôi lấy một em khác trong lớp ở xa trường nhất nhưng chưa một lần đi
muộn hỏi xem em đi học từ mấy giờ, có bao giờ xe hỏng không? Em trả lời em
đi từ 6h15 phút, có hôm xe hỏng em gửi lại nhà nào đó ven đường rồi xin xe
bạn cùng đường đi học. Vậy là, tôi vừa khen em khác mà cũng chẳng phê bình
Long, nhưng cách nêu gương ấy lại có tác dụng ngay vì từ đó đến hết năm
Long không một lần đi học muộn nữa.
4.6. Huy động nội lực tập thể.
Quá trình giáo dục đạo đức lối sống HS phải có sự kết hợp đồng bộ, nhịp
nhàng, thống nhất giữa GVCN với GVBM và các đoàn thể nhằm huy động và
phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong nhà trường (kể cả bên
ngoài như phụ huynh, công an) để xây dựng môi trường giáo dục thân thiện
phù hợp với sự kỳ vọng của phụ huynh, của toàn xã hội, đồng thời phát huy
được tính chủ động sáng tạo của các em tronh học tập và tu dưỡng.

- Để có sự phối kết hợp ăn ý trong giáo dục đạo đức cho HS, GVCN ngoài
việc tìm hiểu, nắm được tâm ý, tính cách, hoàn cảnh các em còn phải thường
xuyên gặp gỡ, trao đổi với PH tìm biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối
tượng HS.
Ví dụ: Trong lớp 12A3 (2017 - 2018), có khoảng 15 em học kém lại hay nói
chuyện riêng trong khi giáo viên giảng bài, không làm bài tập, hay quên sách,
bút, phù hiệu, đi học muộn, hút thuốc lá, dùng điện thoại trong giờ học, nghỉ
học vô lí do, bỏ tiết…. tôi tìm hiểu thì biết được: em thì vì học yếu, ngại học;
em thì nhà quá nghèo nên ở nhà đi làm vài hôm; em thì buồn vì bố mẹ ly hôn;
em thì mặc cảm vì bố hay bất hòa, cãi nhau; em thì bố mẹ bất lực không thể
giáo dục được….. Mỗi một lí do, một hoàn cảnh. Vì vậy GVCN phải trao đổi
với GVBM vừa để động viên giúp đỡ, vừa uốn nắn giáo dục theo kiểu “mưa
dầm thấm lâu” lại vừa có những biện pháp mạnh mời PH, yêu cầu HS viết
kiểm điểm cam kết không tái phạm và phụ huynh ký vào (nếu tái phạm sẽ cho
ở lại lớp hoặc kỷ luật đình chỉ học…), các em sẽ tự nhận thấy sai sót, khuyến
điểm mà sửa đổi.
- Trong trường Triệu Sơn 5, thầy Hiệu phó, Đoàn thanh niên và Ban nề nếp là
lực lượng mà HS thấy sợ nhất. Chỉ cần thầy bóng thầy Hiệu phó tất cả các em
đều lo chỉnh đốn trang phục gọn gàng, thấy ban nề nếp đi kiểm tra là lập tức
phải đầy đủ phù hiệu, sơvin, có nhiều em HS nam phải vội trốn ngay vì tóc quá
dài mà chưa kịp cắt….Vì thế GVCN luôn nhờ bóng các thầy trong các đoàn thể
để kết hợp giáo dục học sinh, giúp các em từng bước biết ý thức trách nhiệm và
thực hiện nghiệm túc nội quy người học, mang tinh thần xung kích của người
ĐVTN, học trò ngoan – giỏi. Điều đó khẳng định rằng chỉ có sức mạnh tập thể
mới tạo nên thành công, như Bác Hồ đã nói:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
4.7. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoài giờ.

14



- Dù biết rằng học tập là công việc hàng đầu của các em khi đến trường, hơn
nữa lại là lứa tuổi mà các em đang tập trung thời gian công sức để trau dồi tri
thức chuẩn bị cho kỳ thi THPTQG. Nhưng bên cạnh việc học tập các em cần
được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, TDTT, văn nghệ….để giải tỏa
những căng thẳng, áp lực trong học tập nhằm “hồi phục” tinh thần cho các em,
lại giúp các em phát huy năng khiếu, sở trường, tính sáng tạo, kích thích tính
tìm hiểu khám phá của các em và như vậy sẽ phần nào giúp các em tự nhận
thức và hoàn thiện chính mình.
- Nhận thấy sự cần thiết, tầm quan trọng của hoạt động ngoài giờ trong giáo
dục đạo đức cho HS, GVCN đã cùng với Đoàn trường THPT Triệu Sơn 5 tổ
chức rất nhiều hoạt động ý nghĩa như: Bóng đá nam chào mừng ngày 26/3,
phong trào tri đua văn nghệ, báo tường mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11,
giáo dục kỹ năng sống cho HS trong các ngày lễ 3/8,20/10, và đặc biệt là trong
2 năm liên tục nhà trường đã tổ chức sân chơi trí tuệ hữu ích cho tất cả các em
HS là “Hành trình khám phá tri thức”. Dù mỗi chi đoàn – lớp chỉ cử 2 - 3 học
sinh đại diện nhưng kiến thức trí tuệ lại được huy động của cả tập thể. Trước
tuần thi 1,2 tuần tôi thường yêu cầu mỗi em trong lớp chuẩn bị 10 câu hỏi trên
tất cả các lĩnh vực rồi gửi lại cho Bí thư tập hợp thành các lĩnh vực cụ thể. Vào
10 phút đầu giờ tôi thường cho Bí thư đứng lên đọc câu hỏi cho cả lớp cùng
suy nghĩ trả lời, vừa luyện cho các em được chọn thi hành trình vừa là cơ hội
để tất cả các em trong lớp bổ sung kiến thức hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.
Có thể khẳng định đây là một sân chơi trí tuệ vô cùng bổ ích và thú vị,
không chỉ giúp các em trực tiếp chơi mà giúp tất cả học sinh toàn trường có
thêm nhiều trải nghiệm về hiểu biết xã hội, kích thích sự tìm tòi và sáng tạo của
các em, hướng các em vào việc học tập và tích lũy vốn hiểu biết, vốn sống. Vì
vậy, so với những buổi chào cờ đơn thuần chỉ đánh giá, tổng kết hoạt động tuần
thì những hôm thi hành trình các em lại rất trật tự và chăm chú theo dõi. Đây
chẳng phải là biện pháp giáp dục đạo đức tích cực nhất hay sao?

4.8. Giáo dục đạo đức cho học sinh bằng cái “Tâm” của người giáo viên
chủ nhiệm.
Là một giáo viên chủ nhiệm nhiều năm (từ khi ra trường, trừ thời gian nghỉ
sinh – còn lại năm nào tôi cũng vinh dự được làm công tác chủ nhiệm), tôi
nhận ra rằng phương pháp giáo dục đạo đức tốt nhất của một người GVCN
tâm huyết chính là lấy cái “Tâm” để thu phục cái “Tính” (tính cách), lấy tấm
lòng để cảm hóa tấm lòng. Vì con đường gần nhất và cũng nhanh nhất để thức
tỉnh tâm hồn của các em chính là tình yêu của người giáo viên với học trò.
- Một GVCN được HS kính trọng, nể phục ngoài cái Tài cần phải có cái
Tâm. Một nhà hiến triết đã nói “Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách
kiếm sống hay cung cấp dụng cụ để đạt được sự giàu có mà đó phải là con
đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện”
(Vi jaya lakshmi Pandit – Những câu nói hay về giáo dục” [9]. Đúng vậy, hãy
lấy cái Tâm để cảm hóa trái tim của học trò, để dẫn lối tâm hồn các em đến với

15


cái Thiện. Cái Tâm của GVCN là sự tận tụy, niềm say mê nghề, cái tâm gắn bó,
yêu thương, thấu cảm, chia sẻ với HS. Vì cái Tâm là nguồn góc để hình thành
đạo đức nhân cách con người, là sức mạnh nâng đỡ, cứu vớt con người trước
những lầm đường lạc lối và chính cái Tâm của GVCN sẽ là sức mạnh, động lực
để giáo dục tốt đạo đức cho HS.
- Cái Tâm sẽ cho GVCN trách nhiệm với công việc, với HS trong lớp để từ đó
tìm hiểu, nắm bắt và thu phục trái tim HS nghe theo mình, rèn luyện, trau dồi
đạo đức để là trò ngoan. Cái Tâm sẽ giúp GVCN biết lắng nghe, bình tĩnh,
kiềm chế trong mọi tình huống, từng bước dẫn dắt giáo dục HS, đặc biệt là
những HS cá biệt.
Ví dụ: Em Lê Văn Tiến, Lê Văn Tâm lớp A3 (2014-2017) thường ngủ gật,
không ghi bài trong giờ học, thậm chí nhà rất gần trường nhưng lại hay đi học

muộn.
Tôi đã gần gũi hỏi chuyện, tâm sự hai em đã mở lòng nói thật vì không hiểu
bài, không thích môn học đó (vì môn học đó không phục vụ cho thi THPTQG)
và vì ở nhà phải làm nhiều việc (gia đinh em có máy gặt, máy bừa nông
nghiệp). Lí do đó vừa phải nhắc nhở, chấn chỉnh HS và đưa ra cách khắc phục:
nếu không hiểu bài thì hỏi bạn và nhờ bạn bên cạnh, trực tiếp hỏi thầy cô và
quan trọng là tự mình cố gắng thì mới được người khác tôn trọng. Đồng thời
tôi phải phối kết hợp với GVBM, nhờ các thầy cô để ý hướng dẫn giúp các em
không còn chán, sợ môn học đó. Tôi cũng gọi điện trao đổi trực tiếp với phụ
huynh và nhờ phụ huynh gọi các em dậy sớm hơn để không còn tình trạng nhà
gần đường xa.
- Cái Tâm sẽ giúp GVCN biết quan tâm và yêu thương HS như người thân
của mình, không nhìn những HS sai phạm, cá biệt bằng cái nhìn thiếu thiện
cảm, thiện chí mà phải nhìn các em bằng con mắt tình thương. Ta nên có cái
nhìn bao dung của người mẹ, người cha; cái gần gũi cảm thông của người anh,
người chị và cái thân thiết, thấu hiểu của người bạn.
Ví dụ: Em Lê Văn Bình, Nguyễn Tăng Hoàng lớp A3 (20142017), các em
thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp như: nghỉ học không cần lí do, đến
lớp không ghi bài, nhuộm tác vàng, đỏ, quần áo không phù hợp (áo phông
không cổ, quần bò rách đầu gối, thậm chí là gây gỗ đánh nhau…).
Đầu tiên tôi nhắc nhở, sau phạt trực nhật, vệ sinh phòng học, viết kiểm điểm,
rồi mời phụ huynh nhưng chỉ được vài hôm đâu lại vào đấy. Cuối cùng tôi
dùng “đòn tâm lí” gặp riêng từng em một, và nói rõ hôm nay cô muốn nghe em
tâm sự những gì khúc mắc, bực dọc hay khó chịu …như một người bạn. Mới
đầu em từ chối, lảng tránh, xa lánh sau một hồi thuyết phục Bình đã nói thật và
xin hứa sẽ thay đổi. Và đúng như lời hứa của một người con trai trách nhiệm,
Bình đã thực sự trở thành một HS tuân thủ đúng nội quy trường lớp khiến các
bạn trong lớp phải ngạc nhiện, thầy cô khen ngợi.
Còn em Hoàng lần thức hai bị thầy hiệu phó bắt gặp kiểu quần bò “mốt tứ lỗ”
thầy trực tiếp gọi điện cho tôi, 10 phút sau tôi có mặt tại trường cùng với chiếc


16


quần bò đúng size em mặc và yêu cầu em thay ngay. Mới đầu em có vẻ chống
đối và ngại ngần nhưng sau vài câu nói của tôi: nào là đúng màu yêu thích
không, đúng size em hay mặc không, thử mặc xem vừa không nào….Hoàng đã
bẻn lẻn đi thay và quay ra với ánh mắt như biết lỗi lẫn xúc động. Sau lần đó em
không một lần mặc quần áo sai quy định nữa.
Thế đấy,“lạt mềm bao giờ cũng buộc chặt”, dao to búa lớn không phải là
cách xử lý sư phạm, hãy tùy cơ ứng biết nhưng có lẽ cách tốt nhất, mô phạm
nhất là hãy lấy trái tim để thu phục, cảm hóa tâm hồn. Đây là con đường gần
nhất và cũng nhanh nhất, ngắn nhất.
- Trong những năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy rằng: người GVCN
nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý lớp thì học sinh
lớp đó bao giờ cũng ngoan và học tốt. Đúng là “mẹ nào con đó, tướng nào quân
ấy”. Một GVCN tốt ngoài năng lưc, tình yêu HS còn phải có cái Uy. Vậy Uy là
gì, làm thế nào để có được Uy? Uy ở đây là uy tín, uy quyền của người giáo
viên trước học trò. Uy tín là lòng kính trọng tin yêu, lòng kính khục, khâm
phục, ngưỡng mộ của học sinh đối với thầy, cô…Thầy có chữ “Uy” thì thầy
nói, thầy bảo, thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi cái Uy tạo nên từ sự nghiêm
khắc, công tâm của GV khi đánh giá, giáo dục HS, được hình thành từ những
cái nhỏ nhất, đó là lời nói, việc làm chuẩn mực, tác phong, trang phục, cách
ứng xử ….và sức hấp dẫn trong từng tiết dạy của thầy cô. Vậy là, nếu chúng ta
biết dùng tấm lòng “trang trải đến muôn nơi” thì chúng ta sẽ nhận được những
tấm lòng yêu mến “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Vì vậy những
lớp tôi chủ nhệm học sinh rất ngoan, ý thức tuân thủ nội quy nhà trường tốt,
không có học sinh nào bị liệt vào danh sách học cá biệt của nhà trường, phong
trào học tập sôi nổi, tích cực đi lên và cuối kỳ, cuối năm, cuối cấp bao giờ lớp
cũng được nhà trường khen thưởng về nề nếp, về học tập. Đây thực sự là niềm

vui, niềm hạnh phúc không gì so sảnh của người GVCN – người uốn nắn thành
công những cây non đang trên đà trưởng thành.
- Và cái Tâm của một giáo viên còn được thể hiện ở việc kịp thời nắm bắt
chuyện tình cảm nam – nữ của học sinh. Vấn đề đáng lo ngại nhất của cả gia
đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhất là GVCN, đó là tình trạng học sinh có
quan hệ tình cảm nam- nữ, yêu đương sớm, đặc biệt là các nữ sinh. Một là yêu
ngay trong lớp, trong trường; hai là yêu bên ngoài. Nếu các em thích nhau, nảy
sinh tình cảm nam - nữ trong trường, lớp dù ít nhiều ảnh hưởng đến học tập
nhưng giáo viên vẫn có thể phần nào kiểm soát được học sinh, vì dù sao các em
vẫn còn tromg tầm ngắm của mình, vẫn có thể biết sớm để nhắc nhở, chấn
chỉnh. Nhưng điều đáng lo nhất, “nguy nhất” chính là các em yêu bên ngoài
nhà trường, gia đình không biết, giáo viên không biết hoặc có biết cũng không
thể quán xuyến được, hoặc chuyện đã rồi, bất khả kháng.
Đây là vấn đề mà tôi quan tâm hơn cả trong quá trình chủ nhiệm, giáo dục
học sinh, nhất là những HS nữ, mà lớp tôi chủ nhiệm đa phần lại là nữ. Cùng
là nữ giới, tôi vừa nhắc khéo nhưng cũng rất nghiêm khắc khi nói đến chuyện

17


tình cảm nam- nữ học sinh. Tôi phân tích thiệt – hơn, đúng – sai, được – mất và
kể chuyện thời cấp ba, sinh viên của tôi, cũng như nói chuyện về “Tứ đức” của
người phụ nữ để qua đó giáo dục kỹ năng sống cho các em. Tôi cũng thường
xuyên quan sát, dò hỏi học sinh khác nếu thấy có biểu hiện “khác thường” về
tâm trạng ở một nữ sinh nào. Khi biết các em đang thích, đang yêu một ai đó
dù trong hay ngoài nhà trường tôi thường tìm cách gẫn gũi, tâm sự riêng và lí
giải cho các em bằng tấm lòng chân thành như môt người đi trước. Vì thế
trong những năm tôi làm công chủ nhiệm (2002 đến nay) tôi chưa để xảy một
trường hợp đáng tiếc nào (lê Bà bất đắc dĩ, xin cô nghỉ học về lấy chồng).
Ngoài các biện giáo dục trên thì trong quá trình chủ nhiệm tôi cón kết hợp

giáo dục đạo đức các em học sinh qua thời gian sinh hoạt 10 đầu buổi học, qua
tiết sinh hoạt cuối tuần, qua những bài giảng Ngữ văn trên lớp…..
5. Những kết quả ban đầu thực nghiệm đề tài.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm cụ thể ở hai lớp chủ nhiệm gần
nhất (A3, 10A7), kết quả ban đầu tôi thu được là:
- Học sinh nhanh chóng đi vào nề nếp, nghiêm túc sửa đổi những sai phạm và
thực hiện nghiêm túc các quy định, nội quy trường lớp.
- Các em đều ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô, biết quan tâm, chia sẽ giúp đỡ
bạn bè trong học tập và những khó khăn trong cuộc sống (như trường hợp em
Nguyễn thị Dung lớp A3, nhà nghèo, bố mẹ khuyết tật, ốm đau liên miên, lớp
đã cùng nhau quyên góp tiền mua cặp, dép, áo cho bạn và xin miễn một số
khoản đóng góp cho bạn…).
- So với ban đầu, kết quả rèn luyện đạo đức của 2 lớp rất tốt. Và một khi nề
nếp đạo đức tốt thì kết quả học tập bao giờ cũng cao. Cụ thể:
Lớp


số

12A3 44
A7

40

Xếp loại hạnh kiểm
Tốt
Khá Trung
Yếu
bình
37

6
1
0
(84%) (14%)
(0,2%)
36
3
1
0
(90%)

(0,75%)

(0,25%)

Giỏi
5
(11,4%)

Xếp loại học lực
Khá
Trung Yếu Kém
bình
30
9
0
0
(68,1%)

(20,5%)


9

22

9

(22,5%)

(55%)

(22,5%)

0

0

- Lớp A3 năm lớp 12 xếp thứ 3 về nếp – học tập, lớp 10A7 xếp thứ 2 về nề
nếp – học tập và cả hai lớp đều được nhà trường xếp loại Tập thể tiên tiến xuất
sắc và khen thưởn. Lớp 12A3 lớp THPTQG 2017 và đậu 100%. Riêng lớp
10A7 năm học (2017 – 2018), được tất cả các thầy, cô bộ môn dạy trong lớp
đều đánh giá là lớp ngoan nhất khối 10 và cũng là lớp đạt nhiều thành tích nhất
về phong trào học tâp (5 HSG cấp tỉnh, 4 giải Ba, 2 giải khuyến khích, 23 lượt
trên 22 em đạt HSG cấp trường).

18


- Nhà trường, GVBM , PHHS và ngay cả GVCN cũng nhận thấy rõ vai trò
quan trọng, to lớn của GVCN trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong

nhà trường.
PHẦN BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là vấn đề vô cùng quan trọng trong hệ
thống giáo dục đào tạo. Đạo đức là thước đo giá trị nhân cách con người, là nền
tảng để sự nghiệp Giáo dục phát triển, đất nước vững bền, sánh vai với các
cường quốc năm Châu như sinh thời Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là vấn đề then chốt để nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường.
Qua quá trình thứ nghiệm “Vai trò của GVCN trong công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh ở trường THPT Triệu Sơn 5” tôi rút ra được một số kinh
nghiệm cho bản thân trong giáo dục đạo đức học sinh như sau:
- GVCN phải có tâm huyết, trách nhiệm với công việc và có sự sáng tạo
trong công tác chủ nhiệm, quản lý, giáo dục học sinh.
- Một GVCN có uy tín, được BGH, đồng nghiệp tin tưởng, học sinh tin yêu
thì giáo viên đó phải có năng lực, nói được làm được, phải chính xác, công tâm
trong đánh giá, xếp loại học sinh.
- Phải có cái Tâm - tấm lòng yêu thương, thấu cảm, tôn trọng học sinh bằng
tất cả sự chân thành của người “sinh nghề tử nghiệp”.
2. Kiến nghị, đề xuất.
Đối với ngành giáo dục đào tạo:
- Tiếp tục quan tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
giáo viên để giáo viên yên tâm phấn đấu và cống hiến cho sự nghệp giáo dục.
- Tiếp tục nghiêm khắc với những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo và kỷ
luật nghiêm khắc với những học sinh có biểu hiện xúc phạm, bôi nhọ danh dự
nhà giáo.
- Cần có những định hướng tích cực, thiết thực cho học sinh trong lựa chọn
nghề nghiệp.
Đối với nhà trường, đồng nghiêp.
- Tiếp tục tuyển chọn những giáo viên có kinh nghiệm, tâm huyết, năng lực

làm công tác chủ nhiệm.
- Tiếp tục khen thưởng, kỷ luật một cách nghiêm khắc đối với những học sinh
vi phạm nội quy trường lớp, có biểu hiện vô lễ, xúc phạm giáo viên để làm
gương, dăn đe giáo dục học sinh khác.
- Tạo ra nhiều sân chơi bổ ích, thú vị hơn nữa để các em có cơ hội được học
tập, rèn luyện và từng bước tự hoàn thiện nhân cách.
- Đối với những bộ môn có nội dung giáo dục đạo đức, GVBM cần lồng ghép
những bài học đạo đức cho học sinh qua các tiết dạy học trên lớp.
Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, thử nghiệm, còn nhiều
hạn chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự bổ sung, góp ý chân thành của

19


đồng nghiệp, của Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những thông tin
phản hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn, khả dụng hơn.
Qua đề tài này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới BGH nhà trường, tổ - nhóm
chuyên môn, các bạn bè đồng nghiệp và học sinh các khối lớp, nhất là lớp A3
(2014 – 2017) và 10A7 (2017 – 2018) đã hưởng ứng và giúp tôi hoàn thiện đề
tài này.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 23 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Quyên


Tài liệu tham khảo

20


[1]. Nghị quyết 29NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương.
[2]. Truyện Kiều – Nguyễn Du
[3]. Sách giáo hoa Ngữ Văn lớp 10, NXGD Việt Nam 2006
[4]. Báo Tuổi trẻ Online
[5]. Sách Giáo dục công dân lớp10, NXBGD Việt Nam – năm 2014
[6]. Nguồn Internet
[7]. Luật giáo dục, điều 70,72
[8]. Hồ sơ chủ nhiệm của trường THPT Triệu Sơn 5.
[9]. Những câu nói hay về giáo dục.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN NGÀNH
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO T HANH HÓA XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Lê Thị Quyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Triệu Sơn 5, Triệu Sơn, Thanh hóa
Cấp đánh giá
Kết quả
xếp loại
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp xếp loại
huyện/tỉnh;

(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Một số biện pháp “tạo tâm Hội đồng khoa
thế” trong giờ đọc – hiểu văn học ngành Giáo
1
bản Văn học dành cho học dục và Đào tạo
B
sinh THPT
Thanh Hóa.

2

Một số biện pháp nhằm hạn
chế các lỗi thường gặp trong
bài làm văn của học sinh
THPT.

Hội đồng khoa
học Ngành Giáo
dục và Đào tạo
Thanh Hóa.

Năm học
đánh giá
xếp loại

2010 –
201
1

2015– 2016

C

21



×