Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức liên hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong đề thi THPT quố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.87 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Dạy học Văn đã và đang là một công việc khó khăn và nhiều thách thức với cả
người dạy lẫn người học. Nhất là trong những năm gần đây, ngành Giáo Dục (GD)
nói chung và việc thi cử đối với môn Ngữ văn nói riêng liên tục đổi mới (về cấu
trúc đề thi, dạng câu hỏi, phạm vi kiến thức, mức độ phân hóa...). Hơn thế, học sinh
thường than phiền là Văn khó hiểu, khó nhớ, khó được điểm cao như các môn tự
nhiên hoặc các môn thi trắc nghiệm (Từ năm 2017, trừ môn Ngữ Văn thi ở hình
thức tự luận còn tất cả các môn thi khác như: Toán, Lí, Hóa, Sinh, Sử, Địa, Ngoại
ngữ, Giáo dục công dân đều thi ở hình thức trắc nghiệm khách quan trong kì thi
THPT Quốc Gia). Với những em học được (hiểu bài là viết được) đã khó thì với
những học sinh học yếu, mất gốc lại càng khó. Những học sinh này chậm hiểu,
thậm chí có hiểu cũng khó vận dụng. Để làm được bài ở mức độ 4 hay 5 điểm các
em còn phải học thuộc bài học theo kiểu học vẹt - nếu các em chăm chỉ. Còn với
những học sinh (HS) đã yếu, đã kém, lại lười và mất gốc thì thật sự là nỗi ám ảnh
của người dạy. Bài thi của những HS này thường có phổ điểm từ 0 đến 3. Và với
những em như thế thì môn văn thực sự là nỗi kinh hoàng!
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp nhiều năm, tiếp xúc với nhiều đối tượng
HS (giỏi, khá, trung bình, yếu, kém...), tôi nhận ra rằng để HS có thể nhớ kiến thức,
có thể hiểu được bài học không phải ta chỉ dạy một lần, một bài là được. Để giúp
các em khắc sâu ghi bài học trong giờ Đọc hiểu văn bản (còn gọi là Đọc văn - từ
đây trở đi sẽ gọi là Đọc văn) nhất thiết người thầy phải tìm cách để các em được ôn
lại kiến thức một cách "vô thức" và "tự nhiên" nhất thông qua việc xâu chuỗi kiến
thức ở từng bài học, từng tiết học bằng việc người thầy giúp các em có cái nhìn kết
nối, liên hệ, so sánh mở rộng và nâng cao trong từng giờ, từng bài Đọc văn. Từ đó
hình thành cho các em thói quen tư duy, so sánh, liên hệ mở rộng giữa các bài học
có cùng chủ đề, giữa các chi tiết có sự tương đồng hay khác biệt, giữa những hình
ảnh có liên quan,...nhằm góp phần đánh thức kiến thức cũ, khơi gợi kiến thức mới,
đồng thời tạo nguồn cảm hứng cho bài học. Thói quen liên hệ mở rộng ngay trong
giờ đọc hiểu cũng sẽ hình thành ở các em kĩ năng này trong bài làm văn hướng tới
chinh phục bài văn nghị luận văn học (NLVH) trong đề thi THPT Quốc Gia.


Hơn nữa, phân tích kĩ Đề thi minh họa của bộ Giáo dục và Đào tạo năm
2018, công văn hướng dẫn ôn thi THPT Quốc Gia của Sở giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa, ta thấy Đề thi minh họa THPT quốc gia năm nay (2018), phần nghị
luận văn học còn có hẳn yêu cầu liên hệ nâng cao giữa kiến thức tác phẩm văn học
(TPVH) thuộc chương trình lớp 12 và kiến thức TPVH thuộc chương trình lớp 11.
Đáng chú ý là tỉ lệ điểm cũng khá cao: “Phần liên hệ, so sánh lớp 11 chú ý khoảng
từ 0,5 - 1,0 điểm (chiếm từ 10 - 20% điểm của phần nghị luận văn học) nên viết
1


đúng trọng tâm, không quá dài. Nên chỉ ra điểm gặp gỡ, khác biệt của vấn đề. Từ
đó, rút ra những vấn đề về tư tưởng, nội dung nghệ thuật để viết bình luận nâng
cao” [1].
Trong thực tế dạy học của mình, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu đúc rút thành kinh
nghiệm của bản thân nhằm "Hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức liên
hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ Đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong
đề thi THPT Quốc gia". Đề tài này có ý nghĩa quan trong vừa giúp HS tự tin trước
kì thi và vừa góp phần nâng cao chất lượng bài làm trong kì thi có tính chất bước
ngoặt cuộc của đời.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Để đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của sự phát triển giáo dục trong thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc đổi mới chương trình đặt ra nhiều
yêu cầu đổi mới với các hoạt động giáo dục, giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là
đổi mới trong hoạt động sư phạm của giáo viên. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI xác định: "Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả giáo dục theo định hướng phát triển năng lực của người học" [2]. Vậy làm
thế nào để học sinh có thể nắm bắt được cách làm bài theo hướng đổi mới ấy và đạt
kết quả tốt trong các kì thi - đặc biệt là kì thi THPT Quốc Gia. Đó là một trăn trở
không phải chỉ ở riêng tôi.
Với đề tài này, tôi mong muốn từ những kiến thức liên hệ, mở rộng nâng cao

mà học sinh được trang bị trong giờ Đọc văn, sẽ hướng dẫn và rèn luyện cho các
em kĩ năng vận dụng để làm tốt bài văn NLVH theo định hướng của đề thi minh
họa THPT Quốc gia 2018 - hướng tới chinh phục bài thi THPT Quốc gia 2018 dạng bài có yêu cầu liên hệ mở rộng và nâng cao kiến thức thuộc tác phẩm Ngữ
văn lớp 12 với tác phẩm Ngữ văn lớp 11.
"Hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức liên hệ, mở rộng, nâng cao
trong giờ Đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong đề thi THPT Quốc gia"
là một việc làm cần thiết. Nhằm khắc phục phần nào những tồn tại trong dạy học
văn, giúp học sinh làm tốt một phần quan trong trong bài thi THPT Quốc gia. Nó
đặc biệt ý nghĩa hơn trong xu hướng ra đề thi tránh học tủ, học vẹt ngày nay. Đồng
thời góp phần tạo nên không khí tươi mới sinh động hấp dẫn cho mỗi giờ đọc văn.
Các em có cơ hội “vừa học vừa ôn tập”, “vừa học vừa sáng tạo”. Giờ học Văn vì
thế cũng bớt nhàm chán, đơn điệu hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong thực tiễn thi cử của HS ở bộ môn Văn (ở đây tôi chủ yếu bàn về bài làm
văn NLVH), dù là bài thi nào, kì thi nào (thi HS giỏi, thi THPT Quốc gia, thi học
kì...) thì nhiệm vụ của người thí sinh là sau khi giải quyết tốt nhất yêu cầu chính
của đề bài, nếu muốn được điểm khá giỏi (điểm 8; 9; 10) các em đều phải có phần
liên hệ mở rộng khẳng định và nâng cao về vấn đề đã phân tích, cảm nhận – cho dù
đề bài không yêu cầu cụ thể. Đây là một trong những phần quan trọng chứng tỏ
2


năng lực và vốn kiến thức sâu rộng của người viết. Và cũng chính là cơ sở quan
trọng để các giám khảo lấy làm căn cứ quyết định mức điểm cộng cho bài viết. Khi
chúng tôi đi chấm thi HS giỏi, chấm thi THPT Quốc Gia điều này lại càng rõ ràng
hơn bao giờ hết.
Nghiên cứu và áp dụng đề tài "Hướng dẫn HS vận dụng những kiến thức liên
hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ Đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong
đề thi THPT Quốc gia", tôi kì vọng có thể hình thành ở HS những kiến thức kĩ
năng cần thiết giúp các em tự tin hơn trong mỗi bài thi, hào hứng hơn trong mỗi bài

học. Có thể vận dụng và vận dụng tốt khi làm văn NLVH trong bài thi nói chung và
kì thi THPT Quốc gia nói riêng. Đồng thời khảo sát đánh giá lại hiệu quả trong
công tác giảng dạy của mình. Từ đó tiếp tục nghiên cứu, tiếp tục đổi mới nâng cao
chất lượng giờ Đọc văn, góp phần hình thành kĩ năng liên hệ mở rộng cho HS trong
từng bài viết - nhất là trong đề thi có yêu cầu cụ thể như trong kì thi THPT Quốc
Gia 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu của mình, tôi đã tiến hành nhiều
phương pháp như sau :
- Phương pháp quan sát, điều tra: Dùng phương pháp này để nắm được thực
trạng dạy học
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng phương pháp này để phân tích các
tài liệu liên quan đến thực tế làm bài của học sinh từ đó xác lập các lý thuyết liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Dùng phương pháp này để kiểm chứng tính hợp
lý và tính khả thi của đề tài.
- Phương pháp đàm thoại (với học sinh trong và sau giờ học, với đồng nghiệp
trong giờ sinh hoạt chuyên môn) để tìm hiểu về tính khả thi và hiệu quả của đề tài.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lâu nay trong dạy học văn, người ta thường dùng thuật ngữ là “Giảng văn”,
“Phân tích văn”…thì SGK cải cách đã thay bằng thuật ngữ “Đọc- hiểu văn bản” và
giờ đây là chúng tôi gọi là "Đọc văn". Đây không chỉ là sự thay đổi về tên gọi mà
thực chất là sự thay đổi thay đổi quan niệm về bản chất của môn Văn, cả về phương
pháp dạy học Văn và các hoạt động khi tiếp nhận TPVH cũng có những thay đổi.
Theo Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hùng “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học

chỉ mức độ cao nhất của hoạt động đọc; đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn
của người đọc”. “Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”.[3]
Còn với Giáo sư Trần Đình Sử “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột phá trong việc
đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo
nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến”.[4] Như vậy, đọc
hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua khả năng
tiếp nhận của HS. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn,
nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thông điệp tư tưởng, tình
cảm của người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Với quan điểm
phát huy vai trò chủ thể của HS, xuất phát từ đặc thù của văn chương (nghệ thuật
ngôn từ), mà phương pháp dạy học Văn thay bằng khái niệm “Đọc hiểu văn bản”
-còn gọi là "Đọc văn".
Liên hệ được hiểu là: từ sự việc, hiện tượng này nghĩ đến sự việc, hiện
tượng khác dựa trên những mối quan hệ nhất định.[5] Trong dạy đọc
văn, liên hệ là một hoạt động thường xuyên của người thầy giúp HS có
cơ sở để ghi nhớ thức của bài học. Giáo viên có thể hướng dẫn HS của
mình liên hệ giữa chi tiết, hình ảnh, nhân vật, sự kiện ở tác phẩm này
với chi tiết, hình ảnh, nhân vật, sự kiện ở tác phẩm khác, với hiện thực
đời sống và những trải nghiệm thực tế của bản thân...nhằm khắc sâu
kiến thức đã học một các tự nhiên nhất. Đây là một hoạt động khá khó
khăn đòi hỏi người người dạy phải nghiên cứu kĩ càng và thao tác
nhanh gọn rõ ràng mới thuyết phục được học sinh trong khoảng thời
gian eo hẹp (ba đến năm phút) của một giờ học.
Trong giờ Đọc văn, những liên hệ có thể được tiến hành đa dạng, nhiều mức
độ như: nhan đề, cảm hứng, đề tài, nhân vật, chi tiết, hình ảnh... Có thể liên hệ với
tác phẩm của cùng tác giả hoặc khác tác giả; có thể liên hệ tác phẩm cùng trong
chương trình THPT hoặc ngoài chương trình. Liên hệ còn có thể xảy ra ở những
vấn đề trong tác phẩm và những trải nghiệm trong chính thực tế đời sống của người
dạy và người học.


4


Tuy nhiên, ở đây, trong khuôn khổ đề tài này, tôi chỉ xin đề cập đến sự liên
hệ, mở rộng, nâng cao trong phạm vi các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn
THPT.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường THPT Triệu Sơn 5 là một ngôi trường đóng trên địa bàn mà dân cư tới
97% là thuần nông của huyện Triệu Sơn. Trình độ dân trí thấp. Nhà trường lại mới
được chuyển sang công lập. Chất lượng đầu vào của HS nói chung là còn nhiều hạn
chế. Số em học được môn Ngữ văn lại càng hiếm hoi. Các em ngại học văn, sợ thi
văn. Điểm thi kháo sát chất lượng (KSCL) của các em thường không cao. Đây là
một thực trạng đáng báo động với cả thầy và trò.
Mặt khác, theo như đề thi minh họa THPT môn Ngữ văn năm 2018 thi đề thi
có sự thay đổi sâu sắc ở phần NLVH. Phần này đề bài yêu cầu thí sinh phải biết liên
hệ, tích hợp kiến thức của TPVH Ngữ Văn 12 và TPVH Ngữ văn 11. Để làm tốt
phần này (phần chiếm một nửa số điểm trong thang điểm 10), trước hết các em học
sinh phải có kiến thức hệ thống của toàn bộ chương trình lớp 12 và chương trình
lớp 11. Đề thường tích hợp theo yêu cầu từ chương trình lớp 12 trước, sau đó liên
hệ với chương trình lớp 11. Đề tích hợp hỏi theo hướng mở và vô cùng phong phú,
đa dạng về yêu cầu. Thông thường câu hỏi tích hợp sẽ là: hỏi tích hợp tác phẩm của
cùng một tác giả; theo nhóm nhân vật, hỏi tích hợp nhóm đề tài, tích hợp nhóm chủ
đề; tích hợp theo phong cách sáng tác; tích hợp để so sánh làm nổi bật 2 trào lưu
văn học; tích hợp so sánh một khía cạnh nào đó về nội dung (như giá trị hiện thực,
nhân đạo), giá trị nghệ thuật (như tình huống, bố cục, cách kết thúc)... Theo đánh
giá chung của các giáo viên văn, đây là một dạng đề khó. Bởi vậy, việc làm bài thi,
bài kiểm tra với các em HS trường tôi gần như là một "cực hình".
Hơn nữa kể từ kì thi năm 2017, thời gian làm bài môn Ngữ văn bị thu hẹp (từ
180 phút (Đại học), 150 phút (Tôt nghiệp THPT) nay chỉ còn lại 120 phút). Đó là
một thách thức lớn với các em thí sinh. Thực tế, kể từ khi bài thi môn Ngữ văn chỉ

thi trong 120 phút trong nhiều lần thi tại trường tôi, rất nhiều HS của chúng tôi
không hoàn thành bài viết của mình, điển hình như các em Nhữ Văn Vùng, Đỗ Văn
Tùng, Lê Thị Uyên... (Lớp 12A5 năm học 2016 - 2017), Em Lê Tiến Tuấn, Đỗ Thị
Trang, Phạm Thị Quỳnh, Hoàng Thị Duyên, (Lớp 12A1 năm học 2017 - 2018).
Đáng chú ý là trong số những HS không làm bài xong có cả những em là HS khá,
giỏi. Có em xong được bài lại vội vàng mà "quên" phần mở rộng nâng cao để
khẳng định vấn đề khiến bài làm có kết quả không như mong muốn.
Những lần thi thử cuối cùng tại trường (Trường THPT Triệu Sơn 5) đa phần
các em đã khắc phục được lỗi chưa hoàn thành bài viết. Nhưng phần liên hệ nâng
cao mở rộng ở cuối bài thì một số em vẫn còn "bỏ sót". Tìm hiểu nguyên nhân tôi
được biết do các em chưa hình thành được kĩ năng này một cách thuần thục, nên
lúc đi thi, thời gian thúc bách các em không nghĩ ra kịp và đành "bỏ qua". Đó là

5


một trong những điều khiến các em nuối tiếc nhất khi cô giáo chữa lại bài viết và
rút kinh nghiệm cho lần thi sau.
Để giúp các em HS của mình bình tĩnh, tự tin và khắc phục những tồn tại nêu
trên trong bài viết, bản thân tôi đã trao đổi với đồng nghiệp trong tổ bộ môn và đã
từng bước tiến hành "Hướng dẫn HS vận dụng những kiến thức liên hệ, mở rộng,
nâng cao trong giờ Đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong đề thi THPT
Quốc gia".
2.3. Những giải pháp thực hiện
2.3.1. Hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ năng liên hệ, mở rộng,
nâng cao trong giờ Đọc văn
Như trên đã nói, trong mỗi giờ đọc văn trên lớp tôi đã hình thành kĩ năng liên
hệ hoặc tạo mối liên hệ giữa các tác phẩm với nhau dù đó chỉ là một chi tiêt, một
hình ảnh có ý nghĩa có ý nghĩa tương đồng...Việc hình thành kiến thức liên hệ, mở
rộng và nâng cao trong giờ học văn thường được tôi tiến hành cả ở 3 khối lớp và ở

mỗi bài học.
Ví dụ 1: Khi dạy học sinh Đọc văn bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão, nhằm giúp
các em hiểu sâu sắc ý nghĩa nhân văn cao đẹp trong nỗi thẹn của tác giả tôi hướng
các em liên hệ với nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến. Trong bài Thu vịnh- một trong ba
bài thơ xuất sắc của chùm "Thơ thu" trứ danh, ông cũng từng ngậm ngùi:
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
Ông Đào ở đây là Đào Tiềm, một nhân vật lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc,
Cụ Tam nguyên Yên Đổ thẹn vì khiêm tốn thấy mình còn chưa khí tiết và tài năng
như vậy. Đó là những nỗi thẹn nâng cao tầm vóc vị thế của những nhân các đẹp.
Ví dụ 2: Khi dạy bài "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi có một hình ảnh đẹp của
cuộc sống được khắc họa:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Khi dạy đến đây tôi thường liên hệ đến hình ảnh cái chợ phiên ở phố huyện nghèo
trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu,
người về hết và tiếng ồn ào cũng mất..." để các em có thể tự so sánh và rút ra nhận
xét về vẻ đẹp và đặc điểm của bức tranh đời sống mà Nguyễn Trãi đã tái hiện.
Ngược lại, khi dạy đến tác phẩm "Hai đứa trẻ", trong phần "Bức tranh thiên
nhiên và cuộc sống con người trong cảnh ngày tàn và những kiếp đời tàn", tôi lại
nhắc lại hai câu thơ này và yêu cầu các em liên hệ để thấy được nét riêng và điểm
chung của hai bức tranh, hai cách nhìn và tâm trạng của mỗi tác giả. Từ đó các em
có thể nhận thấy những điểm chung có tính nhân bản trong con mắt nghệ thuật của
hai tác giả lớn trong nền văn học Việt Nam.
Ví dụ 3: Khi dạy bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận, ở khổ thơ cuối, nhà thơ miêu
tả cảnh hoàng hôn đầy gợi cảm và ấn tượng. Ngoài việc liên hệ để HS thấy được sự
tài tình của tác giả khi sử dụng những thi liệu đậm chất cổ điển (chim, mây, khó
6


hoàng hôn) nhưng vẫn thổi vào đó cái linh hồn của Thơ mới- cái điệu tâm hồn của

chính nhà thơ. Tôi cũng liên hệ để thấy được sự "gặp gỡ" giữa Huy Cận với Hồ Chí
Minh trong bài thơ "Chiều tối" của Người. Thi liệu cũ, nhưng tấm lòng và nỗi niềm
lại mang vẻ đẹp riêng, rất hiện đại, rất nhân bản...
Ví dụ 4: Khi dạy bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu lúc nhấn mạnh quan niệm mới
mẻ của nhà thơ về dòng chảy tuyến tính bất tận của thời gian và khát vọng sống
mạnh mẽ, mãnh liệt của nhân vật trữ tình trong khổ thơ cuối bài thơ "Vội vàng":
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Tôi lại định hướng các em liên hệ với khát vọng táo bạo mãnh liệt của Xuân
Quỳnh trong hai khổ thơ cuối của bài thơ "Sóng" :
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.
Ví dụ 5: Khi tìm hiểu truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài đến chi tiết
tiếng sáo - biểu tượng đẹp cho tự do, tình yêu, hạnh phúc ngay từ đầu đã đánh thức
tâm hồn đang an phận, nhóm lên những khát khao. Điệu hồn tha thiết của người
Mèo làm hồi sinh tâm hồn và giục giã Mị hành động như một người tự do rồi đưa
Mị đến với bầu trời của tự do, tình yêu, hạnh phúc, thoát khỏi hiện tại éo le trong

chốc lát, quên đi cảnh ngộ hiện tại của bản thân…
Thật đặc biệt, trong giờ học ấy có một học sinh chưa cần cô giáo gợi mở đã
chủ động giơ tay nói với cô và cả lớp rằng bạn ấy thấy chi tiết này gợi cho bạn ấy
nhớ đến chi tiết bát cháo hành mà thị Nở đem đến cho Chí Phèo. Ngay lập tức lời
chia sẻ ấy nhận được sự đồng cảm của cô giáo và toàn thể các bạn. Giờ học vì thế
mà hào hứng sôi nổi hẳn lên. Sau đó tôi mời một học sinh lên nhắc lại những kiến

7


thức liên quan đến ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của thị Nở. Cả lớp cùng nhớ lại
sau khi được nhắc lại kiến thức cũ. Cùng suy ngẫm và cảm nhận.
Vẫn trong khi phân tích "Vợ chồng A Phủ", chi tiết Mị hồi sinh tâm hồn trong
đêm tình mùa xuân, học sinh của tôi lại hào hứng liên hệ với sự thức tỉnh của Chí
Phèo sau khi gặp thị Nở. Bài học cũng nhờ vậy mà trôi đi một cách nhẹ nhàng và
hiệu quả.
Cứ như thế, việc liên hệ trong từng bài học tiết học của cô trò chúng tôi dần
trở thành một thói quen, một điều thú vị. Có hôm trong giờ học có em thi nhau liên
khiến giờ học trở nên sôi nổi, hào hứng. Không chỉ những em học tốt chăm phát
biểu mà cả những em học trung bình thậm chí học yếu cũng tham gia. Tôi cảm thấy
rất vui và kì vọng vào các làm của mình. Tuy nhiên, cũng có những giờ học các em
liên hệ "xa quá", thậm chí chẳng ăn nhập gì với vấn đề đang học. Những trường
hợp như thế vẫn có thể xảy ra và đòi hỏi giáo viên phải có kinh nghiệm để điều tiết
những liên hệ có phần "sa đà' của các em.
2.3.2. Hướng dẫn cho học sinh cách làm bài văn nghị luận văn học trong bài
thi theo định hướng THPT Quốc gia (hướng tới chinh phục đề thi THPT Quốc
gia 2018)
Để giúp cho HS khỏi lúng túng khi làm bài thi theo định hướng đề thi THPT
Quốc gia (thi thử, thi định kì...) tiến tới chinh phục bài thi THPT Quốc gia, trong
quá trình ôn tập tôi thường định hướng rõ cho các em cách làm bài văn NLVH có

yêu cầu liên hệ liên tác phẩm (lớp 12 và lớp 11 hoặc lớp 11 và lớp 10). Sau đây là
một ví dụ:
"Mở bài [6]
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (giới thiệu tác giả, tác phẩm yêu cầu chính – tức là
yêu cầu cơ bản trong vế đầu của đề).
Thân bài
Yêu cầu cơ bản: Vế phân tích/cảm nhận/… vấn đề cần nghị luận ở tác phẩm trong
chương trình Ngữ văn lớp 12.
Yêu cầu nâng cao: Tức là vế liên hệ, mở rộng trong đề mà thường là liên hệ với vấn
đề trong các tác phẩm chương trình Ngữ văn lớp 11. Việc này để bình luận, nhận
xét về một vấn đề nào đó về phương diện nội dung, nghệ thuật, tư tưởng, quan
điểm, phong cách sáng tác của tác giả, điểm giống và khác của các tác phẩm
cùng/khác giai đoạn văn học...
Lưu ý: Vế này có thể nhắc đến tác giả, tác phẩm (như đoạn trích/tác phẩm này của
ai, ở đâu chẳng hạn) nhưng không nhất thiết bắt buộc phải giới thiệu.
Kết bài
Đánh giá chung lại vấn đề nghị luận.
Ở đây, học sinh nên tập viết thành đoạn trong quá trình ôn luyện như viết đoạn mở
bài, đoạn làm rõ yêu cầu cơ bản, đoạn làm rõ yêu cầu nâng cao để đi đến đoạn đánh
giá chung.
8


Sau đó, HS xem xét nội dung kiến thức cho đến khi đầy đủ nhất rồi mới viết một
bài văn hoàn chỉnh.
* Chú ý. Bài văn liên hệ không phải là bài văn so sánh. Nên ý liên hệ không phải là
trọng tâm mà chỉ là ý bổ trở góp phần làm nổi bật yêu cầu số 1 của đề bài. Điểm
cho phầm liên hệ không quá 20% điểm bài thi.
Ví dụ 1
+ Đề bài:

Câu 2 (5,0 điểm)
... Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành ...
(Tây Tiến, Quang Dũng)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp hình tượng người lính thông qua đoạn thơ trên. Từ
đó, liên hệ với bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2017) để bình luận về ý nghĩa của lí tưởng sống đối với con người.
+ Gợi ý:
Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến và hình tượng người
lính Tây Tiến qua đoạn trích: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ …/ Sông Mã gầm
lên khúc độc hành.
Thân bài:
Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến (Ngữ văn 12)
qua đoạn trích thơ Tây Tiến.
– Vẻ đẹp thể hiện qua chân dung: không mọc tóc, quân xanh màu lá - đoàn binh,
oai hùm, mắt trừng...
– Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
– Vẻ đẹp lý tưởng – lý tưởng cao đẹp: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11) để bình
luận về ý nghĩa của lí tưởng sống đối với con người.
– Liên hệ:
+ Lý tưởng sống thể hiện trong bài thơ Từ ấy: Lý tưởng cách mạng và vai trò của lí
tưởng cách mạng đối với nhà thơ (với tư cách là một con người).

+ Lý tưởng cao đẹp và vai trò của lí tưởng đó đối những người lính Tây Tiến (với
tư cách là một con người).
– Bình luận: đánh giá, nhận xét vài trò của lí tưởng sống đối với con người.
9


Kết bài:
Đánh giá chung: Vai trò, vị trí của hình tượng người lính Tây Tiến đối với tác
phẩm, tác giả, nền văn học cách mạng và văn học Việt Nam. Đồng thời là vai trò
giáo dục của lí tưởng sống đối với con người.
Ví dụ 2
Câu 2 (5,0 điểm) [7]
Cảm nhận về sự hồi sinh của tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A
phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ
đến sự hồi sinh của Chí Phèo vào buổi sáng hôm sau khi gặp Thị Nở (Chí Phèo –
Nam Cao, Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để thấy được ngòi
bút nhân đạo sâu sắc của mỗi nhà văn.
+ Gợi ý:
Mở bài:
*Giới thiệu vài nét về tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhân vật Mị
Thân bài:
*Giải thích khái niệm qúa trình hổi sinh: nghĩa là quá trình sống lại
*Cảm nhận và quá trình hồi sinh của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Giới thiệu về hoàn cảnh của Mị trước khi hồi sinh: Mị là một cô con dâu gạt nợ
sống ở nhà thống lí Pá Tra. Quãng đời của Mị ở Hồng Ngài bị đày đọa cả vè thể
xác lẫn tinh thần-> Khiến Mị sống vô cảm vô hồn, không có ý thức về thời gian,
tuổi trẻ, tình yêu, cam chịu, nhẫn nhục.
– Hoàn cảnh hồi sinh của Mị: Không khí tết ở Hồng Ngài, âm thanh tiếng sáo, hơi
rượu
- Biểu hiện:

+ Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, Phản ứng đầu tiên
của Mị là: “nếu có nắm lá ngón rong tay Mị sẽ ăn cho chết”. Mị đã ý thức được tình
cảnh đau xót của mình.
+ Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ sắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của
mình. Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy
hoa vắt ở phía trong vách”.
+ Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói.
- Nghệ thuật: miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mị; lựa chọn
được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao.
* Liên hệ đến quá trình hồi sinh của nhân vật Chí Phèo vào buổi sáng hôm sau khi
gặp Thị Nở.
-Giới thiệu về hoàn cảnh cuộc đời của Chí Phèo trước khi hồi sinh: Chí Phèo vốn là
anh niên khỏe mạnh, lương thiện bị Bá Kiến đẩy vào tù. Sau khi ra tù, Chí trượt dài
trên dốc lưu manh tha hóa trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
– Hoàn cảnh hồi sinh: cuộc gặp gỡ với Thị Nở
10


– Biểu hiện:
+Sáng hôm sau: Chí Phèo lúc này bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh
mình; Chí Phèo nhớ về những ước mơ của mình, những mong muốn hết sức giản dị
của ngày xưa;Từ hồi tưởng quá khứ hắn nhìn lại với thực tại: Ốm đau bệnh tật.
+ Được đón nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo có nhiều cảm xúc: ngạc
nhiên, vui, xúc động và khao khát được làm người lương thiện.
* Nhận xét về ngòi bút nhân đạo sâu sắc của mỗi nhà văn
- Tương đồng: Đều là quá trình hồi sinh nhân tính của những số phận khổ đau. Phải
thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để
cho họ hồi sinh nhân tính như vậy.
- Khác biệt:

Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài: Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu
thương, thông cảm phát hiện ra vẻ đẹp sức sống tiềm tàng trong tâm hồn những con
người dân miền núi trước Cách mạng
Ngòi bút nhân đạo của Nam Cao: nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng
niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong tâm hồn con người.
Kết bài. Đánh giá chung: Vai trò của sự hồi sinh ở nhân vật và giá trị nhân đạo sâu
săc mới mẻ của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
=>Giáo viên nhấn mạnh và khắc sâu: cách làm của dạng đề này khác dạng đề
so sánh. Cụ thể:
Dạng đề
Mở bài
Dung lượng

Mục đích

Điểm
Kết bài

So sánh
Liên hệ
Giới thiệu cả hai đối tượng so
Giới thiệu một đối tượng
sánh (tác giả, tác phẩm, vấn đề
chính trong yêu cầu đề
được yêu cầu)
Như nhau cho cả hai đối
Đối tượng chính thường chiếm
tượng so sánh
nhiều hơn (3/4)
Làm nổi bật sự giống và khác

Bình luận, nhận xét về một
nhau về nội dung, nghệ thuật, vấn đề nào đó về phương diện
tư tưởng, quan điểm, phong nội dung, nghệ thuật, tư tưởng,
cách sáng tác của tác giả. Lí
quan điểm, phong cách sáng
giải cụ thể tỉ mỉ nguyên
tác của tác giả, điểm giống và
nhân...
khác (lí giải ngắn gọn).
Phần liên hệ chỉ chiếm khoảng
Điểm cân bằng cho cả hai
0,5- 1,0 điểm ( khoảng 10 phần của phép so sánh
20%) [1]
Khái quát nâng cao cả hai đối Khẳng định vấn đề nghị luận
tượng so sánh
kết hợp liên hệ nâng cao.

11


2.3.3. Khảo sát việc vận dụng kiến thức đã học của HS thông qua các kì thi
theo định hướng THPT Quốc Gia (2018) tại trường.
Dạy học là một hình thức lao động đặc thù. Sản phẩm và hiệu quả lao động
của người thầy là sản phẩm thứ phát, phải được kiểm chứng qua việc ghi nhớ và
vận dụng trong thức tế bài làm của HS qua các bài thi, kì thi. Ở trường chúng tôi
Ban chuyên môn nhà trường luôn chỉ đạo sát sao việc thi khảo sát định kì cho HS
(thi chất lượng đầu năm, giữa học kì, thi học kì, thi KSCL...). Để tất cả học sinh
đều có thể tiếp cận với cấu trúc và dạng câu hỏi của bài thi THPT Quốc Gia, nhà
trường luôn yêu cầu chúng tôi xây dựng ma trận, cấu trúc đề bám sát đề thi THPT
Quốc gia (ở tất cả các môn). Và ngay trong năm học này, Học kì 1 chúng tôi ra đề

câu nghị luận văn học theo cấu trúc giống như đề thi 2017 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Nhưng sang học kì 2, khi Bộ GD đề thi minh họa chúng tôi đã bám sát ra đề
theo hướng có sự liên hệ liên tác phẩm (lớp 12 và lớp 11). Nhờ đó, chúng tôi có cơ
hội để khảo sát khả năng vận dụng việc liên hệ mở rộng nâng cao của học sinh
trong bài làm văn trước kì thi THPT Quốc gia 2018.
2.3.3.1. Đề thi và hướng dẫn chấm
Trong học kì 2 vừa qua, nhà trường chúng tôi đã tổ chức thi giữa kì, cuối kì
cho các lớp khối 10, 11, và 12. Đề thi của chúng tôi đều có yêu cầu liên hệ mở rộng
và nâng cao. Cụ thể:
* Đề thi KSCL cuối năm học, khối 10: [8]
Phần Làm văn. Câu 2 (5,0 điểm). Cảm nhận của em về hình tượng nhân vật Ngô
Tử Văn (Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên- Nguyễn Dữ), từ đó hãy nêu những
phẩm chất cần có của thanh niên trí thức trong thời đại ngày nay.
* Đề thi KSCL cuối năm học, khối 11: [9]
Phần Làm văn. Câu 2 (5,0 điểm). Cảm nhận của em về đoạn 2 bài thơ "Vội vàng"
của Xuân Diệu. Từ cảm nhận mới mẻ của tác giả về bước đi vội vã của thời gian
trong đoạn thơ trên anh/ chị hãy liên hệ với hai câu cuối trong bài thơ "Tự tình 2"
của Hồ Xuân Hương "Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/Mảnh tình san sẻ tí con con"
để thấy được điểm gặp gỡ và nét riêng trong cảm nhận thời gian của hai thi sĩ.
* Đề thi KSCL cuối năm học, khối 12. [10]
Phần Làm văn. Câu 2 (5,0 điểm).
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhận vật Tràng (Vợ nhặt - Kim Lân)
trong buổi sáng đầu tiên có vợ. Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo vào buổi
sáng sau khi gặp Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao), để bình luận ngắn gọn về tư tưởng
nhân đạo của mỗi nhà văn.
Đặc biệt, trong các bài thi KSCL THPT Quốc gia, trường THPT Triệu Sơn 5
cũng như đề thi của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa đều ra theo định
hướng này. Cụ thể:
* Đề thi KSCL lớp 12 (lần 3) [11]


12


Phần Làm văn. Câu 2. (5,0 điểm). Phân tích vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương
trong Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ đó liên hệ đến
khổ thơ thứ 2 của Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để làm rõ vẻ đẹp của cái tôi
trữ tình của hai nghệ sĩ.
* Đề thi KSCL lớp 12 THPT năm học 2017 - 2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa: [12]
Phần Làm văn. Câu 2. (5,0 điểm).
Cảm nhận của anh/chị về những thay đổi của nhân vật Tràng từ khi có vợ (Vợ
nhặt - Kim Lân). Liên hệ với những thay đổi của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp gỡ
Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2016). Từ đó, so sánh tư tưởng nhân đạo của hai tác giả.
Về hướng dẫn chấm: (Tôi giới thiệu 2 Hướng dẫn chấm tiêu biểu)
* Đối với Đề thi KSCL lớp 12 THPT - lần 3 [11]
Phần Làm văn. Câu 2. (5,0 điểm). Phân tích vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương
trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ đó liên hệ
đến khổ thơ thứ 2 của "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử để làm rõ vẻ đẹp của cái
tôi trữ tình của hai nghệ sĩ.
Hướng dẫn chấm
1. Mở bài (0,25 đ)
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"
→ Qua vẻ đẹp của sông Hương giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của cái tôi trữ tình
tác giả.
2. Thân bài (4,5đ)
a) Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương: (3,0 điểm)
* Sông Hương vùng thượng lưu được miêu tả và so sánh như cô gái Di-gan phóng
khoáng và man dại:
– Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang

dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm.
– Dòng sông được nhân hoá : như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại,
rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
=>Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
* Sông Hương ở đồng bằng:
– Với vốn hiểu biết về địa lí đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình
ảnh: “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một
cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai
của nó...”.
– Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như chế ngự được bản năng của
người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù
sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
13


– Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, có hình khối; vẻ đẹp đa màu mà biến ảo;
Sông Hương còn có vẻ đẹp trầm mặc như triết lí như cổ thi...
=> Sông Hương như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang đi tìm hạnh phúc tình
yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim.
* Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng, với
những hình ảnh:“Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành
trăng non”; “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng
vâng không nói của tình yêu”, “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của
nó khi ngang qua thành phố”.Sông Hương như không muốn xa thành phố: “Rồi
như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngặt sang
hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinh… Đấy là nỗi vương vấn, cả
một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
=> Sông Hương và Huế gặp gỡ qua cảm nhận của tác giả như một cuộc hội ngộ
của một cặp tình nhân

b) Liên hệ với khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ (0,75đ)
– Khổ 2 của bài thơ miêu tả vẻ đẹp đêm trăng, nơi mảnh đất cố đô với núi Ngự,
sông Hương trầm buồn mà sâu lắng.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời thấm nỗi niềm cảm xúc của con người.
Con người tài hoa bất hạnh ấy đã mượn cảnh để vẽ tình, lấy điều phi lí để nói lên
điều có lí trong tâm trạng của mình; tha thiết yêu đời nhưng cuộc sống của nhà thơ
đang được tính bằng giây, bằng phút.
Hai câu thơ: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Một không gian tràn ngập ánh trăng, đẹp như cõi mộng. Câu hỏi tu từ mang bao
khắc khoải giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về nỗi lòng của một con người đang
chạy đua với thời gian để sống, để yêu, để khao khát hạnh phúc.
c) So sánh (0,75đ)
+ Tương đồng:
- Cả 2 tác giả đều lấy những địa danh nổi tiếng của Huế để làm điểm nhấn và khởi
hứng cảm xúc
- Cùng tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên , cảnh sắc, con người Huế rất riêng, rất thơ
mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền
nhất trong lòng các tác giả.
- Đều thể hiện cái tôi tinh tế nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng
mạn, và trí tưởng tượng phong phú.
+ Khác biệt: Hoàng Phủ Ngọc Tường lấy điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một
không gian rộng lớn, phóng khoáng hơn, Thì Hàn Mặc Tửlại chọn điểm nhìn hẹp,

14


cái nhìn từ kí ức. Vẻ đẹp xứ Huế hiện lên với những nét đặc trưng, bình dị, quen

thuộc, lãng mạn… nhưng cũng gợi buồn.
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hàn Mặc Tử đều có tình cảm tha thiết, sâu nặng
với Sông Hương, với Huế. Đều là những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong
văn chương, có tâm hồn lãng mạn.
3. Kết luận (0,25)
– Qua ngòi bút uyên bác, mê đắm tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông
Hương hiện lên với vẻ đẹp có linh hồn, đầy lãng mạn.
– Cùng với Hàn Mặc Tử, vẻ đẹp sông Hương trở nên phong phú, huyền ảo dễ làm
say lòng người.
* Đối với Đề thi KSCL lớp 12 THPT năm học 2017 - 2018 của Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh Hóa [12]
Câu 2: (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những thay đổi của nhân vật Tràng từ khi có vợ (Vợ
nhặt - Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Liên hệ
với những thay đổi của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp gỡ Thị Nở (Chí Phèo - Nam
Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó, so sánh tư
tưởng nhân đạo của hai tác giả.
Hướng dẫn chấm:
1. Về kĩ năng: (0,5 điểm)
Có kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học, đảm bảo bố cục bài văn; xác định đúng
vấn đề cần nghị luận và triển khai vần đề thành hệ thống các luận điểm; vận dụng
tốt các thao tác lập luận khác nhau; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; diễn
đạt rõ ràng, mạch lạc; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
2. Về kiến thức:
2.1 Giới thiệu khái quát: về tác giả Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt, nhân vật Tràng
(0,25 điểm)
2.2 Cảm nhận khát vọng hạnh phúc của Tràng (2,75 điểm)
Thí sinh có thể cảm nhận theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo những yêu cầu sau
đây:
- Tràng là người lao động đói khổ, nghèo hèn, trong tình cảnh đói khát, trên bờ vực

cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình. Tràng có vợ một cách dễ dàng nhưng
Tràng không rẻ rúng, coi thường mà rất trân trọng hạnh phúc của mình (mời vợ bữa
ăn no trong lúc sắp chết đói, mua dầu thắp sáng giữa cảnh đời tăm tối…)
- Khát khao hạnh phúc của Tràng
+ Niềm hạnh phúc dâng trào thành cảm giác lửng lơ, êm ái như trong giấc mơ,
thành sự phấn chấn đột ngột, thành niềm sung sướng vì đã tìm thấy hạnh phúc ngay
trong tận cùng đói khát, khổ đau.

15


+ Trước đây, Tràng vô tâm thờ ơ với gia đình; sau khi có vợ, trong lòng dậy lên tình
cảm yêu thương, gắn bó với căn nhà, có ý thức trách nhiệm, khát khao một gia đình
hạnh phúc, thấy mình nên người, trưởng thành hơn…
+ Tràng muốn biến cảm xúc và ý thức thành những hành động cụ thể “muốn làm
một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
- Khát khao hạnh phúc của nhân vật được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả tâm lí
tinh tế, sâu sắc, ngôn ngữ trần thuật giản dị, tự nhiên, giàu biểu cảm.
2.3. Giới thiệu khái quát: tác giả Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo, nhân vật Chí Phèo
2.4. Liên hệ khao khát được sống lương thiện của nhân vật Chí Phèo khi gặp Thị
Nở (0,75 điểm)
+ Tỉnh rượu, Chí cảm nhận được không gian xung quanh với “cái lều ẩm thấp mới
chỉ lờ mờ”. Đặc biệt hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen thuộc của cuộc
sống quanh mình. Những âm thanh ấy đã vọng sâu vào trái tim Chí Phèo như tiếng
gọi tha thiết của sự sống.
+ Lời đối thoại của hai người đàn bà đã gợi nhắc cho Chí Phèo nhớ lại mơ ước về
một gia đình hạnh phúc, bình dị.
+ Chí Phèo cũng đã cảm nhận được một cách thấm thía về tình trạng thê thảm của
bản thân (già nua, cô độc, trắng tay).
3. Tấm lòng nhân đạo mà các nhà văn dành cho người nông dân nghèo khổ (0,75

điểm)
+ Giống nhau: Qua khát vọng hạnh phúc của Tràng, khát khao sống lương thiện của
Chí Phèo, Kim Lân và Nam Cao đều khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật. Đồng
thời thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, hướng người đọc đến tình cảm yêu
thương, tin tưởng vào sức mạnh của con người trên con đường đi tìm hạnh phúc.
Tấm lòng nhân đạo sâu sắc đó đã góp phần nâng cao giá trị văn xuôi hiện đại Việt
Nam.
+ Khác nhau:
+) Chí Phèo là hành trình thức tỉnh trở lại làm người. Qua đó, nhà văn phản ánh
hiện thực bế tắc của người nông dân lao động, cất tiếng nói tố cáo hiện thực xã
hội...
+) Tràng lại như trở thành một con người khác trưởng thành hơn, có trách nhiệm
vun vén cho hạnh phúc gia đình. Qua đó, nhà văn phản ánh xu hướng vận động tất
yếu của số phận con người, thể hiện niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp
- Lí giải sự khác nhau: Sự khác biệt do hoàn cảnh, phương pháp sáng tác
2.3.3.2. Những tín hiệu vui từ bài làm của HS
HS của chúng tôi từ chỗ bỡ ngỡ với dạng đề thi mới khi đề thi minh hoạ của
Bộ GD được công bố, đến bài thi KSCL THPT Quốc gia lần 3 của trường, bài thi
KSCL THPT lớp 12 của tỉnh Thanh Hoá, các em đã có những tiến bộ đáng kể.
Dưới đây là một vài sản phẩm tiêu biểu:

16


"Vẻ đẹp gợi, hình, gợi cảm của Hương Giang dưới ngài bút hướng nội tài
tình của Hoàng Phủ Ngọc tường khiến ta nhớ đến hình ảnh sông Hương trong khổ
thơ thứ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Vì mặc cảm chìa lìa đang
ngập tràn trong lòng thi sĩ nên hình ảnh thơ trở nên rất đặc biệt- sông nước mây
trời như thấm đẫm nỗi niềm cảm xúc của nhân vật trữ tìnhi. Con người tài hoa
bất hạnh ấy đã mượn cảnh để vẽ tình, lấy điều phi lí để nói lên điều có lí trong

tâm trạng của mình; tha thiết yêu đời nhưng cuộc sống của nhà thơ đang được
tính bằng giây, bằng phút. Dòng Hương Giang trở thành không gian tràn ngập
ánh trăng, đẹp như cõi mộng. Nhưng lại đau đáu nỗi niềm khắc khoải day dứt.
Khổ thơ như chạm khắc thành công được nỗi lòng của một con người đang chạy
đua với thời gian để sống, để yêu, để khao khát hạnh phúc. Tất cả được thể hiện
trong một chữ “kịp”, một chữ khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn;
khiến cho tình thơ trở nên da diết, ngậm ngùi, xót xa.
Cả hai tác giả đề lấy cảm hứng từ một địa danh nổi tiếng làm điểm tựa cho
cảm hứng và những suy tư và cảm xúc của bản thân mình. Họ đều tái hiện thành
công, gợi được cái hồn rất riêng, rất thơ và rất Huế của Sông Hương, đều thể
hiện cái tôi tinh tế nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, và
tình yêu sâu nặng với Huế với Hương Giang. Nhưng, hai tác giả, hai nguồn cảm
hứng khác nhau, hai điểm nhìn khác nhau,...cho nên dù cùng viết về Sông Hương
nhưng mỗi tác phẩm lại có một nét đẹp riêng, một sức hấp dẫn riêng" - trích bài
làm (đạt 8,25 điểm) của em Lê Thị Vân lớp 12C1 (Đề thi của trường).
"Những thay đổi của nhân vật Tràng kể từ khi có vợ lại nhắc cho tôi nhớ về
những thay đổi của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
Sau đêm gặp thị Nở ở bờ sông, Chí đã từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ, từ hồi sinh nhận
thức đến hồi sinh khát vọng. Chí Phèo khao khát được sống lương thiện, khao
khát được làm hoà với mọi người, muốn được trở về với xã hội bằng của loài
người. Chí tha thiết và tràn trề hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng cuối
cùng, hắn vẫn bị đẩy vào ngõ cụt, vào ngách cụt của cuộc đời. Thị Nở vì nghe lời
bà cô hay không thắng nổi băng giá của định kiến mà từ chối hắn, buông tay hắn
một cách phũ phàng, tàn nhẫn nhất. Chí Phèo lại bị đẩy ra khỏi xã hội loài người.
Nếu sự thay đổi của Tràng đem đến cho nhân vật (và cả người đọc) niềm tin
tưởng hi vọng mới thì sự thay đổi của Chí Phèo lại phản ánh tình cảnh bế tắc tột
cùng của người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, Kim Lân
và Nam Cao đều là những nhà văn sống cùng nông dân, thấu hiểu sâu sắc ước mơ,
khát vọng và cả bi kịch của họ. Qua khát vọng hạnh phúc của Tràng, khát khao
sống lương thiện của Chí Phèo, Kim Lân và Nam Cao đều khẳng định vẻ đẹp tâm

hồn nhân vật. Đồng thời thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, hướng người
đọc đến tình cảm yêu thương, tin tưởng vào sức mạnh của con người trên con
đường đi tìm hạnh phúc. Tấm lòng nhân đạo sâu sắc đó đã góp phần nâng cao giá

17


trị văn xuôi hiện đại Việt Nam". - trích bài làm (đạt 8,5 điểm) của em Vũ Thị Uyên,
lớp12C1 - đề thi của Sở GD và ĐT Thanh Hoá.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Kể từ khi tôi thực nghiệm đề tài này ở các lớp tôi trực tiếp giảng dạy tôi nhận
thấy:
- Giờ học sôi nổi hơn, học sinh chủ động tích cực hơn, chất lượng bài thi của
các em từng bước được cải thiện rõ rệt. Cụ thể điểm khảo sát bình quân chất lượng
đầu vào của lớp 10A4 là 4,24; lớp 10A1 là 3,25. Điểm thi cuối năm của lớp 10A4
là 5,96; 10A1 là 5,25. Lớp 12C1 điểm khảo sát chất lượng đầu năm là 5,56; điểm
thi cuối kì là 6,7; điểm thi thử THPT Quốc gia là 6,6.
- Đa số các em đều mạnh dạn trong giờ học, tự tin khi làm bài. Đặc biệt sang
học kì 2, khi tiếp cận với dạng câu hỏi tương tự đề thi minh họa các em càng tự tin
khi liên hệ và mở rộng.
- Tôi kì vọng với hướng đi này học sinh lớp 12C1 của mình có thể vượt qua kì
thi THPT Quốc Gia năm nay một cách tự tin và khả quan nhất.

18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.1.1 Bài học kinh nghiệm
Từ việc "Hướng dẫn HS vận dụng những kiến thức liên hệ, mở rộng, nâng

cao trong giờ Đọc văn để làm tốt bài làm văn NLVH trong đề thi THPT Quốc
gia", bản thân tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Một là, việc liên hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ Đọc văn là rất cần thiết. Cần
phải tiến hành thường xuyên và liên tục mới có thể hình thành kĩ năng tư duy và
nâng cao năng lực vận dụng trong bài thi. Có như thế việc liên hệ, mở rộng, nâng
cao mới thực sự có giá trị.
Hai là, khi tiến hành liên hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ Đọc văn, Giáo viên
phải đọc kĩ tài liệu, phải lựa chọn những đơn vị kiến thức giàu ý nghĩa, có giá trị
nghệ thuật, giá trị tư tưởng thẩm mĩ để liên hệ. Tránh việc liên hệ ngẫu hứng, tùy
tiện, tràn lan, thiếu thuyết phục,...
Ba là, việc liên hệ, mở rộng, nâng cao trong giờ Đọc văn không thể tách rời
với việc định hướng vận dụng những kiến thức ấy trong bài làm văn NLVH. Vì chỉ
khi ấy, việc liên hệ, mở rộng và nâng cao trong giờ Đọc văn mới thực sự có ý
nghĩa.
3.1.2. Khả năng ứng dụng và phát triển sáng kiến kinh nghiệm
Những kiến thức và kĩ năng được trình bày trong đề tài chính là những tâm
huyết và tìm tòi của người viết trong suốt một chặng đường dài đồng hành với học
sinh trong những giờ Đọc văn. Hơn nữa với thực tế đề thi hiện nay thì những kinh
nghiệm của tôi lại càng hữu ích với các em HS trước ngưỡng cửa kì thi THPT Quốc
gia nhiều thách thức.
Đồng thời đề tài của tôi cũng đã được một số đồng nghiệp ghi nhận và vận
dụng trong thực tế giảng dạy. Với tôi, đó là một niềm vinh dự, là động lực để tôi
tiếp tục cố gắng và nỗ lực trong công tác giảng dạy và nghiên cứu phát triển đề tài.
3.2. Kiến nghị
Qua việc tổ chức thực hiện cũng như những kết quả nghiên cứu bước đầu, tôi
có một vài kiến nghị, đề xuất như sau:
3.2.1. Đối với đồng nghiệp
Mỗi giáo viên cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác chuyên môn, phải
không ngừng tự học, tự nâng cao năng lực chuyên môn để luôn chủ động trước
những đổi mới của giáo dục, để bắt kịp với xu hướng thời đại qua từng giừ lên lớp.

3.2.2. Đối với các cấp lãnh đạo
- Tăng cường tạo điều kiện giúp đỡ, động viên các thầy giáo, cô giáo để
chúng tôi có điều kiện toàn tâm toàn ý chăm lo cho sự nghiệp trồng người. Đặc biệt
chú tâm vào đổi mới cải tiến phương pháp dạy học.

19


Tôi hi vọng nhận được sự giúp đỡ tạo điều kiện hơn nữa từ phía các cấp quản
lí Giáo dục, ban giám hiệu trường THPT Triệu Sơn 5, các bạn đồng nghiệp và để
tôi có thể áp dụng rộng rãi hơn những sáng kiến kinh nghiệm thực tế giảng dạy của
mình.
Đề tài này những kinh nghiệm được tôi rút ra trong trải nghiệm thực tế của
bản thân trong dạy và học của mình. Chắc chắn sẽ còn nhiều hạn chế và thiếu sót.
Kính mong nhận được sự quan tâm, góp ý từ phía các cấp quản lí và các bạn đồng
nghiệp đề đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường THPT Triệu Sơn 5, tổ
chuyên môn, các đồng nghiệp và các em HS đã nhiệt tình hưởng ứng và giúp đỡ tôi
thực hiện đề tài này.
Triệu Sơn, ngày 28 tháng 5 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Nhất

20




×