1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em khẳng định: “Vì chưa đạt đến
mặt trưởng thành về mặt thể chất và trí tuệ, trẻ em cần phải được bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt, trước cũng như sau chào đời. Các bậc cha mẹ là người phải
chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi nấng giáo dục con cái của chính mình”.
“Không ai được phép làm tổn hại đến trẻ em. Nghĩa vụ của chúng ta là phải tôn
trọng và bảo vệ trẻ em. Không ai được ngược đãi trẻ em trai và trẻ em gái về
mặt thể chất, bằng ngôn ngữ hoặc tình cảm, kể cả cha mẹ, thầy cô giáo hay
những người chăm sóc trẻ”.
Với những vấn đề then chốt ấy thì nền giáo dục hiện nay cũng đã đặt ra là ta
cần giáo dục và trang bị cho thế hệ trẻ các kỹ năng sống, các kỹ năng giao tiếp,
ứng xử như thế nào để giải quyết các vấn đề xã hội, để tự bảo vệ mình, đồng thời
hướng đến môi trường giáo dục sự hòa hợp, hợp tác thân thiện cho trẻ trên cơ sở
các giá trị sống.
Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kỹ
năng sống và trong các công trình nghiên cứu thì kỹ năng tự bảo vệ là một trong
những kỹ năng thuộc nhóm quan trọng nhất gồm các kỹ năng tự nhận thức và
sống với chính mình. Vì vậy kỹ năng tự bảo vệ là kỹ năng rất cần thiết.
Trong quá trình phát triển nhân cách, nếu trẻ sớm hình thành và tôn vinh
các giá trị đích thực của mình, các em sẽ có nhân cách phát triển toàn diện, bền
vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động của xã hội, biết tự
khẳng định mình trong cuộc sống. Mục đích của Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT
ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo và Thông tư
28/2016/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng bộ giáo dục và
Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số nội dung của chương trình GDMN có mục tiêu
đề ra là:“ Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình
thành và phát triển ở trẻ những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một: hình thành ở trẻ những chức năng tâm lí, năng lực và phẩm chất
mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy
và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp
học tiếp theo và cho việc học suốt đời.”“ Trẻ hiểu biết và thực hành an toàn cá
nhân.”. “ Biết một số nguy cơ không an toàn và phòng tránh”. Việc giáo dục kỹ
năng sống nói chung và kỹ năng tự bảo vệ nói riêng đòi hỏi một quá trình rèn
luyện, giáo dục lâu dài. Hơn nữa tuổi mầm non đặc biệt là trẻ trong độ tuổi 5- 6
tuổi là giai đoạn học hỏi, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân
cách, do đó cần có giải pháp giáo dục thật hữu ích giúp trẻ tự chăm sóc và bảo
vệ bản thân tránh khỏi nguy hiểm. Trẻ cần được trang bị kỹ năng tự bảo vệ phù
hợp đứa trẻ cần được đảm bảo về nhu cầu an toàn, ổn định về mặt tâm lý có cơ
hội để phát triển nhân cách đầy đủ và đúng hướng. Trong thực tế của xã hội
ngày nay tình trạng trẻ em bị thụ động không biết cách tự bảo vệ bản thân, gặp
những tình huống nguy cấp không biết tìm kiếm sự giúp đỡ, nạn bạo hành trẻ
em đang ngày càng nhức nhối, để lại những hậu quả thật thương tâm và đáng
tiếc ngày càng nhiều trong xã hội. Thực tế này khiến cho tất cả chúng ta cần
1
phải suy nghĩ. Từ những trăn trở về những hậu quả đáng tiếc đối với trẻ thì việc
giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và
cần thiết nhất là trẻ 5-6 tuổi các con còn rất bé, mọi kỹ năng tự bảo vệ
bản thân đều không có, thể lực cũng chưa đủ để chống lại những xâm hại cơ thể
về mọi mặt. Nhưng ở lứa tuổi này, nếu các con được rèn luyện thường xuyên để
tự đối phó với các tình huống có thể xảy ra thì các con hoàn toàn có thể tiếp thu
được. Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ là cung cấp cho các con những kiến thức cơ
bản nhất với những hình thức phù hợp nhất cho các con, giúp các con dễ nhớ,
ấn tượng sâu sắc với các tình huống có thể xảy ra, vận dụng những kiến thức
được học để tự bảo vệ bản thân. Đây cũng là phương pháp mà người lớn có thể
bảo vệ cho trẻ một cách tốt nhất khi các con gặp phải nguy hiểm mà không có
cha, mẹ, anh, chị hoặc cô giáo bên cạnh. Các con cần được dạy và rèn luyện kỹ
năng tự bảo vệ trong nhiều tình huống khác nhau, trong nhiều hoàn cảnh và
không gian khác nhau, đồng thời có kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợp….Để
nâng cao những hiểu biết nhất định của các con về các sự việc, hiện tượng xung
quanh…
Đây cũng là lý do để tôi mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non Đông Hải biết tự bảo vệ mình
trước những tình huống nguy hiểm.
- Giáo dục cho trẻ 5-6 tuổi một số kỹ năng tự ứng phó, kỹ năng nhận thức,
kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ
- Giúp cho tất cả các giáo viên trong trường mầm non Đông Hải xác định
được mục đích của việc giáo dục trẻ kỹ năng tự báo vệ
- Giúp ban giám hiệu nhà trường có hướng quản lí, chỉ đạo sát sao trong
việc giáo viên tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ 5-6 tuổi biết tự bảo vệ mình
Mục đích chính của đề tài này đó là làm thế nào để đưa ra những “Giải
pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”
1.3. Đối tượng nghiên cứu
+ Giải pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
+ Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
Xuất phát từ mục tiêu năm học 2017-2018 của trường mầm non Đông Hải
đó là đưa ra nhiệm vụ trọng tâm trong giáo dục phải dạy trẻ theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm và ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực để thúc đẩy sự
phát triển tính chủ động, sáng tạo và khả năng tư duy phản biện của trẻ.
Xuất phát từ việc cần thiết phải giáo dục kỹ năng cho trẻ 5-6 tuổi biết cách
tự bảo vệ.
2
Xuất phát từ việc nhà trường, gia đình và xã hội có thể giúp trẻ 5-6 tuổi
phát triển tốt các kỹ năng cần thiết để tự bảo vệ và giúp trẻ tự điều chỉnh bản
thân.
Xuất phát từ chương trình giáo dục mầm non và sự thay đổi phát triển với
tốc độ nhanh của xã hội đòi hỏi cần trang bị những kỹ năng sống cần thiết cho
trẻ 5-6 tuổi đặc biệt là kỹ năng tự bảo vệ mình
2.2. Thực trạng của vấn đề
* Đặc điểm tình hình của nhà trường
Trường Mầm non Đông Hải được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 10
năm 1993. Nằm rải rác 6 thôn trong toàn xã, lớp học chủ yếu mượn tạm nhà văn
hóa thôn. Năm 2009 trường được sự hỗ trợ từ trái phiếu chính phủ và một số
nguồn khác, tập trung xây dựng thành khu trung tâm tại thôn Đồng Lễ - Xã
Đông Hải, với diện tích là 4.500m2.
Trong đó diện tích phòng học là 728m2 diện tích sân chơi là 2.000m2.
Trường nằm tại điểm trung tâm thuận lợi về giao thông, có khuôn viên thoáng
mát.
Quá trình xây dựng và phát triển, nhà trường đó có nhiều đóng góp tích
cực, hiệu quả vào sự nghiệp giáo dục của địa phương. Nhiều năm liên tục đạt
trường tiên tiến. Từ năm 2008 đến nay trường được công nhận danh hiệu “Tập
thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Được nhận: “ Bằng khen của UBND Tỉnh
Thanh Hoá” “Giấy khen của SGD & ĐT Tỉnh Thanh Hóa”. Tổ chức Công đoàn,
Đoàn thanh niên đạt vững mạnh, Chi bộ liên tục đạt “Trong sạch vững mạnh”.
Trường được công nhận chuẩn Quốc gia mức độ 1.
Tæng sè c¸n bé gi¸o viªn, nh©n viªn: 31 ngêi, 100% ®¹t
tr×nh ®é chuÈn, trong ®ã trªn chuÈn lµ 23/31 ®¹t 74%
* Thuận lợi:
- Nhà trường có cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu chăm sóc và giáo dục trẻ
- Tập thể CBGVNV 100% ®¹t tr×nh ®é chuÈn, trong ®ã trªn
chuÈn lµ 23/31 ®¹t 74%
- Đa số giáo viên tuổi đời còn trẻ được tiếp cận nguồn tri thức mới, phương
pháp mới, đáp ứng được yêu cầu. Nhiệt tình trong công tác rất tâm huyết với nghề,
chịu khó tìm tòi, học hỏi trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
* Khó khăn:
- Giáo viên chưa được tập huấn về nội dung, phương pháp giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ.
- Thời gian dành cho việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi còn ít
- Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên hạn chế về nhận định tầm quan trọng
và sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong nhà
trường.
- Giáo viên chưa nghiên cứu và tự bồi dưỡng cho mình kiến thức để xây
dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng tự bảo vệ chưa bài bản và có hệ thống đang còn
mang tính chất “ Giáo dục tự do”
- Giữa nhà trường và gia đình chưa có sự kết hợp, nhận thức của phụ huynh
về vai trò của kỹ năng tự bảo vệ của trẻ chưa tốt chưa chú tâm phối hợp cùng
nhà trường và giáo viên.
3
- Do cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu thực hành
kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
* Thực trạng của việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
của trường mầm non Đông Hải:
Năm học 2017-2018 trường mầm non Đông Hải đã xây dựng kế hoạch chăm sóc
và giáo dục trẻ dựa vào Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009
của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo và Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng bộ giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung
một số nội dung của chương trình GDMN. Từ đó BGH và GV xây dựng và áp
dụng phương pháp giáo dục trẻ đó là “ Lấy trẻ làm trung tâm ” với mục tiêu đó
nhà trường đã xây dựng môi trường giáo dục phù hợp và trong hội thi “ Xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” cấp thành phố thì trường mầm non
Đông Hải đã được giải nhất trong hội thi.
Đê làm tốt hơn nữa về công tác chăm sóc giáo dục trẻ và tránh cho trẻ bị
xâm hại, tổn thương về mọi mặt BGH nhà trường cùng giáo viên cũng nâng cao
nhận thức làm thế nào để trẻ biết cách tự bảo vệ trong độ tuổi 5-6 chính vì vậy đã
xây dựng các hoạt động nhằm giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ dưới dạng lồng
ghép vào các chủ đề , với chủ đề nào thì nhà trường và giáo viên cũng đưa những
bài dạy để giáo dục cho trẻ biết những việc trẻ nên làm hay không nên làm.
Tuy nhiên nhiều giáo viên và phụ huynh chưa nhận thức rõ tầm quan trọng
của việc giáo dục kỹ năng bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi.
Một số giáo viên còn hạn chế trong việc đưa ra những tình huống thực sự có
vấn đề, có ý nghĩa với cuộc sống trẻ, cũng như hệ thống câu hỏi hướng dẫn nhằm
khơi gợi trẻ giải quyết vấn đề.
BGH và GV chưa tăng cường sử dụng nhiều biện pháp nhằm khích lệ trẻ
nhận xét, đánh giá và tự đánh giá bản thân để trẻ có thể noi gương và nên cho trẻ
được trải nghiệm bằng những hình ảnh người thật việc thật thông qua các bài dạy
các chuyến tham qua dã ngoại để trẻ học được từ những tình huống thực tế.
Nội dung giáo dục an toàn, tự bảo vệ cho trẻ trong nhà trường có thực hiện
trong kế hoạch nhưng chưa thực sự được quan tâm đúng nghĩa. Giáo dục kỹ năng
được tiến hành chủ yếu dưới hình thức lồng ghép vào các chủ đề khác vì vậy nội
dung giáo dục chưa sâu và chưa đầy đủ: Thời gian dành cho giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi còn hạn chế. Các hoạt động giáo dục thiên về cung cấp
kiến thức cho trẻ hơn là tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, thực hành và biện pháp
giáo dục giáo viên sử dụng chủ yếu là trò chuyện và dùng lời.
Kết quả, khảo sát thực trạng .
Kết quả số liệu năm học 2017-2018 của học sinh và giáo viên:
Kết quả như sau:
Khảo sát trẻ trong tháng 9/2017:
Tổng Số trẻ 5-6 được
Trẻ biết
Trẻ Phân vân
Trẻ Chưa biết
khảo sát về kỹ năng
bảo vệ
100 trẻ
30/100 = 30% 30/100 = 30% 40/100 = 40%
4
Khảo sát trên cô về mức độ cần thiết vê giải pháp rèn kỹ năng tự bảo
vệ cho trẻ 5-6 tuổi tháng 9/2017:
Số GV
được
KS
8 GV
Giải pháp để giáo viên
thực hiện
Xử lý tình huống
Sử dụng các trò chơi
Tạo môi trường hoạt
động tích cực
Tạo cơ hội để trẻ được
tương tác được trải
nghiệm
Khuyến khích trẻ nhận
xét, đánh giá bạn và tự
đánh giá bản thân
Bồi dưỡng lý luận và
phương pháp dạy kỹ
năng tự bảo vệ cho
GVMN
Xây dựng và đưa nội
dung giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ cho trẻ 5-6
tuổi một cách toàn diện
hơn theo hướng tích
hợp vào các thời điểm
trong ngày
Nâng cao ý thức của
GVMN phụ huynh về
sự cần thiết của kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ
Phối hợp nhà trường và
gia đình trong việc giáo
dục kỹ năng tự bảo vệ
cho trẻ.
Mức độ cần thiết
Rất cần thiết
Cần thiết
3/8 = 37,5%
3/8 = 37,5%
4/8 = 50%
3/8= 37,5%
4/8 = 50%
3/8 = 37,5%
Không cần
thiết
2/8= 25%
1/8 = 12.5%
1/8 = 12.5%
4/8 = 50%
3/8= 37,5%
1/8 = 12.5%
3/8 = 37,5%
3/8 = 37,5%
2/8 = 25%
4/8 = 50%
3/8 = 37,5%
1/8 = 12.5%
4/8 = 50%
3/8 = 37,5%
1/8 = 12.5%
4/8 = 50%
3/8 = 37,5%
1/8 = 12.5%
3/8 = 37,5%
3/8 = 37,5%
2/8 = 25%
Trước thực trạng trên là người quản lý tôi nhận thấy cần phải có những giải
pháp để giúp trẻ biết cách tự bảo vệ trẻ trong độ tuôi 5-6 tuổi nhằm nâng cao
hơn nữa nhận thức của CBGVNV trong nhà trường, của phụ huynh học sinh và
toàn xã hội về “ Giải pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi” là rất cần thiết.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã xử dụng để giải
quyết vấn đề
5
2.3.1. Biện pháp xử lý tình huống và bài tập nhằm tạo cơ hội để trẻ
được tương tác được trải nghiệm
Trong trường mầm non đặc biệt là với trẻ trong độ tuổi 5-6 tuổi thì việc tận
dụng những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, hoặc tạo tình huống
hấp dẫn mang tính có vấn đề để tổ chức giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ. tạo
cho trẻ có cơ hội được trải nghiệm bằng thực tế sinh động đó là thông qua các
tình huống giả định. Và với việc giải quyết một cách thuần thục những tình
huống giả định đưa ra giúp trẻ sẽ không bị lúng túng khi giải quyết những tình
huống mà trong thực tế trẻ sẽ gặp phải.
Thông qua việc trẻ được trải nghiệm xử lý các tình huống từ đó sẽ có biểu
tượng về các hành vi và chuẩn mực, làm giàu vốn sống, vốn kinh nghiệm của trẻ
giúp trẻ lựa chọn những hành vi tích cực để vận dụng vào trong cuộc sống của
mình.
Khi xây dựng các tình huống BGH và GV phụ trách độ tuổi cung cấp
những tình huống có vấn đề mang tính gần gũi, thực tế, dễ hiểu phù hợp với
nhận thức của trẻ.
Khi triển khai áp dụng các tình huống tôi chỉ đạo GV đưa ra những tình
huống mà trẻ thường gặp phải trong cuộc sống liên quan đến kỹ năng tự bảo vệ
như tình huống: Trẻ bị lạc mẹ trong siêu thị, trẻ bị người lạ dụ dỗ, bị người khác
tấn công, trẻ bị lạm dụng...
Khi đã đưa ra các tình huống giáo viên không nên đưa ra cách giải quyết cụ
thể mà nên tạo điều kiện để cho trẻ tự tìm cách giải quyết theo khả năng của
mình. Trong quá trình trẻ giải quyết một tình huống nào đó, tùy từng nhóm trẻ
mà GV có thể nâng cao yêu cầu với trẻ cho phù hợp.
Khi trẻ giải quyết các tình huống giáo viên cần theo dõi cách giải quyết của
trẻ để trẻ kịp thời đưa ra những gợi ý cần thiết nhằm hướng dẫn trẻ. GV phải
luôn quan sát và khích lệ cũng như tuyên dương những biểu hiện kỹ năng tốt của
trẻ.
GV cần đưa ra các tình huống không gò bó áp đặt trẻ. Tình huống phải đảm
bảo tính tự nhiên, gắn liền với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ, phản ánh mối
quan hệ đa dạng, phong phú trong xã hội. GV cần sự giao tiếp gần gũi, thân
thiện, bình đẳng giữa cô và trẻ, giữa trẻ và trẻ với nhau.
Ví dụ: BGH tổ chức cho trẻ đi tham quan doanh trại quân đội và siêu thị
BiC, GV đưa ra một số tình huống để học sinh lớp minh tự giả quyết và bên
cạnh đó có sự giám sát của GV khi trẻ giải quyết tình huống.
Tình huống 1: Khi cô tổ chức cho trẻ trong lớp đi tham quan siêu thị cô để
2 trẻ đứng chờ ngoài cổng để cô dẫn các bạn trong lớp vào siêu thị trước để
tham quan siêu thị và để trẻ bị lạc cô và các bạn.
Tình huống 2: Đến thăm quan doanh trai quân đội cô nhờ người lạ đóng giả
là người quen của trẻ cho kẹo và nói họ là bạn của bố mẹ và rủ trẻ đi cùng họ.
- GV cũng có thể tổ chức bằng cách cho trẻ xem trình chiếu bằng
powerpoint hình hoặc chuẩn bị những bức ảnh tập thể hoặc hình rời gia đình,
nhóm bạn của bố mẹ, cô giáo ...Các bức ảnh về người lạ dẫn dụ các bé... Cô sẽ
6
hỏi từng trẻ ai là người quen của trẻ, ai là người lạ trong hình; Các con có đi
theo người lạ không... và yêu cầu từng trẻ trả lời...
Tình huống 3: Người lạ vào lớp ôm hôn, bế, và có những hành động sàm
sỡ để con giải quyết.
Tình huống 4: Cô đưa ra tình huống khẩn cấp như: Cháy, có bạn hoặc
người rơi xuống nước, ngã chảy máu...
Tình huống 5: Cô cho trẻ xem một đoạn clip hoặc một bức tranh thể hiện
sự nguy hiểm trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần, sấm sét. Câu
hỏi tình huống tương ứng với đoạn clip hoặc bức tranh. Từ ba đến bốn đáp án
trắc nghiệm có hình ảnh minh họa – Cô hỏi trẻ nếu con rơi vào tình huống đó
con sẽ xử lý thế nào? GV nên để đáp án dưới dạng trắc nghiệm, mỗi đáp án đều
có hình ảnh minh sinh động rõ ràng để trẻ tự chọn lựa ( - Nếu con biết động đất
sắp xảy ra con sẽ làm gì? => đưa hình ảnh 1: Trẻ chạy ra khỏi nhà thật nhanh =>
Con cầu cứu người lớn => Con chui vào gầm bàn và ôm đầu lại thật chặt).
Tình huống 6: GV cho trẻ quan sát vật thật hoặc tranh ảnh các loại thức ăn,
nước uống sạch, an toàn ( bánh mì, quả chín) có màu sắc, mùi vị đi kèm như:
màu vàng đẹp,... các loại thức ăn, các loại quả có dấu hiệu ôi thiu, có nấm mốc,
mùi vị hôi, thối, tanh, chua.... yêu cầu trẻ:
- Nhận dạng và phân loại được các thức ăn, quả có dấu hiệu ôi thiu, mốc,
bầm dập, thối...
- Hãy kể các biểu hiện của thức ăn, nước uống có hại cho sức khỏe: Có mùi
hôi, chua, màu lạ, lẫn tạp chất, phân chuột,gián, ruồi.
GV đưa ra các câu hỏi: Các thức ăn ôi thiu có nên ăn không? Tại sao?
( Không nên ăn vì dễ bị đau bụng, tiêu chảy...). Thức ăn hôi thiu khác với thức
ăn không bị ôi thiu như thế nào?( Có mùi hôi, thối, khó chịu, có màu lạ). Con có
biết tại sao thức ăn hôi thiu? ( Do để lâu, không che đậy, để ruồi bâu, không cất
tủ lạnh...). Nước ở ao hồ sông suối, lu nước tắm rửa có thể dùng để uống được
không?( Không vì có vi trùng, viruts gây bệnh đau bụng, tiêu chảy, giun sán...).
Tay bẩn( do dính đất, vật bẩn...) có cầm bánh ăn được không? ( không vì bị
nhiễm giun gây bệnh).
Tình huống 7: Cô đưa ra một số đồ vật qua powerpoint hoặc tranh ảnh các
đồ vật có thể gây nguy hiểm cho trẻ như: búa, đinh vít, kéo bấm khuy, dao, đinh,
kim tây, kim khâu, gim giấy(đầu nhọn), nắp chai, các loại hột, hạt nhỏ( Có thể
lọt vào lỗ tai, lỗ mũi...) như hạt thóc, hạt đậu... và một số đồ vật đồ chơi không
gây nguy hiểm. => Cô cho trẻ quan sát vật thật hoặc hình ảnh đồ vật có thể gây
nguy hiểm; yêu cầu trẻ gọi tên đúng từng đồ vật có thể gây nguy hiểm; giải thích
nguyên nhân tại sao các đồ vật có thể gây nguy hiểm, cách phòng tránh
Tình huống 8: Cho trẻ xem video hoặc tranh ảnh các sự việc có thể gây
nguy hiểm. GV chỉ từng bức tranh cho trẻ nhìn trong giây lát và hỏi:
- Con hãy nhìn kĩ cho cô biết đây là sự việc gì?
- Sự việc nào trong những sự việc này là nguy hiểm?
- Con hãy giải thích sự việc có thể gây nguy hiểm như thế nào?
- Con có thể làm gì để tránh sự nguy hiểm?
7
Rất nhiều những tình huống và bài tập mà BGH và GV đưa ra nhằm giúp
trẻ được trải nghiệm và giáo viên sẽ là người quan sát sau đó tổng hợp lại và
hướng cho trẻ những kỹ năng tốt nhất để bảo vệ khi trẻ gặp các tình huống.
2.3.2: Biện pháp sử dụng các trò chơi
Sử dụng trò chơi nhằm giúp trẻ thực hành kỹ năng tự bảo vệ là giải pháp rất
hiệu quả đối với trẻ 5-6 tuổi thông qua trò chơi giúp trẻ tìm hiểu vấn đề, biểu
hiện thái độ hay thực hiện hành động, việc làm. Khi chơi giúp trẻ rèn luyện nhận
thức và thực hành kỹ năng.
Khi GV tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi học tập trẻ sẽ nhận biết kỹ năng
tự bảo vệ qua việc tiến hành các hành động nhận thức để phân loại các hành vi
đúng sai, nên và không nên.
Ví dụ: Giáo viên có thể tổ chức các trò chơi phù hợp với trẻ 5-6 tuổi như
trò chơi về đúng nhà, Ai đúng ai sai, phân loại các đồ chơi an toàn và loại bỏ các
đồ chơi không an toàn, kể theo yêu cầu của cô, bù chỗ khuyết, hãy xếp theo thứ
tự....
Khi xây dựng GV phải dựa vào nội dung học, điều kiện và thời gian mỗi
giờ học. Trò chơi phải mang ý nghĩa giáo dục, phải phù hợp với tâm lý trẻ, phù
hợp vào khả năng hướng dẫn của GV và cơ sở vật chất của nhà trường. Trò chơi
đưa ra phải tạo được hứng thú cho trẻ, có mục đích và có luật chơi rõ ràng. Khi
tổ chức chơi GV phải chuẩn bị phần thưởng cho người thắng cuộc và phải lường
trước những tình huống có thể xảy ra trong khi trẻ chơi.
Bên cạnh trò chơi học tập thì trò chơi đóng vai cùng rất hiệu quả để giúp
trẻ có những kỹ năng tự bảo vệ. Vì ở trò chơi này trẻ có thể thực hành và làm
thử một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Khi trẻ chơi đóng
vai trẻ có thể tái hiện lại những điều trẻ đã quan sát được hòa mình vào nhân vật,
từ đó thay đổi thái độ hành vi của mình trước những tình huống bất kỳ.
Ví dụ: GV cho trẻ chơi đóng vai gia đình đi siêu thị mà bố mẹ để con bị
lạc? Hoặc nhóm bạn đang chơi thì có người lạ lại cho kẹo bản thân bạn ấy cùng
các bạn trong nhóm sẽ giải quyết thế nào?
Muốn trẻ chơi đóng vai tốt thì GV cần nêu ra chủ đề chơi, chia nhỏ các
nhóm chơi, giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Quy định thời
gian chuẩn bị, thời gian diễn của nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, luyện tập
để chơi tốt và hiểu cách chơi và luật chơi.
Trước khi tổ chức thực hiện trò chơi, GV cần chuẩn bị đầy đủ các phương
tiện cần thiết cho trò chơi học tập và đóng vai: Các bài tập chơi, đồ dùng số
lượng đầy đủ cho các trẻ hoặc các tình huống đóng vai phù hợp với chủ đề, nội
dung, mục tiêu mong muốn.
Giáo viên khích lệ trẻ để cả lớp cùng tham gia. Nên có hóa trang và đạo cụ
đơn giản cho trò chơi đóng vai để tăng tính hấp dẫn cho vai diễn.
2.3.3: Biện pháp tạo môi trường hoạt động tích cực. Tạo cơ hội để trẻ
được tương tác, được trải nghiệm
Để trẻ có kỹ năng tự bảo vệ thì việc tạo cho trẻ môi trường hoạt động tích
cực là rất quan trọng. Muốn tạo được môi trường hoạt động tích cực đòi hỏi phải
có không gian đa dạng, mới lạ và bầu không khí thân thiện cởi mở... Có như vậy
8
mới kích thích hứng thú chơi của trẻ và thúc đẩy trẻ rèn luyện kỹ năng theo khả
năng của mình.
Tạo môi trường hoạt động cho trẻ nên tạo không gian chơi rộng rãi, thoáng
mát,với các đồ chơi đa dạng, phong phú, mới lạ, hấp dẫn cũng như tạo bầu
không khí thân thiện, bình đẳng là một việc quan trọng trong việc tổ chức các
hoạt động giáo dục kỹ năng. Đặc biệt là trong hoạt động chơi đóng vai, mô
phỏng lại các tình huống trong cuộc sống thì việc có các đồ dùng phù hợp để trẻ
có thể thao tác sẽ hỗ trợ việc giáo dục kỹ năng phù hợp.
Xây dựng môi trường mở hấp dẫn phù hợp với sự phát triển của trẻ. Những
góc chơi được sắp xếp hợp lý, thuận tiện sẽ kích thích trẻ tích cực thể hiện, tích
cực trải nghiệm các kỹ năng. Việc tạo môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động có
tác dụng hỗ trợ sự lựa chọn các hoạt động của trẻ, tạo điều kiện cho hoạt động
của cô và trẻ đa dạng, hấp dẫn.
Bên cạnh môi trường vật chất, môi trường tâm lý cởi mở, quan hệ giữa cô
và trẻ thân thiện, sự khuyến khích có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo hứng
thú và tính tích cực của trẻ trong việc tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng
nó sẽ tạo cho trẻ cơ hội nảy sinh ý tưởng chơi, dự định chơi.
Để có môi trường vật chất thuận lợi cho hoạt động của trẻ, trước hết giáo
viên cần chuẩn bị không gian chơi cho trẻ bằng cách tạo ra các góc chơi, khu
vực chơi, để trẻ tham gia vào hoạt động chơi. GV cần lựa chọn vị trí để tổ chức
hoạt động đảm bảo rộng rãi, thoáng mát, thuận tiện an toàn, vệ sinh phù hợp với
các hoạt động. Đặc biệt trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ, chúng ta có thể
tận dụng các góc chơi để mô phỏng các tình huống để trẻ dễ dàng tham gia.
Giáo viên cần sắp xếp đồ dùng, đồ chơi và không gian hoạt động cho trẻ
phải làm sao để trẻ dễ quan sát, di chuyển khuyến khích trẻ cùng hoạt động, giao
tiếp, liên kết các nhóm chơi. Việc sắp xếp phải bố trí các nhóm hoạt động tĩnh,
động và đủ khoảng cách giữa các nhóm chơi. Đồ chơi đa dạng mang tính mở
mới lạ hấp dẫn nhằm kích thích trẻ để trẻ hoạt động tích cực.
BGH nhà trường luôn chỉ đạo GV tạo môi trường tâm lý thật thân thiện,
hợp tác, chia sẻ và gợi mở. Bởi việc tạo môi trường như vậy sẽ tạo cho trẻ gần
gũi với trẻ, trẻ gần gũi với giáo viên. Sự chân tình, cởi mở gần gũi của cô sẽ tạo
cho trẻ cảm giác thoải mái, an toàn, dễ chịu nơi lớp học và tạo điều kiện để trẻ là
chính mình. Đây cũng chính là cơ sở để cho mọi hoạt động giáo dục trở nên nhẹ
nhành, hấp dẫn giúp trẻ luôn tự tin mạnh dạn, chủ động và tích cực khi tham gia
các hoạt động. Đây cũng là chất xúc tác quan trọng để nuôi dưỡng và phát triển
kỹ nâng trẻ.
Khi trẻ duy trì được mối quan hệ tốt với các bạn cùng lớp, với GV thì đó sẽ
là điều kiện thuận lợi để trẻ có thể chơi cùng nhau, hợp tác gắn bó cùng nhau.
Để làm được điều này, cô giáo cần có những cử chỉ nhẹ nhàng, gần gũi, ánh mắt
dụi hiền, âu yếm, lời nói tình cảm... để tạo cho trẻ một cảm giác cô chính là bạn
của trẻ. Từ đó trẻ sẽ tự tin bộc lộ bản thân, mạnh dạn hợp tác với cô và bạn,
mạnh dạn hỏi những điều trẻ chưa biết. Bên cạnh đó cô giáo cần khuyến khích,
động viên những nỗ lực và thành quả của trẻ trong khi trẻ chơi. Cô giáo chỉ đóng
vai trò là người tổ chức, hướng dẫn giúp đỡ trẻ khi cần thiết. GV cần có biện
pháp hướng các trẻ trong nhóm chơi cùng lắng nghe bạn nói, ủng hộ ý tưởng và
9
dự định của bạn nếu hợp lý. GV cần tạo cơ hội để trẻ khẳng định mình, được
trao đổi, được bàn bạc nhau. Điều này sẽ giúp trẻ tích cực thể hiện mình với GV
và các bạn và kỹ năng tự bảo vệ của trẻ 5-6 tuổi sẽ ngày càng tốt.
Bên cạnh việc tạo môi trường hoạt động tích cực BGH cùng GV cần tạo cơ
hội cho trẻ tương tác, được trải nghiệm: Tạo cơ hội để trẻ thực hành, luyện tập,
tương tác với người lớn, với bạn và mọi lúc mọi nơi.
Để giáo dục và phát triển kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ thì điều quan trọng nhất
là phải luôn tạo cơ hội để trẻ được thực hành, luyện tập các hành vi thường
xuyên, mọi lúc mọi nơi, có như vậy trẻ mới hình thành nên các kỹ năng một
cách bền vững.
Kỹ năng của trẻ không thể hình thành qua việc nghe giảng, việc nghe giảng
chỉ mới giúp trẻ nhận thức về một vấn đề nào đó. Trẻ chỉ hình thành kỹ năng khi
trẻ được cùng tham gia làm chứ không chỉ nói về một kỹ năng nào đó. Việc hình
thành kỹ năng được hình thành thông qua tương tác với người lớn, với bạn cùng
học. Trong khi tương tác trẻ được thể hiện ý tưởng của mình, được trải nghiệm,
được đánh giá, xem xét về những kinh nghiệm mà mình đã có trước đây. Hơn
nữa, việc tổ chức cho trẻ trải nghiệm những tình huống thực tế sẽ vừa tạo hứng
thú cho trẻ đồng thời nhiều kinh nghiệm quý báu được hình thành, kể cả khi trẻ
chưa thực hiện đúng trong quá trình thao tác. Việc tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm
có thể được tiến hành thông qua việc xây dựng các tình huống và tổ chức các
hoạt động phù hợp, cũng có thể được thực hành bằng cách cho trẻ trực tiếp quan
sát trong thực tế.
Giáo viên cần tạo các hoạt động, cơ hội để trẻ được trải nghiệm, thực hành
mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động trong trường mầm non: giờ học, hoạt động
vui chơi, tham quan, dã ngoại ngoài trời...
2.3.4:Biện pháp khuyến khích trẻ nhận xét, đánh giá bạn và tự đánh
giá bản thân
Khi GV muốn trẻ có kỹ năng tự bảo vệ mình thì việc tiến hành đánh giá kết
quả hoạt động của trẻ có vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục tiếp theo.
Dựa vào kết quả đánh giá, GV có thể xác định chất lượng và hiệu quả của những
tác động giáo dục của mình. Những ưu điểm và hạn chế của từng hoạt động
cũng được bộc lộ, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp để cho quá trình tổ chức sau
được hoàn thiện.
Đánh giá trẻ có ý nghĩa thiết thực trong việc điều chỉnh nhận thức, thái độ
và các hành vi biểu hiện của trẻ. Tự đánh giá là yếu tố bên trong của sự điều
chỉnh - điều chỉnh hành vi và đó cũng là yếu tố của tự giáo dục.
Thông qua việc nhận xét sẽ giúp trẻ củng cố thêm kinh nghiệm sống của
mình và biết điều chỉnh hành vi theo chuẩn mực yêu cầu chung. Từ đó hình
thành và phát triển các kỹ năng cho trẻ một cách hiệu quả.
Từ việc trẻ tự nhận xét, đánh giá bạn, trẻ đối chiếu với khả năng của bản
thân, từ đó xác định được khả năng của mình, từ đó có thái độ đúng đắn để tự
điều chỉnh hành vi và cách ứng xử của mình cho phù hợp.
10
Muốn làm tốt những việc trên người GV cần quan sát phát hiện ra những
sai lệch đưa ra những gợi ý để trẻ thực hiện nhiệm vụ. GV cần đưa ra những yêu
cầu cụ thể về nhiệm vụ của trẻ và yêu cầu về kỹ năng tự bảo vệ đối với trẻ. Trên
cơ sở đó làm điểm tựa giúp trẻ dễ so sánh, đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau
trong nhóm để tự điều chỉnh hành vi phù hợp để kỹ năng tự bảo vệ ngày càng
hoàn thiện và thuần thục hơn. GV cũng cần cung cấp cho trẻ những tiêu chuẩn,
thang đánh giá. Trên cơ sở này trẻ sẽ đánh giá một cách công bằng, khách quan.
Khuyến khích trẻ tự đánh tự đánh giá bản thân bằng cách cô cho trẻ nhìn
nhận lại việc thể hiện các vai mà mình tham gia, việc tham gia các hoạt động
của trẻ đã tốt hay chưa. Việc yêu cầu trẻ tự đánh giá đòi hỏi trẻ phải so sánh kết
quả của bản thân với yêu cầu của hoạt động, so sánh hoạt động giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ hiện tại so với những buổi trước như thế nào, so sánh trẻ với các bạn
cùng lớp...
2.3.5: Biện pháp bồi dưỡng lý luận và phương pháp dạy kỹ năng tự
bảo vệ cho GVMN và thống nhất nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho
trẻ 5-6 tuổi trong nhà trường.
Hiện nay ở các trường MN đang bắt đầu quan tâm đến việc giảng dạy kỹ
năng sống cho trẻ trong trường mầm non, trong đó có kỹ năng tự bảo vệ. Tuy
nhiên trên thực tế thì đa phần GV chưa được tập huấn về phương pháp giáo dục
kỹ năng tự bảo vệ GV thực hiện còn mang nặng tính kinh nghiệm. Bên cạnh đó,
tài liệu về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ cũng chưa có nhiều. Do vậy, việc
GV cần được cung cấp các phương pháp giáo dục kỹ năng, các tài liệu hướng
dẫn là điều quan trọng. Bởi chỉ khi GV có nhận thức đúng đắn về kỹ năng, thì
mới có thể tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng này ở trẻ.
Chính vì vậy nhà trường cũng mạnh dạn đưa ra mục tiêu cho năm học 2017
-2018 cho tập thể CBGVNV trong toàn trường đó là: Tự học tự bồi dưỡng kiến
thức để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nâng cao kiến thức giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ của trẻ 5-6 tuổi trong nhà trường. Từ việc đưa ra mục tiêu ấy
CBGVNV đã phần nào chú trọng hơn về việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ
là rất cần thiết và rất quan trọng đối với trẻ mầm non trong độ tuổi 5-6 tuổi.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn GV đã mạnh dạn đưa ra những nội
dung cần thiết trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ đó là rà soát toàn bộ
chương trình giáo dục mầm non, xem xét nội dung nào có thể lồng ghép nội
dung tự bảo vệ cho trẻ. Tùy vào các chủ đề theo tuần, tháng, học kỳ mà GV lựa
chọn những kỹ năng sống phù hợp để giáo dục cho trẻ, những nội dung của kỹ
năng tự bảo vệ phải được lồng ghép một cách khéo léo, linh hoạt, mềm dẻo tùy
từng chủ đề
Ví dụ 1: Trong chủ đề bản thân giáo viên cũng mạnh dạn đưa ra những bài
học trong hoạt động vui chơi và mọi lúc mọi nơi về giáo dục giới tính và kỹ
năng tránh bị xâm hại tình dục như bị lạm dụng sàm sỡ...
Hoặc những bài dạy làm sao để trẻ bảo vệ cơ thể phân biệt được những
điều nên hay không nên ăn và cơ thể.( Thức ăn ôi thiu và thức ăn thơm ngon,
chơi đất có thể nhiễm giun và rửa tay trước khi ăn....)
Ví dụ 2: Trong chủ đề giao thông GV đưa gia những bài học giúp trẻ phân
biệt được đúng sai và cần làm gì để không nguy hiểm đến tính mạng ...
11
Ví dụ 3: Trong chủ đề hiện tượng tự nhiên lồng ghép những bài học giúp
trẻ nhận biết được những hành vi đúng hoặc sai của con người đối với môi
trường. Cô đưa ra những bức tranh có hành vi sai đối với môi trường. Sau đó hỏi
trẻ từng tranh( Nếu xả rác ra môi trường thì sẽ có những ảnh hưởng gì?...)
2.3.6: Biên pháp phối hợp nhà trường và gia đình, nâng cao ý thức của
GVMN phụ huynh về sự cần thiết của kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự bảo vệ nói riêng cho trẻ là
hết sức quan trọng đòi hỏi sự tham gia của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Bởi
như DorothyHolte đã nói. “ Cây giáo dục chỉ đơm hoa thơm và kết trái ngọt khi
có sự chăm sóc và vun xới của nhà trường, gia đình và xã hội” và ông bà, cha mẹ,
thầy cô, anh chị hãy là tấm gương sáng để các em noi theo. Hãy gần gũi, chia sẻ,
tâm sự, động viên và cùng các em tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống
và tuyệt nhiên không được so sánh hay áp đặt ý nghĩ chủ quan của mình.
Việc thực hiện kỹ năng tự bảo vệ không chỉ thực hiện tại trường mầm non,
mà việc rèn luyện kỹ năng cần thực hiện đều dặn ở nhà. Điều này chỉ có thể thực
hiện được nếu có sự hỗ trợ của phụ huynh.
Hiện nay, nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, trong đó có kỹ năng tự bảo
vệ cho trẻ mầm non rất được phụ huynh quan tâm. Dấu hiệu tích cực trong nhận
thức này của cả phụ huynh và GV là một điều kiện hết sức thuận lợi để chúng ta
có thể giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
BGH cần tuyên truyền cho phụ huynh và GV về vai trò quan trọng của kỹ
năng tự bảo vệ với trẻ mẫu giáo. Các biện pháp tuyên truyền cần gần gũi, cần tận
dụng các câu truyện có thật trong cuộc sống, các sự kiện nổi bật của xã hội để
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho GV và phụ huynh về vai trò và sự cần thiết
trang bị tri thức, kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ trong cuộc sống hiện nay.
Muốn làm tốt việc phối kết hợp thì nhà trường và gia đình cần thống nhất
nội dung giáo dục tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi. GV trao đổi phương pháp rèn kỹ
năng cụ thể cho phụ huynh để họ có thể thực hiện tại nhà. Phụ huynh theo dõi các
nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ ở trên lớp và hướng dẫn thêm cho con mình
ở nhà. Phụ huynh trao đổi với giáo viên về những biểu hiện của trẻ, những khó
khăn khi thực hiện, kết quả đạt được... Phụ huynh và giáo viên cùng tham gia
đánh giá mức độ hình thành và phát triển kỹ năng của trẻ sau khi thực hiện.
2.4. Hiệu quả cuả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
BGH và GV xây dựng được nội dung giáo dục, xây dựng được bộ công cụ
để giúp đánh giá kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong nhà trường. Xây dựng
và đưa nội dung giáo dục theo hướng tích hợp với các hoạt động dạy, hoạt động
vui chơi và các hoạt động khác; nâng cao nhận thức của GVMN, phụ huynh về sự
cần thiết của kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ; Phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong trường MN Đông
Hải.
GV trong nhà trường đã ứng dụng các giải pháp để xây dựng thành các giáo
án, tổ chức các hoạt động cho trẻ trải nghiệm và thu thập thông tin qua việc trải
nghiệm của trẻ.
12
Trẻ trong độ tuổi 5-6 tuổi trong trường MN Đông Hải đã được thực hành,
trải nghiệm qua rất nhiều hình thức tổ chức về kỹ năng tự bảo vệ và kết quả đạt
được đó là: Trẻ nhận thức được nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ, trẻ đã biết
kêu cứu giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm; Biết địa chỉ; Biết số điện thoại khẩn
cấp; Cứu hỏa, cứu thương, công an; Biết không đi theo và nhận quà của người lạ
khi chưa được người thân cho phép; biết hành vi bị xâm hại. Biết ý nghĩa và có ý
thức thực hiện theo quy định của một số biển báo giao thông; Biển báo nơi nguy
hiểm...
Nâng cao được nhận thức của GVMN, phụ huynh về sự cần thiết của kỹ
năng tự bảo vệ. Phối hợp nhà trường và gia đình trong việc giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong trường MN Đông Hải.
Khảo sát trẻ tháng 4:
Tổng Số trẻ 5-6 được khảo
sát về kỹ năng bảo vệ
100 trẻ
Trẻ biết
Trẻ Phân vân
Trẻ Chưa biết
75/100 = 75%
20/100 = 20%
5/100 = 5%
Khảo sát trên cô về mức độ cần thiết vê giải pháp rèn kỹ năng tự bảo
vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong tháng 4/2018
Số GV
Giải pháp để giáo viên
Mức độ cần thiết
được KS
thực hiện
Rất cần thiết
cần thiết
Không cần
thiết
Xử lý tình huống
6/8= 75%
2/8= 25%
0/8 = 0%
Sử dụng các trò chơi
7/8= 87,5%
1/8 = 12,5% 0/8 = 0%
Tạo môi trường hoạt
6/8= 75%
2/8= 25%
0/8 = 0%
động tích cực
8 GV Tạo cơ hội để trẻ được
7/8= 87,5%
1/8 = 12,5% 0/8 = 0%
tương tác và trải nghiệm
Khuyến khích trẻ nhận
xét, đánh giá bạn và tự 6/8= 75%
2/8= 25%
0/8 = 0%
đánh giá bản thân
Bồi dưỡng lý luận và
phương pháp dạy kỹ
7/8= 87,5%
1/8 = 12,5% 0/8 = 0%
năng tự bảo vệ cho
GVMN
Xây dựng và đưa nội 6/8= 75%
2/8= 25%
0/8 = 0%
dung giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ cho trẻ 5-6
tuổi một cách toàn diện
hơn theo hướng tích hợp
vào các thời điểm trong
ngày
13
Nâng cao ý thức của
GVMN phụ huynh về
7/8= 87,5%
1/8 = 12,5% 0/8 = 0%
sự cần thiết của kỹ năng
tự bảo vệ cho trẻ
Phối hợp nhà trường và
0/8 = 0%
gia đình trong việc giáo
3/8= 37,5%
dục kỹ năng tự bảo vệ 5/8= 62,5%
cho trẻ.
3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận
Trên đây là: “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi” trong trường mầm non Đông Hải. Với khả năng và thời gian có hạn, vấn
đề nghiên cứu lại rộng và đa dạng nên bản thân chỉ nêu một số vấn đề nổi bật đã
đúc rút được. Các giải pháp này sẽ còn nhiều vấn đề chưa thấu đáo song cơ bản
thực hiện tốt được như vậy ít nhiều chúng ta sẽ tạo được sự thay đổi cơ bản
trong quản lý và nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục ở các
trường mầm non hiện nay.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng
Đối với cán bộ quản lý:
Nhận thức được vai trò và sự cần thiết của kỹ năng tự bảo vệ trẻ em
Chủ động lên kế hoạch chỉ đạo phù hợp nhu cầu thực tế của từng chủ đề;
và chủ động tham gia sinh hoạt cùng tổ chuyên môn để nắm bắt và điều chỉnh kế
hoạch làm sao cho hiệu quả;
Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm tạo nhiều cơ hội cho trẻ được
trải nghiệm
Tạo điều kiện cho GV đi học tập kinh nghiệm trau dồi kiến thức về Kỹ
năng sống đặc biệt là kỹ năng tự bảo vệ. Bồi dưỡng lý luận và phương pháp dạy,
thống nhất nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ, xây dựng bộ công cụ đánh giá
kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong nhà trường.
Tạo nên phong trào thi đua lành mạnh, rộng khắp; nội bộ đoàn kết, biết
chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau.
Phối kết hợp với GV và phụ huynh học sinh để làm tốt mục tiêu đề ra
Đối với giáo viên: Nhận thức được vai trò và sự cần thiết của kỹ năng tự
bảo vệ trẻ em. Nắm vững mục tiêu, nội dung, chương trình một cách có hệ thống;
nắm vững phương pháp và cách thức sử dụng phương pháp để tổ chức các hoạt
động dạy kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
Chủ động xây dựng kế hoạch, biện pháp giáo dục phù hợp tình hình thực tế
của lớp, giúp nâng cao việc rèn kỹ năng tự bảo vệ của lớp mình chủ nhiệm góp
phần nâng cao chất lượng về rèn kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi trang bị cho
trẻ những kiến thức giữ an toàn và học cách nhận biết, thực hành các hành động
đúng và kịp thời để bảo vệ bản thân trước các tình huống nguy hiểm. Giáo viên
phải có hiểu biết tốt về tâm lý trẻ.
14
Phối kết hợp với phụ huynh về chương trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho
trẻ 5- 6 tuổi của lớp để phụ huynh cùng GV cùng nhau giáo dục trẻ trong kỹ năng
này.
Đối với học sinh: Được học trong môi trường học tập thân thiện, tích cực;
có điều kiện phát huy tính tích cực, khả năng tư duy sáng tạo, phát triển năng
khiếu, sở trường của mình, học sinh ham thích đến trường, thi đua học tập, nhiệt
tình tham gia các phong trào của nhà trường.
- Kiến nghị: Để thực hiện tốt việc rèn kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi, tôi
xin mạnh dạn đề xuất với hiệu trưởng nhà trường tham mưu với các cấp tăng
cường đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho việc xây dựng môi
trường lấy trẻ làm trung tâm tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, thực hành để
có những kỹ năng tốt trong việc tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi. Tham mưu với Phòng
giáo dục mở nhiều lớp tập huấn về kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi, mở nhiều
lớp chuyên đề, tạo điều kiện cho tất cả giáo viên tham gia học tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi đã đúc rút, thực hiện trong
quản lý, có thể còn mang tính chủ quan, chưa hoàn thiện, còn hạn chế về trình độ
lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Tôi rất mong được bổ sung, góp ý của hội đồng
khoa học các cấp, để bản sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Đông Hải, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT
Lê Thị Quỳnh
15
1.
2.
3.
4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương trình giáo dục mầm non năm 2009
Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo và Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng bộ giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ
sung một số nội dung của chương trình GDMN ban hành kèm theo
thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ giáo dục và Đào tạo
MN 39 trong BDTX mầm non
Bộ công cụ theo dõi, đánh giá sự phát triển của trẻ 5 tuổi.
16
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Chữ viết
Bộ giáo dục và đào tạo
Sở giáo dục và đào tạo
Phòng giáo dục và đào tạo thành phố
Giáo dục mầm non
Giáo dục phổ thông
Giáo dục thường xuyên
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục chuyên nghiệp
Chăm sóc giáo dục mầm non
Ban giám hiệu
Hiệu trưởng
Phó hiệu trưởng
Chữ viết tắt
BGD&ĐT
SGD&ĐT
PGD&ĐTTP
GDMN
GDPT
GDTX
GD&ĐT
GDCN
CSGDMN
BGH
HT
PHT
Giáo viên mầm non
GVMN
Cán bộ
Giáo dục
Mầm non
Quyết định
Công văn
Số lượng
Tỉ lệ
Giáo viên
Trung bình
Khảo sát
Bình trường
CB
GD
MN
QĐ
CV
SL
TL
GV
TB
KS
BT
17