Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

ĐÁNH GIÁ SỰ SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢY GIỐNG LÚA TRONG VỤ ĐÔNG XUÂN 2008 2009 TẠI HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ SỰ SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢY
GIỐNG LÚA TRONG VỤ ĐÔNG XUÂN 2008 - 2009 TẠI
HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

Sinh viên thực hiện: BÙI THỊ HÀ
Ngành: Nông Học
Niên khoá: 2005 - 2009

Tháng 6 / 2009

i


ĐÁNH GIÁ SỰ SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢY
GIỐNG LÚA TRONG VỤ ĐÔNG XUÂN 2008 - 2009 TẠI
HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

Tác giả

BÙI THỊ HÀ

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Kỹ sư Nông nghiệp nghành
Nông học

Giáo viên hướng dẫn


ThS. Cao Xuân Tài

Tháng 6 / 2009
i


LỜI CẢM TẠ
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài những nỗ lực phấn đấu, vươn lên
của bản thân, tôi luôn nhận được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự ủng hộ
động viên giúp đỡ của gia đình, bạn bè.
Trong trang đầu của khóa luận này, tôi xin tỏ lòng biết ơn.
Thầy giáo ThS. Cao Xuân Tài đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn cho tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp vừa qua.
Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh. Ban chủ nhiệm khoa
Nông học và Phân hiệu trường Đại học Nông Lâm Tp Hồ Chí Minh tại Gia Lai, cùng
quý thầy cô trong trường đã tận tình giảng dạy và truyền thụ kiến thức cơ bản cho tôi
suốt 4 năm học.
Ban lãnh đạo Trung tâm thực nghiệm giống cây trồng AYun Hạ - huyện Phú
Thiện - tỉnh Gia Lai đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt đề
tài.
Kĩ sư Nguyễn Văn Long - Viện nghiên cứu Nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã
giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc sự giúp đỡ quí báu trên và nguyện học tập,
làm việc thật tốt để không phụ lòng mong mỏi của gia đình, thầy cô và các bạn dành
cho tôi trong suốt thời gian qua.

Pleiku, tháng 6 năm 2009
Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Hà


ii


TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu “Đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của bảy giống lúa
trong vụ Đông xuân 2008 - 2009 tại huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai”.
Mục tiêu của đề tài là đánh giá và tuyển chọn một số giống lúa cho năng suất cao,
phẩm chất tốt và chống chịu sâu bệnh khá, thích hợp với điều kiện sinh thái huyện Phú
Thiện - tỉnh Gia Lai.
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) với
7 nghiệm thức, 3 lần lặp lại. Các nghiệm thức là 7 giống lúa bao gồm: KD18, Q5,
ĐT36, QR1, ML202, ML214, ML48 (Đ/C).
Các chỉ tiêu theo dõi gồm: đặc trưng hình thái, các chỉ tiêu sinh trưởng và phát
triển, tổng thời gian sinh trưởng, đặc tính đẻ nhánh, động thái tăng trưởng chiều cao.
tính chống chịu sâu bệnh hại, năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất.
Qua thí nghiệm thực tế trên đồng ruộng cho thấy một số kết quả như sau:
Tổng thời gian sinh trưởng của các giống từ 105 - 118 ngày, trong đó Q5 có thời
gian sinh trưởng dài nhất là 118 ngày, thấp nhất là QR1: 105 ngày và đối chứng có
tổng thời gian sinh trưởng bằng là 107 ngày.
Các giống có chiều cao cây trung bình từ 75,01 - 97,09 cm, trong đó QR1 có
chiều cao thấp nhất là 72,94 cm, cao nhất ĐT36 (97,09 cm) và đối chứng ML48 là
75,01 cm.
Động thái tăng trưởng chiều cao ở các giống đều có xu hướng tăng dần và tăng
nhanh ở giai đoạn kết thúc đẻ nhánh đến bắt đầu trổ. Và tốc độ tăng trưởng chiều cao ở
giống KD18 thấp nhất so với các giống còn lại.
Các giống có khả năng đẻ nhánh trung bình, thời gian đẻ nhánh tập trung, trong
đó giống có khả năng đẻ nhánh tập trung nhất là ML214, giống QR1 có thời gian đẻ
nhánh dài nhất.


iii


Mức độ nhiễm sâu bệnh hại của các giống ở mức độ nhẹ không gây ảnh hưởng
đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây lúa và năng suất. Nhìn chung các giống
có khả năng chống chịu sâu bệnh khá.
Năng suất thực thu dao động từ 4,67 - 7,07 tấn/ha, cao nhất là ĐT36 (7,07
tấn/ha), thấp nhất ML214 (4,67 tấn/ha) và đối chứng là 5,27 tấn/ha.
Các giống lúa trong thí nghiệm có phẩm chất gạo tương đối tốt, có độ bạc bụng
thấp từ 0 - 3 điểm và hầu hết các giống đều có dạng hạt thon, duy chỉ có Q5 có dạng
hạt bán tròn, ML202 có dạng hạt bán thon và QR1 có dạng hạt thon dài.
Như vậy qua kết quả nghiên cứu chúng ta nhận thấy 3 giống ĐT36, ML202 và
Q5 có những ưu điểm vượt trội so với giống đối chứng và các giống khác.

iv


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Trang tựa

i

Lời cảm tạ

ii


Tóm tắt

iii

Mục lục

v

Danh sách chữ viết tắt

ix

Dang sách các bảng

x

Danh sách các đồ thị và hình

xi

CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU

1

1.1 Đặt vấn đề

1

1.2 Mục tiêu và yêu cầu


2

1.2.1 Mục tiêu

2

1.2.2 Yêu cầu

2

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

2.1 Nguồn gốc và vai trò của lúa gạo

3

2.1.1 Nguồn gốc của cây lúa

3

2.1.2 Yêu cầu sinh thái của cây lúa

3

2.1.3 Vai trò của cây lúa

4


2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên Thế giới và Việt Nam

5

2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên Thế giới

5

2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong nước

7

2.3 Tình hình nghiên cứu lúa trên Thế giới và Việt Nam

10

2.3.1 Tình hình nghiên cứu lúa trên Thế giới

10

v


2.3.2 Tình hình nghiên cứu về giống trong nước

11

2.4 Tổng quan vùng nghiên cứu

12


CHƯƠNG 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

14

3.1 Nội dung nghiên cứu

14

3.1.1 Đối tượng nghiên cứu

14

3.1.2 Thời gian và địa điểm thí nghiệm

14

3.1.3 Đất đai thí nghiệm

15

3.1.4 Tình hình khí hậu tại vùng thí nghiệm

15

3.2 Phương pháp nghiên cứu

16

3.2.1 Bố trí thí nghiệm


16

3.2.2 Quy trình chăm sóc

17

3.3 Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

18

3.3.1 Phương pháp theo dõi

18

3.3.2 Các chỉ tiêu sinh trưởng và phát triển

18

3.3.3 Các chỉ tiêu về hình thái

19

3.3.4 Chỉ tiêu trọng lượng chất khô

19

3.3.5 Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

20


3.3.6 Chỉ tiêu sâu bệnh hại

20

3.3.7 Các chỉ tiêu về phẩm chất gạo

21

3.4 Xử lý số liệu

22

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

23

4.1 Đặc trưng hình thái

23

4.1.1 Thân

24

4.1.1.1 Chiều cao cây

24

vi



4.1.1.2 Tính đổ ngã

24

4.1.2 Lá đòng

24

4.1.3 Bông lúa

25

4.1.3.1 Chiều dài bông

25

4.1.3.2 Độ thoát cổ bông

25

4.2 Thời gian sinh trưởng của các giống

26

4.2.1 Thời gian bén rễ hồi xanh

26


4.2.2 Thời gian đẻ nhánh

26

4.2.3 Thời gian trổ bông

28

4.2.4 Thời gian chín hoàn toàn

28

4.2.5 Tổng thời gian sinh trưởng

28

4.3 Động thái tăng trưởng chiều cao

29

4.4 Động thái đẻ nhánh

31

4.5 Khả năng đẻ nhánh và tỷ lệ nhánh hữu hiệu

33

4.5.1 Số nhánh tối đa


34

4.5.2 Số nhánh hữu hiệu

34

4.5.4 Tỷ lệ nhánh hữu hiệu

35

4.6 Động thái tích lũy chất khô

35

4.7 Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

37

4.7.1 Số bông trên m2

38

4.7.2 Tổng số hạt trên bông

38

4.7.3 Số hạt chắc trên bông

39


4.7.4 Tỷ lệ hạt lép

39

4.7.5 Trọng lượng 1000 hạt

39

vii


4.7.6 Năng suất lý thuyết

40

4.7.7 Năng suất thực thu

40

4.8 Tính chống chịu sâu bệnh hại

41

4.9 Chỉ tiêu phẩm chất gạo

42

4.9.1 Kích thước hạt gạo

42


4.9.2 Dạng hạt

43

4.9.3 Độ bạc bụng

43

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

44

5.1 Kết luận

44

5.2 Đề nghị

45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

46

PHỤ LỤC

48

\


viii


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
NSTT: Năng suất thực thu
NSLT: Năng suất lý thuyết
P 1000 hạt: Trọng lượng một ngàn hạt
Đ/C: Đối chứng
NSC: Ngày sau cấy
TGST: Thời gian sinh trưởng
TB: Trung bình
DT lá đòng: Diện tích lá đòng
LSD: Least Significant Difference Test
CV: Coefficient of Variation
BVTV: Bảo vệ thực vật
IRRI: International Rice Research Institute
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
RCBD: Randomized Complete Block Design
WTO: Word Trade Organization
FAO: Food and Agriculture Organization

ix


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích và sản lượng lúa ở Việt Nam từ năm 1990 đến 2007

8


Bảng 3.1. Bảng mã hóa nghiệm thức

14

Bảng 3.2. Điều kiện thời tiết khí hậu từ tháng 1 - 5/2009

15

Bảng 3.3. Lượng phân bón cho 420m2 ô thí nghiệm

18

Bảng 4.1. Đặc trưng hình thái của các giống

23

Bảng 4.2. Thời gian sinh trưởng của các giống

27

Bảng 4.3. Động thái tăng trưởng chiều cao của các giống lúa

29

Bảng 4.4. Động thái đẻ nhánh của các giống lúa

31

Bảng 4.5. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa


34

Bảng 4.6. Động thái tích lũy chất khô

36

Bảng 4.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

38

Bảng 4.8. Chỉ tiêu về phẩm chất các giống lúa

42

x


DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ VÀ HÌNH
Đồ thị 4.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây các giống lúa

30

Đồ thị 4.2. Động thái để nhánh của các giống lúa

32

Đồ thị 4.3. Động thái tích lũy chất khô

37


Đồ thị 4.4. NSLT và NSTT của các giống

41

Hình 6.1. Giống lúa QR1

48

Hình 6.2. Giống lúa ML202

48

Hình 6.3. Giống lúa ĐT36

49

Hình 6.4. Giống lúa Q5

49

Hình 6.5. Giống lúa ML214

50

Hình 6.6. Giống lúa KD18

50

Hình 6.7. Giống lúa ML48 (Đ/C)


51

Hình 6.8. Quang cảnh thí nghiệm

51

xi


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Dân số hiện nay của thế giới đã hơn 6,7 tỷ người. Theo dự báo con số này sẽ
đạt tới 9,2 tỷ vào năm 2050. Trong khi dân số tăng thì diện tích đất canh tác bị thu hẹp
dần do đất được chuyển sang các mục đích sử dụng khác. Áp lực của tăng dân số
cùng với áp lực từ thu hẹp diện tích đất trồng trọt lên sản xuất lương thực của thế giới
ngày càng gia tăng. Cách duy nhất để con người giải quyết tốt vấn đề này là ứng dụng
khoa học kỹ thuật tìm cách nâng cao năng suất các loại cây trồng.
Lúa gạo là một loại lương thực chính và cung cấp lương thực cho hơn một nữa
dân số thế giới. Về mặt lý thuyết, cây lúa có khả năng cho sản lượng cao hơn nếu điều
kiện canh tác như hệ thống tưới tiêu, chất lượng đất, biện pháp thâm canh và giống
được cải thiện. Trong các yếu tố đó việc chọn tạo giống đóng vai trò rất quan trọng.
Thành công trong những nghiên cứu về giống đã mở ra một triển vọng mới giúp thế
giới có một cái nhìn lạc quan hơn về vấn đề lương thực trong tương lai.
Ở Việt Nam ngành sản xuất Nông nghiệp từ xưa tới ngày nay căn bản dựa vào
công việc sản xuất lúa gạo, do đó: Cây lúa là cây lương thực chính và đóng vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, lúa được trồng và phân bố
khắp nơi trên toàn bộ lãnh thổ của nước ta. Nền sản xuất lúa của nước ta đã và đang
phát triển vược bậc. Từ một nước thiếu lương thực trong thập niên 70 và những năm
80, phải nhập khẩu khoảng 700.000 tấn đến 1,5 triệu tấn lương thực, thì đến sau năm

1990 lượng gạo xuất khẩu đã tăng và đến năm 2000 lượng gạo xuất khẩu đạt 4,5 triệu
tấn (Cao Xuân Tài, 2002), đứng thứ hai thế giới sau Thái Lan. Do đó để đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, ngoài các biện pháp tăng cường đầu tư
thâm canh, thì phải đặc biệt chú trọng đến vấn đề giống.
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm trên cao nguyên Nam Trung Bộ, có điều kiện
khí hậu, đất đai phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Về tiềm năng
phát triển, cây lúa là một cây trồng quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực của
1


địa phương và tiến tới sản xuất lúa gạo hàng hoá ở các vùng sản xuất lúa tập trung của
các huyện trong tỉnh như: AyunPa, Phú Thiện, Đăk Đoa và một số tiểu vùng khác. Cơ
cấu giống lúa hiện nay của vùng gồm các giống: Xi23, Khang dân….các giống lúa
được trồng trong thời gian rất dài nên hiện nay đang có hiện tượng thoái hóa giống
làm cho năng suất và phẩm chất giảm và sâu bệnh tăng…Trong thời gian qua, các nhà
chọn tạo giống Việt Nam đã chọn tạo thành công nhiều bộ giống lúa mới trong đó có
bộ giống có năng suất và chất lượng khá, đã được gieo trồng trên một diện tích lớn ở
các tỉnh phía Bắc và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.
Để tìm kiếm một số giống lúa mới có năng suất và chất lượng tốt, phù hợp với
điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Gia Lai chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của bảy giống lúa trong vụ Đông Xuân
2008 - 2009 tại huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu:
1.2.1. Mục tiêu
Xác định và tuyển chọn một vài giống lúa có năng suất cao, phẩm chất tốt,
chống chịu khá với sâu bệnh, thích hợp với điều kiện sinh thái vùng Ayun Hạ huyện
Phú Thiện - tỉnh Gia Lai, từ đó làm cơ sở xác định cơ cấu giống lúa phù hợp với sinh
thái của địa phương.
1.2.2. Yêu cầu
Theo dõi và đánh giá các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển, khả năng thích

nghi, khả năng chống chịu và năng suất đúng theo qui định khảo nghiệm giống lúa
của Bộ Nông nghiệp. Rút ra được ưu, nhược điểm của các giống lúa tham gia thí
nghiệm, và đề nghị giống có triển vọng cho địa phương để đưa vào sản xuất.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nguồn gốc và vai trò của lúa gạo
2.1.1. Nguồn gốc của cây lúa
Về nguồn gốc cây lúa có nhiều tác giả trên thế giới đề cập đến nhưng cho đến
nay vẫn chưa có tài liệu thống nhất nào nhưng phần lớn các nhà khoa học đều có ý
kiến thống nhất là tổ tiên của lúa trồng Oryza sativa là loài lúa dại Oryza fatua nơi
phát sinh của Oryza fatua là vùng Đông Nam Á. Đông Nam Á chính là nơi đã thuần
hoá, chọn lọc và tạo ra được lúa gạo đầu tiên và trở thành quê hương của cây lúa và
nghề trồng lúa (Bùi Huy Đáp, 1980). Ở nước ta theo các tài liệu khỏa cổ học thì trong
thời kỳ tiền sử khoảng năm 4.000 - 3.000 trước Công nguyên cũng đã tìm thấy những
di tích chứng tỏ người ta đã biết đến cây lúa như một số đồ dùng để nghiền hạt, chày
và cối đá. Hiện nay ở Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc có nhiều giống lúa.
Về phương diện thực vật học lúa trồng hiện nay là do lúa dại qua chọn lọc tự
nhiên và chọn lọc nhân tạo lâu đời hình thành. Cây lúa gạo có tên khoa học là Oryza
sativa L. thuộc họ Hoà Thảo Graminea. Cây lúa được trồng trong những điều kiện
sinh thái rất khác nhau, trải dài từ vĩ tuyến 350 Nam đến vĩ tuyến 530 Bắc. Được trồng
từ vùng đất thấp ven biển đến các vùng có độ cao trên 3.000 m thuộc dãy Himalaya,
từ những vùng ngập nước sâu 3 - 4 m đến những vùng khô hạn chỉ mưa 9 - 13 mm
(Bùi Huy Đáp, 1980). Khả năng cho năng suất của lúa cao ở nhiều nước trên các vĩ độ
khác nhau. Năng suất giữa các châu chênh lệch nhau khá nhiều.
2.1.2. Yêu cầu sinh thái của cây lúa
Điều kiện sinh thái khí hậu của cây lúa: điều kiện sinh thái là những vấn đề

môi trường có liên quan đến quá trình sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của cây
3


lúa. Năng suất, chất lượng lúa không những được quyết định bởi đặc tính của giống
(kiểu gen) mà còn chịu tác động mạnh của yếu tố môi trường.
Ảnh hưởng của nhiệt độ tới cây lúa: ở mỗi thời kỳ sinh trưởng và phát triển
của cây lúa cần một nhiệt độ thích hợp khác nhau. Ở thời kỳ nảy mầm cây lúa cần
nhiệt độ từ 30 - 350C, ở giai đoạn sinh trưởng thân lá, giai đoạn tích luỹ chất yêu cầu
nhiệt độ từ 21 - 260C, thời kỳ trổ bông yêu cầu nhiệt độ 300C và thời kỳ hạt chắc đến
chín yêu cầu nhiệt độ từ 29 - 300C. Tổng tích ôn của cây lúa từ nảy mầm đến chín từ
3.500 - 4.5000C. Đối với các giống lúa ngắn ngày tổng tích ôn khoảng 2.500 3.0000C. Nhiệt độ cao quá hay thấp quá đều ảnh hưởng không tốt tới sinh trưởng của
cây lúa, ở điều kiện Việt Nam thì tác hại của nhiệt độ thấp đối với cây lúa nghiêm
trọng hơn, nhiệt độ dưới 130C cây lúa ngừng sinh trưởng, nếu nhiệt độ thấp kéo dài
cây lúa có thể bị chết rét.
Lúa có nguồn gốc nhiệt đới ưa sáng mạnh, ánh sáng thích hợp cho cây lúa từ
8.000 - 12.000 lux.
Nước là yếu tố sinh thái quan trọng bậc nhất đối với cây lúa, ở những vùng
không chủ động nước tưới người ta lấy lượng mưa, sự phân bố mưa theo mùa để phân
vùng trồng lúa và sắp xếp vụ mùa trồng lúa, những nơi có lượng mưa 1.000 mm/năm
có thể trồng được 1 vụ lúa nước/năm, lượng mưa trên 1.500 mm/năm có thể trồng
được hai vụ lúa .Tuy nhiên không có sự tương quan giữa lượng mưa và năng suất lúa.
Trên thế giới, các nước trồng lúa ở vĩ độ cao Bắc và Nam bán cầu (Italia, Australia,
Nhật) được tưới hoàn toàn chủ động có năng suất cao hơn nhiều so với vùng trồng lúa
nhiệt đới mưa nhiều. Để làm ra một gam chất khô cây lúa cần 710 gam nước, ngô là
360 gam, bông là 464 gam, vậy cây lúa cần nhiều nước hơn so với nhiều loại cây
trồng khác.
2.1.3. Vai trò của cây lúa
Trên thế giới có khoảng 840 triệu người đang trải qua nạn đói kinh niên, hơn
một nửa số này sống ở những vùng phụ thuộc vào trồng lúa làm lương thực và tạo thu

nhập. Nhằm gây sự tập trung, chú ý của quốc gia và toàn nhân loại vào loại lương

4


thực hàng đầu của con người. Tổ chức lương nông Liên Hiêp Quốc (FAO) đã chọn
năm 2004 là năm quốc tế lúa gạo với khẩu hiệu “Lúa gạo là sự sống”.
Rõ ràng lúa gạo là thực phẩm hàng đầu có vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn
đề an ninh lương thực, sức khoẻ con người. Trong hạt gạo chứa nhiều chất dinh
dưỡng: tinh bột 70 - 80%, protein 7,5%, chất béo 0,5%, vitamin B1, B12, PP…và các
chất khoáng cần thiết cho con người (Nguyễn Văn Luật, 2001). Ngoài việc sử dụng
làm lương thực còn dùng làm nguyên liệu cho nhà máy bánh kẹo, nhà máy giấy, thức
ăn gia súc, sản xuất nấm…và đặc biệt là mặt hàng xuất khẩu có giá trị thu ngoại tệ
làm giàu cho người nông dân và đất nước (Cao Xuân Tài, 2002).
Lúa gạo không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành nét đẹp trong đời sống
tinh thần của người dân việt Nam. Cây lúa, hạt gạo trở nên thân thuộc và gần gũi từ
bao đời nay, người dân Việt Nam coi đó là phần không thể thiếu trong cuộc sống. Bên
cạnh đó, lúa gạo còn có giá trị lịch sử bởi lịch sử phát triển của nó gắn liền với lịch sử
phát triển của dân tộc ta, in dấu trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên Thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên Thế giới
Lúa gạo là một trong ba cây lương thực quan trọng bậc nhất của loài người.
Hơn nửa dân số sống nhờ lúa gạo, đặc biệt châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Năm
2005 cả thế giới có khoảng 112 nước trồng lúa, với diện tích trên 150 triệu ha, năng
suất bình quân khoảng 4 tấn/ha (Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Lúa là cây lương thực chính của nhiều quốc gia trên thế giới, trong thực tế cây
lúa có phạm vi phân bố tương đối rộng từ 350 Nam ở châu Úc đến 530 Bắc ở Trung
Quốc, cây lúa cũng đã được trồng ở độ cao 2.000 m như ở Kasơmia Ấn Độ và Nêpan
(Bùi Huy Đáp, 1999).
Hiện nay trên thế giới có khoảng 114 nước trồng lúa và phân bố ở tất cả các

châu lục. Diện tích trồng lúa trên thế giới chiếm 1/5 diện tích trồng trọt nhưng phân
bố không đều, trên 90% diện tích lúa tập trung ở châu Á, các châu lục khác như châu
Mỹ, châu Phi, châu Âu, châu Đại Dương có trồng lúa nhưng với diện tích không
nhiều (Nguyễn Trung Văn, 2001).
5


Năng suất lúa ở các châu lục khác nhau rất xa. Châu Úc có năng suất đứng đầu
thế giới (81,70 tạ/ha) sau đó là châu Âu 55,9 tạ/ha rồi đến Bắc Mỹ. Những khu vực có
năng suất cao nhất có thể giải thích như sau: Đây là những nơi có đất đai, khí hậu
thích hợp cho việc trồng lúa nước. Hầu hết các khu vực này có nền công nghiệp phát
triển đã hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp, hơn nữa diện tích trồng lúa không lớn nên
buộc họ phải thâm canh để có đủ sản lượng lương thực đáp ứng nhu cầu trong khu
vực, mặt khác trình độ dân trí, trình độ canh tác cao, các tiến bộ kỹ thuật được đáp
ứng đầy đủ nên năng suất ở những khu vực này cao hơn. Châu Mỹ Latinh, châu Phi
có năng suất lúa thấp nhất thế giới. Năng suất lúa châu Á được xếp vào hàng thứ 4 sau
châu Úc, châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng năng suất lúa ở châu Á vẫn cao hơn năng suất
bình quân của thế giới.
Chiếm trên 90% diện tích và sản lượng lúa gạo toàn cầu, châu Á có ảnh hưởng
tới tình hình lúa gạo của cả thế giới trong quá khứ hiện tại và cả tương lai. Các dự
đoán của FAO cho rằng sản lượng lúa gạo của châu Á có thể tăng khoảng 0,9% mỗi
năm để đạt đến 720 triệu tấn vào năm 2030.
Sản xuất gạo toàn cầu đã tăng lên đều đặn từ khoảng 200 triệu tấn vào năm
1960 tới 605 triệu tấn vào năm 2004. Hiện nay có 3 quốc gia sản xuất lúa gạo hàng
đầu là Trung Quốc (31% sản lượng thế giới) Ấn Độ (20%) Indonesia (9%). Ba nước
xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới là: Thái Lan (26% sản lượng gạo xuất khẩu), Việt
Nam (15%) và Hoa Kỳ (11%) và những nước nhập khẩu gạo nhiều là: Indonesia
(14%), Bangladesh (4%), Brazil (3%)...
Mặc dù có xu hướng tăng trong nhiều năm qua, tình trạng sản xuất lúa thế giới
vẫn còn biến động theo điều kiện khí hậu hàng năm vì hơn 40% diện tích lúa trồng

hiện nay còn lệ thuộc vào nước trời (Trần Văn Đạt, 2002). Sản lượng thế giới giảm từ
611 triệu tấn năm 1999 xuống 598 triệu tấn năm 2001, 569 triệu tấn năm 2003 và tăng
trở lại 605 triệu tấn năm 2004 và 618 triệu tấn năm 2005. Châu Á chiếm ưu thế sản
lượng lúa gạo thế giới, với 90% sản lượng (559 triệu tấn) năm 2005 (Cao Xuân Tài,
2002).

6


Trong những năm gần đây, diện tích trồng lúa ở một số nước đang có xu
hướng giảm dần. Đây cũng là một xu hướng tất yếu, nhất là ở các nước phát triển. Do
việc thay đổ cơ cấu cây trồng cho phù hợp với nhu cầu của con người, bên cạnh đó là
tiến trình đô thị hoá ở các nước đang phát triển.
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong nước
Việt Nam là đất nước có truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời, cây lúa Việt
Nam là một cây bản địa và Việt Nam nằm trong cái nôi lớn, sinh ra nghề trồng lúa của
loài người. Sản xuất lúa gạo ở nước ta tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và Đồng bằng sông Hồng, khoảng 80% hộ gia đình nông thôn trong cả nước
tham gia vào sản xuất lúa gạo (Trần Văn Đạt, 2002).
Xuất khẩu gạo hằng năm đã mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân sách
nhà nước, năm 2003 sản xuất lúa gạo chiếm gần 50% GDP nông nghiệp (không kể
lâm nghiệp và ngư nghiệp) trong giai đoạn 1991 - 2002, sản lượng lúa tăng bình quân
khoảng 4,9% năm, năng suất lúa tăng 3% năm trong khi đó diện tích chỉ tăng 1,8%
năm. Năm 1998 năng suất lúa trung bình của nước ta đạt 39,6 tạ/ha, đến năm 2002
tăng lên 45,14 tạ/ha (bình quân mỗi năm tăng hơn 1 tạ/ha). Rõ ràng trong những năm
gần đây nông dân Việt Nam đã đạt mức tăng kỹ lục về năng suất, sản lượng lúa và lợi
nhuận tính theo hecta song hầu hết nông dân đều trồng lúa trên diện tích nhỏ nên
không thể thoát nghèo nếu chỉ trồng lúa.
Vựa lúa lớn nhất của nước ta hiện nay là Đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp
trên 50% sản lượng lúa gạo cho toàn quốc và xấp xỉ 80% luợng lúa gạo xuất khẩu của

cả nước. Hiện nay diện tích trồng lúa của Đồng bằng sông Cửu Long khoảng hơn 2
triệu ha và có thể mở rộng ra hơn 400 ha nữa. Do những ưu đãi về khí hậu, đất đai
năng suất lúa của ĐBSCL luôn ở trong nhóm cao nhất cả nước. Tính đến năm 2004
vùng này đạt sản lượng lúa 18,5 triệu tấn với năng suất bình quân 4,86 triệu tấn/ha
(Bùi Huy Đáp, 2002).
Là cái nôi của nền văn minh lúa nước Việt Nam, đồng bằng sông Hồng có
truyền thống thâm canh lúa nước từ rất lâu đời và được đầu tư nhiều hơn về cơ sở hạ
tầng phục vụ thâm canh lúa. Đặc điểm chính của nghề sản xuất lúa ở vùng này là diện
7


tích sản xuất lúa của mỗi hộ nông dân nhỏ hẹp, manh mún, sản lượng lúa gạo chủ yếu
đáp ứng nhu cầu lương thực của vùng.
Bảng 2.1. Diện tích và sản lượng lúa ở Việt Nam từ năm 1990 đến 2007
Diện tích

Sản lượng

(triệu ha)

(triệu tấn)

6,0

19,2

1995

6,8


25,0

2000

7,7

32,5

2003

7,5

34,6

2004

7,4

36,2

2005

7,4

35,8

2006

7,3


36,2

2007

7,2

36,9

Năm

1990

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007, NXB thống kê Hà Nội năm 2008
Mục tiêu của Việt Nam trong những năm tới là tiếp tục coi trọng an ninh
lương thực mà chủ yếu là dựa vào sản xuất lúa, tiếp tục sản xuất những giống lúa cho
năng suất cao ở những vùng đặc biệt khó khăn về lương thực nhưng trên phạm vi cả
nước phải đẩy mạnh sang sản xuất lúa gạo có chất lượng cao, tạo ra những sản phẩm
gạo có chất lượng tốt nhằm nâng cao thu nhập của người trồng lúa vì vậy, phải thực
hiện đồng bộ việc áp dụng các tiến bộ về giống và kỹ thuật trồng trọt nâng cao năng
suất và chất lượng lúa gạo.
Trong lịch sử Việt Nam đã xuất khẩu gạo từ cuối thế kỷ XIX. Năm 1884 miền
Bắc xuất khẩu 5.376 tấn gạo. Năm 1890 cả nước xuất khẩu 957.000 tấn gạo, năm 1907

8


xuất khẩu 2 triệu tấn gạo và 1926 - 1936 xuất khẩu được 8,1 triệu tấn gạo (Bùi Huy
Đáp, 2002).
Trong khoảng thời gian 1968 - 1975 cuộc Cách Mạng Xanh xảy ra cả 2 miền
Nam và Bắc Việt Nam nhờ thành tựu về hệ thống tưới tiêu, phân bón và đặc biệt về

giống đã làm cho sản lượng lúa tăng 8,8 triệu tấn trong năm 1967 - 1969 lên 11 triệu
tấn trong năm 1974 - 1975. Tuy nhiên do chiến tranh và áp dụng các biện pháp kinh tế
không hữu hiệu, trong giai đoạn 1962 - 1988 nước ta phải nhập khẩu gạo từ Trung
Quốc, Thái Lan, Mỹ…Số lượng nhập khẩu cao nhất là 1.260.000 tấn vào năm 1970.
Năm 1989 đến nay nhờ cơ chế chính sách của Nhà nước thay đổi từ sản xuất theo hình
thức tập thể sang cơ chế khoán rồi trực tiếp giao đất cho người dân chủ động sản xuất.
Việt Nam đã chuyển vị trí từ nước nhập khẩu thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2
trên thế giới.
Từ đó đến nay sản lượng lúa của Việt Nam không ngừng tăng lên trong 10
năm từ 1990 - 2000 tăng từ 19,23 triệu tấn lên 32,7 triệu tấn, trong khi đó trong 15
năm 1975 - 1990 chỉ tăng 9,1 triệu tấn. Lượng xuất khẩu của nước ta ngày dần tăng
lên năm 2000 là 4,50 triệu tấn. Đây là một bước tiến vượt bậc đã làm nhiều nước kinh
ngạc. Sự phát triển này đạt được là nhờ vào sự tiến bộ trong công tác giống của nước
ta. Từ những giống địa phương năng suất thấp, dài ngày, chống chịu kém… được thay
bằng những giống lúa mới từ những nguồn khác nhau như nhập nội hay chọn tạo
trong nước đã đưa năng suất lúa lên cao 31,9 tạ/ha năm 1990 đến năm 2000 đạt 42,6
tạ/ha. Thành công này cũng có sự đóng góp một phần của thành tựu sản xuất lúa lai.
Trong những năm gần đây, từ năm 2000 đến nay diện tích trồng lúa của nước ta
có xu hướng giảm dần. Do việc thay đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp với từng vùng,
từng loại đất để tăng hiệu quả kinh tế và do tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh chóng nên
đất đai nông nghiệp bị giảm nhanh. Nhưng sản lượng lúa của nước ta không giảm mà còn
tăng lên trong năm 2000 diện tích 7,76 triệu ha lên 7,2 triệu ha năm 2007, năng suất từ
4,24 tấn/ha lên 4,98 tấn/ha.và sản lượng từ 32,52 triệu tấn lên 35,86 triệu tấn năm 2007.
Lượng gạo xuất khẩu ra thế giới ngày càng tăng, trong giai đoạn 2000 - 2007 năm 2005
là năm đầu tiên xuất khẩu vượt con số 5 triệu tấn, mức giá xuất khẩu khá cao 245 - 275

9


USD/tấn. Theo Hiệp hội lương thực Việt Nam 4 tháng đầu năm 2009 nước ta xuất khẩu

gạo đạt 2.285 triệu tấn - tăng 64,5% so với cùng kỳ năm 2008.
Thị trường xuất khẩu gạo ngày càng được mở rộng và uy tín gạo Việt Nam
được cải thiện khi nước ta gia nhập WTO. Tuy nhiên gạo Việt Nam cũng chịu sức ép
cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà, trong khi cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản
xuất còn yếu kém. Gạo Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ… có chất lượng cao, giá rẻ tràn
vào thị trường Việt Nam với thuế nhập khẩu không đáng kể. Mặc dù phải đối mặt với
những khó khăn và thách thức đó, nhưng mặt hàng gạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất
23,8%, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 1.455 triệu USD, tăng 16,7% giá gạo
bình quân 300 USD. Điều đó thể hiện chất lượng gạo Việt Nam đã được nâng cao rõ
nét, đáp ứng yêu cầu khắt khe của một số thị trường khó tính: EU, Nhật Bản, Mỹ…
2.3. Tình hình nghiên cứu lúa trên Thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên Thế giới
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc khủng hoảng lương thực, đặc biệt là
gạo trên thế giới đang diễn ra hết sức nhanh chóng. Vì vậy để tăng sản lượng lúa gạo
nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm thì biện pháp tốt nhất là tăng năng suất,
giống là yếu tố quan trọng hàng đầu, giúp tăng năng suất 15 - 30% (Trần Văn Đạt,
2002).
Do vậy công tác nghiên cứu, cải tạo về lúa được tiến hành từ lâu và có nhiều
thành tựu to lớn trong việc chọn tạo ra những giống lúa tốt cho năng suất, chất lượng
cao, chống chịu với sâu bệnh, khả năng thích ứng rộng với điều kiện sinh thái, canh
tác ở từng vùng cụ thể.
Thập niên 1950 Ủy ban lúa gạo quốc tế của FAO đã cộng tác với các thành
viên để thi hành một chương trình lai các giống thuộc nhóm indica với các giống
thuộc nhóm japonica để tạo ra giống lúa cho các nước ở vùng có khí hậu nhiệt đới ở
Châu Á như: ADT ở Tamil, Ấn Độ; Malinga, Mashuri ở Malaysia; BP-76 ở Philippin;
H- 4, H-5 ở Srilanka (Nguyễn Văn Ngưu, 2007).

10



Đến năm 1960 cuộc Cách Mạng Xanh ra đời đã cho ra những giống lúa có năng
suất cao, chống đổ ngã, chống chịu sâu bệnh, chịu phèn khá, thời gian sinh trưởng
ngắn 3 - 4 tháng được mở rộng khắp thế giới (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Cùng thời gian đó Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) được thành lập vào
năm 1960 tại Philippin. Các chuyên gia của IRRI đã lai giống lúa Deowoo thấp, ngắn
ngày của Đài Loan với giống Pete cao giàn của Indonesia tạo ra giống IR8 triển vọng
góp phần vào sự thành công của cuộc Cách Mạng Xanh trên thế giới. Trong những
năm 1970, IRRI đã tạo được những giống lúa mới có năng suất cao kết hợp được tính
chống bệnh đạo ôn, bọ rầy xanh, hạt trong và có hương thơm như các dòng IR159,
IR22… (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Ấn Độ là nước nghiên cứu giống lúa cúng khá sớm mục đích tạo ra những
giống năng suất cao, thấp cây, có khả năng chống đổ, phản ứng với quang chu kỳ để
có thể trồng được những vụ khác nhau. Nhờ phương pháp lai và đột biến đã tạo ra
nhiều tổ hợp giống lúa: Yet 355, CR 1006, CR 2002…
Hiện nay khoa học công nghệ đã đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là công nghệ sinh
học. Những thành tựu khoa học này được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong công tác chọn tạo giống lúa người ta đã tạo ra những giống mới bằng cách lai,
chuyển đổi gen, gây đột biến,… nhằm tạo ra những giống mới có năng suất và chất
lượng cao. Như các giống lúa chuyển gen có hàm lượng dinh dưỡng cao: Protein, vi
lượng Fe, Zn, vitamin A, B1, hay các giống lúa có khả năng chống chịu hạn hán, ngập
lụt, chống chịu sâu đục thân, sâu cuôn lá... (Trần Văn Đạt, 2002).
2.3.2. Tình hình nghiên cứu về giống trong nước
Những giống lúa trồng ở nước ta ngày nay là kết quả của công trình dài của
các công việc thuần hoá, lựa chọn và cải thiện do nông dân và các nhà nghiên cứu
khoa học (Nguyễn Văn Ngưu, 2007).
Hiện nay có nhiều Viện, Trung tâm và trường Đại học tham gia vào chương
trình khảo cứu lúa gạo tại Việt Nam.

11



Tại miền Bắc: Viện khoa học kĩ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Trung tâm
nghiên cứu lúa lai, Viện cây lương thực và thực phẩm, Viện di truyền, Viện sinh học,
Trường đại học Nông nghiệp I…
Miền Nam: Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Huế, Đại học Nông
lâm Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ…( Trần Văn Đạt, 2002).
Cuộc Cách Mạng Xanh ở Việt Nam bắt đầu cuối thập niên 60 do việc nhập nội
từ Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) những giống lúa có năng suất cao, phẩm
chất tốt, thời gian sinh trưởng ngắn: IR8, IR20, IR22, IR26, IR30, TN73-1, TN732…và những giống lúa có khả năng kháng rầy nâu: NN6A, NN7A, NN8A, OM3,
IR36…(Nguyễn Văn Luật, 2001).
Sau khi thành lập vào năm 1961, Viện nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu
Long (CRRI) đã nghiên cứu và tạo ra nhiều giống lúa năng suất cao, chất lượng tốt,
chống chịu sâu bệnh,…và có thời gian sinh trưởng thích hợp cơ cấu mùa vụ ở từng
vùng miền. Như một số giống: OM723, OM916, OM922, TDB…(Viện Lúa Đồng
bằng sông Cửu Long, 1997) có thời gian sinh trưởng trung ngày rất thích hợp cho việc
chuyển đổi cơ cấu ba vụ ngắn ngày bấp bênh sang hai vụ trung ngày ăn chắc ở các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Viện khoa học kĩ thuật Việt Nam kết hợp Viện Cây lương thực thực phẩm và
Viện Bảo vệ thực vật. Đã nghiên cứu lai tạo ra nhiều giống địa phương với IR có khả
năng chống bệnh cháy lá, bạc lá, rầy nâu, sâu đục thân: U7, C10, C15, C37, X2, X3…
(Trần Văn Đạt, 2002).
2.4. Tổng quan vùng nghiên cứu
Gia Lai là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam với diện tích
15.494,9 km², trải dài từ 15°58'20" đến 14°36'36" vĩ Bắc, từ 107°27'23" đến
108°94'40" kinh Đông. Dân số tỉnh Gia Lai gần 1,1 triệu người (năm 2004) bao gồm
nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống.
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên một năm có hai mùa mưa và
mùa nắng. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng bắt đầu từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Phần lớn điện tích trên địa bàn tỉnh là đất đỏ Bazal nên rất thích
12



hợp cho trồng cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực…. Tổng diện tích lúa nước
trên địa bàn tỉnh là 36.000ha, diện tích lúa rẫy 10.000ha.
Phú Thiện là huyện mới tách ra từ thị xã Ayun Pa. Nằm ở vị trí Đông Nam của
tỉnh, trên quốc lộ 25 nối từ thị trấn Chư Sê đi Tuy Hoà - Phú Yên. Phía Đông giáp
huyện Ia Pa, phía Bắc và phía Tây giáp huyện Chư Sê, phía Nam giáp thị xã Ayun Pa.
Huyện Phú Thiện có diện tích 50.191 ha và 64.558 nhân khẩu, hơn 80% dân số
sinh sống bằng cây lúa. Ở vùng có khí hậu ôn hoà, với nhiệt độ trung bình 250 - 260 C,
lượng mưa trung bình 1.000 - 1.300 mm. Vì vậy điều kiện đất đai, khí hậu rất thuận
lợi cho các loại cây trồng phát triển đặc biệt là cây lúa.
Đây được coi là vựa lúa lớn nhất của tỉnh Gia Lai. Với diện tích lúa nước
khoảng 6.000 ha, năng suất bình quân 65 - 70 tạ/ha/vụ, sản lượng bình quân 80.000
tấn lúa. Để đạt được thành tựu đó, là nhờ có công trình đập Ayun Hạ cung cấp nguồn
nước tưới, áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh. Đặc biệt là chương trình mở
rộng diện tích gieo trồng từ một vụ thành hai vụ lúa trong năm.
Tuy nhiên nông dân ở đây vẫn chưa giàu vì hạt lúa chưa có thương hiệu, chất
lượng gạo chưa cao nên giá bán ra thị truờng không cao. Do vậy đề tài này được tiến
hành khảo nghiệm. Nhằm tìm ra một số giống có năng suất cao, phẩm chất tốt và có
thời gian sinh trưởng thích hợp với cơ cấu mùa vụ, kĩ thuật canh tác của người dân để
đưa vào sản xuất ở địa phương. Góp phần cải thiện đời sống của người dân và phát
triển kinh tế tại huyện Phú Thiện.

13


×