Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHỮ VIẾT CHO học SINH lớp 1b KHU TRUNG tâm TRƯỜNG TIỂU học bó SINH năm học 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.9 KB, 18 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NÂNG CAO CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1B KHU TRUNG TÂM
TRƯỜNG TIỂU HỌC BÓ SINH NĂM HỌC 2016 - 2017
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do viết sang kiến:
Theo sự phân công nhiệm vụ năm học 2016 – 2017 của Ban giám hiệu nhà
trường, tôi được phân chủ nhiệm lớp 1B khu Trung Tâm với tổng số 28 học sinh đều là
con em dân tộc thiếu số thuộc địa bàn của xã. Đa số các em đều là con nhà nông phải
bán lưng cho trời, bán mặt cho đất để kiếm sống qua ngày tháng, dù nhỏ tuổi nhưng từ
sớm các em đã phải theo bố mẹ học cầm dao, cầm cuốc để có kỹ năng kiếm sống về
sau. Đến trường, đến lớp là học cầm bút viết vào trang giấy trắng, học cầm phấn viết
mặt bảng con đen. Chiếc bút hay viên phấn hình như còn xa lạ với các em, khi cầm
nhiều em còn lúng túng không biết cầm bằng mấy ngón tay, khi viết không biết đặt bút
(phấn) từ đâu. Đồng thời, theo Kế hoạch của Phòng Giáo dục huyện Sông Mã, năm
2018 phấn đấu Trường đạt Chuẩn quốc gia mức độ 1, nên việc trang bị cho các em chữ
viết đều nét, đúng, đẹp là hết sức cần thiết. Tạo nên những con người theo kịp với điều
kiện kinh tế - xã hội thời đại, duy trì nết văn hóa truyền thống về con người và chữ
viết.
Như chúng ta đã biết, một trong những niềm vui, hạnh phúc lớn nhất của trẻ là
được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mới
rộng lớn mênh mông sẽ mở ra trước mắt các em. Tiểu học là bậc học nền tảng, dạy
Tiếng Việt và tập viết là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra những cánh
cửa bước vào tương lai bao la, là công cụ để các em vận dụng suốt đời. Dạy chữ chính
là dạy người. Có thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện
của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối
với thầy cô và bạn mình”. Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường.
Tập viết là một phân môn có tầm phần quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với
các em lớp 1. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông viết thạo. Viết đúng, đẹp,
nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn.
Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở,


góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ
viết. Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều đó ảnh hưởng
không nhỏ tới các môn học khác. Ngoài ra Tập Viết còn góp phần quan trọng vào việc
rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: Tính
cẩn thận bền bỉ, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ bởi người xưa nói về nét chữ, nết
người như sau:
Xưa nay nét chữ nết người
Uốn cho thật dẻo nở mười hoa tay
Yêu người chữ đẹp thơ hay
Xứng danh tài đức dựng xây nước nhà.
Nhận thức được tầm quan trọng như đã nêu trên, với ý thức và lương tâm, trách
nhiệm nghề nghiệp của giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở. Trong giảng
dạy, tôi đã không ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em viết chữ
đẹp, luôn tìm ra phương pháp dạy học thích hợp viết chữ đẹp. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, tôi đã mạnh dạn chọn Sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chữ viết
cho học sinh lớp 1B Khu Trung Tâm Trường Tiểu học Bó Sinh năm học 2016 -


2017”. Trong sáng kiến này, tôi không đề cập nhiều đến toàn bộ năm học mà chỉ giới
hạn trọng tâm ở học kì I để nhằm giúp học sinh viết chữ đẹp, đúng kích cỡ, kịp thời
đáp ứng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Đồng thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban
đầu thuận lợi cho việc phát huy viết chữ đẹp sau này.
2. Mục tiêu của sang kiến:
Mục đích của sáng kiến là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp tích cực
trong việc dạy chữ viết Tiếng Việt, góp phần giúp học sinh lớp 1B viết chữ đúng và
đẹp. Thông qua các biện pháp này tôi có thể nâng cao kiến thức của bản thân và ý thức
được việc nghiên cứu, tìm tòi phương pháp giảng dạy là một nhu cầu cũng như nhiệm
vụ của mình.
Nhiệm vụ của sáng kiến là nghiên cứu lí luận, tìm ra những cơ sở lí luận, vai trò
vị trí, nhiệm vụ và phương pháp dạy học, hệ thống hóa những vấn đề lí luận có liên

quan đến sáng kiến. Ngoài ra còn khảo sát quá trình dạy học tập viết ở trường. Tham
khảo một số phương pháp của các bạn đồng nghiệp, của các nhà nghiên cứu trên cơ sở
tìm ra những cái hay, cái đúng và những cái còn hạn chế, từ đó biết cải tiến, áp dụng
vào trường lớp của mình và đề xuất những biện pháp tích cực, khắc phục hạn chế của
việc dạy chữ viết rèn chữ viết cho học sinh lớp 1, giải quyết những khó khăn trong
giảng dạy cũng như trong công tác chủ nhiệm của mình. Rèn chữ viết cho học sinh
làm cho học sinh có tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, kiên trì và chịu khó. Qua đó, giáo dục
các em ý thức tự trọng và tôn trọng người khác.
3. Giới hạn của sang kiến
3.1. Về đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến là những biện pháp nâng cao chữ viết cho
học sinh lớp 1 ở Trường Tiểu học hiện nay nói chung và học sinh lớp 1B Trung Tâm
Trường Tiểu học Bó Sinh năm học 2016 – 2017 nói riêng.
Tổng số học sinh 28 em, trong đó nữ 14 em, dân tộc 28 em, nữ dân tôc 28
em.
3.2. Về không gian:
Địa điểm nghiên cứu: Lớp 1B Khu Trung Tâm của Trường Tiểu học Bó Sinh.
Sáng kiến nghiên cứu lối chữ viết, nguyên nhân dẫn đến chữ viết chưa đẹp,
nghiên cứu tìm ra những biện pháp thực hiện trong việc rèn chữ cho học sinh lớp 1B
Trung Tâm Trường Tiểu học Bó Sinh năm học 2016 – 2017, nhằm khắc phục tình
trạng chữ viết chưa đúng, chưa đẹp và chưa đều nét. Từ đó hình thành nên nhân cách
con người biết nhìn nhận vào cái đẹp và bảo vệ giữ gìn lấy cái đẹp.
3.3. Về thời gian: Bắt đầu từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 05 năm 2017. Thời
gian nghiên cứu diễn ra trong suốt năm học.


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở viết sáng kiến
1.1. Cơ sở khoa học:
Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn

nhiều bỡ ngỡ, rụt rè. Việc giúp các em làm quen với chữ viết thật là khó khăn, bởi đôi
tay cầm bút còn vụng về lóng ngóng. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi luôn trăn trở suy nghĩ
một câu hỏi: Ở lớp 1 có nên tiến hành dạy các em viết đẹp ngay không? Qua việc
giảng dạy sau mỗi tiết học môn Tập Viết, tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp 1,
nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng, viết đẹp ngay là một điều khó có
thể thực hiện được. Do vậy, đối với giáo viên cần có sự dạy dỗ công phu, nhiệt tình,
tập trung xây dựng biện pháp rèn chữ viết cho phù hợp với lứa tuổi, để các em tiếp thu
được một cách vững chắc, chúng ta cần được sự kết hợp với gia đình để được sự kèm
cặp sát sao của phụ huynh học sinh. Vậy để việc rèn chữ viết đẹp của từng học sinh,
của tập thể lớp 1B Khu Trung Tâm có hiệu quả, trước tiên cần xây dựng được nề nếp
và kĩ thuật viết chữ đúng đó là cơ sở để viết chữ đẹp và cũng chính là yếu tố có tính
quyết định việc rèn chữ viết đẹp của các em trong quá trình học tập. Về phía học sinh,
các em cần kiên trì rèn luyện thì mới nên nét chữ, phải rèn luyện mọi lúc mọi nơi, rèn
luyện ngày đem như các bậc thầy chữ xưa đã nói:
Chữ đẹp nào phải hoa tay
Ta chăm luyện tập hằng ngày đâu quên
Gắng công ra sức chí bền
Gian nan rèn luyện mới nên con người.
Mặt khác, như đã nói ở trên Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Chữ viết cũng
là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là
góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối
với thầy và bạn đọc bài vở của mình...” Có người quan niệm rằng: Chỉ cần học giỏi thì
được. Học giỏi để sau này có cơ hội tìm được những công việc phù hợp có thu nhập,
chứ còn chữ viết có xấu hay đẹp cũng không quan trọng ! Đây là một quan niệm sai
lầm bởi “Nét chữ - Nết người”, nét chữ phần nhiều thể hiện tính cách của mỗi con
người. “Nét chữ hôm nay, con người mai sau” thật sự là một tiêu chí phấn đấu của
những ai có tâm huyết với chữ nói chung và là tiêu chí phấn đấu của tôi trong năm học
này. Dạy học không chỉ dạy chữ mà còn là dạy người. “Nét chữ là nết người” đã chứng
minh cho tầm quan trọng của nét chữ đẹp. Nét chữ đẹp thể hiện một tính cách nghệ
thuật, không những thế nét chữ còn góp phần hình thành tính cách của mỗi học sinh, vì

đây chính là cơ hội để các em sao chép lại được những kiến thức cơ bản của học sinh
lĩnh hội trong học tập góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng học tậpcủa các
em đặc biệt trong môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Nét chữ sẽ mãi mãi
theo suốt cuộc đời những ai biết trân trọng cái đẹp và say mê rèn luyện. Có thể nói qua
quá trình dạy học sinh lớp 1 rèn luyện chữ viết từ hôm nay, tôi cảm thấy vui hơn, có
trách nhiệm hơn bởi người dạy và người học biết vượt lên chính mình.
Ngoài ra, xuất phát từ thực trạng chung về chất lượng chữ viết của học sinh lớp
1 ở đơn vị trường Tiểu học Bó Sinh nói chung, học sinh lớp 1B Trung Tâm nói riêng,
đa số học sinh có chữ viết cẩu thả, viết không đúng mẫu, không đúng cỡ chữ, trình bày
vở không tốt. Nhiều em quên kích cỡ con chữ. Ví dụ: chữ h, b, l,... có độ kich cỡ 5 li
mà học sinh chỉ viết độ cao 3 – 4 li; viết không đủ nét; điểm bắt đầu và kết thúc không


đúng quy định. Nhiều em viết không đúng mẫu, viết quá tự do. Ví dụ: Chữ h, b, ... viết
chữ ngửa ra sau hoặc cong về phía trước; một số nét phụ viết quá dài, không đúng vị
trí; chữ r, s viết không đủ kích cỡ con chữ, ... Những vấn đề này, vài năm qua giáo viên
trường ít quan tâm chỉ lo chất lượng kiến thức quên đi kĩ năng rèn chữ viết cho học
sinh. Không những học sinh mắc các lỗi trên mà giáo viên cũng mắc lỗi tương tự. Hiện
nay, trong nhà trường có bộ chữ mẫu theo sách giáo khoa hiện hành, các tài liệu hướng
dẫn cách viết chữ; giáo viên lớp 1 đủ khả năng thực hiện luyện viết theo mẫu chữ hiện
hành. Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với gia đình học sinh mua vở luyện viết chữ ở
nhà, giáo viên là những người đi tiên phong trong phong trào rèn luyện chữ viết phối
hợp với phong trào thi đua giữ vở sach – rèn chữ đẹp trong nhà trường. Phong trào rèn
luyện chữ viết trong giáo viên và học sinh là một tiêu chí thi đua của nhà trường. Đây
là cơ sở quyết định nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
1.2. Cơ sơ chính trị, pháp lý:
- Cơ sở chính trị: Theo một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo
dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, tại Đại hội X, Đảng chủ
trương: Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta có một

nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp
ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập quốc tế, cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp
phát triển giáo dục như: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi
trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề;
đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch
sử, truyền thống văn hoá của dân tộc, của Đảng. Phát triển quy mô
hợp lý cả đại trà và mũi nhọn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người
có thể học tập, học chữ suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Một
phần, nét chữ ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách, lối sống cho các
em.
- Cơ sở pháp lý: Theo Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm
2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
định đánh giá học sinh tiểu học đã ban hành tại Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ban
hành ngày 28/8/2014. Thông tư đã nêu rõ: “Đánh giá học sinh tiểu học trong Quy định
này là những hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học
tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viện học sinh; nhận xét định tính
hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số năng
lực, phẩm chất của học sinh tiểu học”. Nói như vậy là tất cả mọi khía cạnh của học
sinh cũng phải được theo dõi, đánh giá từ giáo viên, bạn cùng học và phụ huynh học
sinh, nên một phần chữ viết cũng chiếm vị trí rất quan trọng; vì chữ viết đẹp hình
thành nên phẩm chất con người kiên trì, tính cẩn thận, có con mắt thậm mĩ, biết yêu
cái đẹp, cái hay của cuộc sống.
2. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết:
- Là một giáo viên giảng dạy học sinh lớp một được ba năm tôi thấy: Thực tế
chữ viết của học sinh lớp 1 hiện nay không đồng đều, một số em viết chữ tương đối
đẹp, còn lại các em viết chữ chưa đều nét, viết cẩu thả, chưa biết cách trình bày vở,
khoảng cách chưa đều, chưa đúng, chưa ý thức được cái đẹp, điều đó sẽ ảnh hưởng
đến kết quả học tập của các em.



Tư thế ngồi, cách cầm bút sai cũng ảnh hưởng không ít đến việc viết chữ, đa số
các em ngồi cúi mặt với vở, người cong vẹo, vai thấp, vai cao, nhiều em cầm bút bằng
4 ngón, có em cầm bút bằng 5 ngón, có em cầm bút ngả về phía trước, cầm bút vuông
góc với mặt vở.
- Mặt khác, nhiều em đã biết cách cầm bút, ngồi đúng tư thế nhưng cách lia bút,
đặt bút lại không đúng vị trí dẫn đến nét viết chưa đều, chưa đúng li. Ví dụ nét khuyết
trên, nét khuyết dưới đều có kích cỡ là 5 li nhưng khi viết thì lại viết 4 li hoặc ngả về
sau hoặc nghiêng ra trước,… nét móc ngược, nét móc xuôi, nét móc hai đầu thì chưa
lia được cong mà vẫn bị gãy, … Các nét cong hở hay kín viết còn méo chưa tròn,…
Cụ thể, qua khảo sát chữ viết cho học sinh lớp 1B Trung Tâm Trường Tiểu học
Bó Sinh cho thấy:
Tổng số
Viết Viết chưa
Đầu kì I
Nhóm chữ viết chưa đẹp (đa số)
học sinh
đẹp
đẹp
Nhóm khuyết trên, dưới.
8
2016 –
Nhóm nét cong, nét móc hai
28
8
20
8
2017.
đầu, nét móc xuôi, ngược.

Các lỗi khác
4
Sau khi quan sát, theo dõi xếp loại học sinh nắm bắt được tình hình đó tôi đã
nghiên cứu và tìm ra được nguyên nhân dẫn đến học sinh chữ xấu chiếm đa số.
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy đa số học sinh có thái độ học tập nghiêm
túc, có ý thức nghe giảng bài. Nhưng có những nguyên nhân thiết yếu dẫn đến chữ viết
chưa đẹp của học sinh, trong đó chủ yếu là người giáo viên trực tiếp giảng dạy và sự
nhận thức của học sinh, cụ thể:
* Về phía giáo viên:
- Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào người giáo
viên trực tiếp dạy học. Người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình viết chữ
đẹp hay xấu của học sinh. Qua thực tế ta thấy có rất nhiều nguyên nhân từ phía giáo
viên dẫn đến việc học sinh viết chữ chưa đẹp.
- Chữ viết chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc giảng dạy, cho thấy 1 số ít
giáo viên viết chân phương đẹp mắt.
- Ít chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh, chỉ lưu ý trong giờ tập viết, học
vần tiết 1, chưa hướng dẫn kĩ càng trong tiết 2.
- Chưa có biện pháp rèn chữ viết cụ thể. Chưa giúp học sinh nắm các nét cơ
bản, cấu tạo con chữ, dòng kẻ, kĩ thuật viết,... trong các tiết luyện viết mà chỉ cần nhấn
mạnh về kích cỡ các con chữ.
- Hướng dẫn rèn chữ viết chưa theo đối tượng học sinh. Chưa dạy theo chuẩn
kiến thức và kĩ năng.
- Về đồ dùng dạy học: Bảng viết của giáo viên không có dòng ô li rõ ràng, giáo
viên còn viết ắng chừng trên bảng.
* Về phía học sinh:
- Nguyên nhân chủ yếu do học sinh chưa nắm được các nét cơ bản cấu tạo
chữ ghi âm, vần, tiếng, dấu thanh chưa nắm vững quy trình viết chữ cái, quy
trình nối các nét trong chữ cái, trong chữ ghi tiếng nên chữ viết mới sai kích cỡ.
- Một số em chưa biết cách cầm bút và ngồi học chưa đúng tư thế.
- Đa số học sinh không có thói quen rèn chữ viết, không có ý thức trong việc

rèn chữ viết, thậm chí không cần quan tâm đến chữ viết đẹp hay xấu.


- Vẫn còn một số học sinh chưa nghiêm túc nghe giảng lúc đầu, các em chưa
cẩn thận khi viết, các em muốn viết nhanh để hoàn thành bài viết nhằm nghi “thành
tích” với giáo viên và các bạn. Một số học sinh đồ dùng học tập còn thiếu, một số học
sinh mắc bệnh về mắt.
- Ngoài ra còn có một số học sinh chưa ý thức được việc giữ gìn sức khỏe, đồ
dùng học tập, hay ra mồ hôi tay,...
Từ những thực trạng nêu trên và kinh nghiệm công tác, tôi thấy trường có
những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi:
* Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ
chức bồi dưỡng giáo viên, cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi
giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của BGH trường; tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ
chức những tiết hội giảng đề thảo luận về chuyên môn, rút ra những ý kiến hay, những
đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy, nhất là về mặt chữ viết.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều
kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng
nghiệp về chuyên môn cũng như giúp đỡ cùng tháo gỡ những khó khăn hay xử lí các
trường hợp học sinh cá biệt về học tập nói chung, rèn luyện chữ viết nói riêng.
* Học sinh:
- Học sinh đa số có cùng độ tuổi nên sự tiếp thu kiến thức khá đồng đều. Các
em đa số còn rất ngoan, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích
lệ động viên, khen thưởng, …
- Một số phụ huynh biết quan tâm về việc học tập của con em mình, có ý thức
trách nhiệm không bỏ mặt cho nhà trường, cho giáo viên, và luôn cùng với giáo viên
rèn luyện các em, trang bị đủ cho các em sách vở, bút, một số đồ dùng phục vụ trong

việc học tập. Thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình làm bài,
học bài đầy đủ trước khi đến trường lớp. Nhất là một số phụ huynh biết quan tâm rèn
luyện chữ viết cho con em mình, luôn theo dõi nhắc nhở phải hoàn thành bài Tập viết
do giáo viên giao, kể cả vở rèn viết chữ đẹp.
2.2. Khó khăn:
* Giáo viên:
- Trường được dạy 1 buổi trên ngày trên lớp nên thời gian rèn luyện chữ viết
cho học sinh rất ít. Mà trong khi đó cách nhau 1 tuần học thì mới có 2 tiết Tập viết,
như vậy là việc nắm quy trình viết các con chữ là không cao.
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập viết nói
riêng còn hạn chế. Giáo viên còn phải tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động
cho tiết dạy, nên còn mất nhiều thời gian đầu tư, nhất là mẫu chữ viết.
- Đèn chiếu, máy vi tính trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải kết
nối mất nhiều thời gian.
* Học sinh:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về mặt thể chất, bé nhỏ hơn so với các
bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến
bộ.
- Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm nương nên chưa quan tâm đúng mức
đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học


bài, làm bài ở nhà. Nhất là việc sắm bút, vở, phấn, bảng con phục vụ cho việc rèn chữ
là chưa đảm bảo.
- Một số trường hợp học sinh ở xa trên địa bàn trường đóng, cha mẹ các em ít
đưa đón con đi học, cứ bỏ mặt con thích đi học thì đi, thích nghỉ thì nghỉ. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng học sinh, nhất là về mặt rèn chữ, khó rèn cho các em viết
thành thạo, đúng nét, …
Căn cứ vào những thực trạng và những thuận lợi, khó khăn và với mục đích

sáng kiến được đặt ra cùng với những nguyên nhân nêu trên, nên bản thân tôi đưa ra
một số giải pháp, biện pháp và việc làm cụ thể để góp phần nâng cao giúp học sinh
viết chữ đẹp như sau:
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Mục tiêu chung của các giải pháp:
Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ
cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ,
chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
Kỹ năng: Viết đúng quy trình, đúng nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo
thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ.
Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút,
để vở, rèn tính kiên trì,… bài kiểm tra cuối năm học là bài tập chép một đoạn trong bài
tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả).
Thái độ: Rèn cho học sinh biết yêu cái đẹp, giữ gìn và bảo vệ cái đẹp. Cuối
năm học 100% học sinh giữ được vở sạch chữ đẹp.
3.2. Phương hướng chung của các giải pháp:
Việc đề ra những biện pháp mới của cá nhân dựa trên quan điểm kế thừa, phát
huy cải tiến những biện pháp đã có và đề xuất thêm những biện pháp mới, những biện
pháp này khắc phục những hạn chế của giáo viên và học sinh, phối hợp trong việc viết
chữ chưa đẹp, đồng thời với việc nâng cao ý thức của giáo viên và học sinh, duy trì có
hiệu quả trong việc phối hợp giáo dục đa chiều nhà trường, gia đình và xã hội để rèn
luyện tính thậm mĩ cho con cháu.
3.3. Những giải pháp cụ thể:
3.3.1. Giải pháp 1: Tiếp cận tìm hiểu đối tượng học sinh
Mục tiêu: Nắm bắt kịp thời các đối tượng học sinh, nhóm học sinh hay mắc các
lỗi chữ viết. Phân loại từng nhóm đối tượng, xây dựng đôi bạn cùng tiến, kịp thời giúp
học sinh nắm rõ được các nét cơ bản của từng con chữ, kích cỡ các con chữ.
Bước 1: Ngay từ đầu tiếp cận với học sinh, tôi dạy học sinh viết chữ với mục
đích là khảo sát trình độ chữ viết của học sinh. Đây là một vấn đề quan trọng bởi vì
trong thực tế chúng ta muốn tiếp cận đối tượng của mình một cách thuận lợi thì trước

hết phải hiểu được đối tượng mà mình muốn tiếp cận, mặc dù mới vào lớp 1 nhưng
cũng có một số em đã được học ở mẫu giáo, trong hè, các lớp luyện chữ, ...
Bước 2: Qua khảo sát này tôi thấy có khoảng 28,6% học sinh viết đạt yêu cầu,
còn lại là viết sai chữ, viết không đúng li, chưa đủ kích cỡ,... Từ đó, tôi phân loại ngay
được đối tượng học sinh để rèn luyện, kịp thời sửa chữa.
Bước 3: Dựa vào kết quả khảo sát chữ viết đầu năm, tôi quy định cho học sinh
phải có mẫu vở 5 ô li, mẫu bảng con 6 dòng kẻ, loại bút chì 2B, phấn mic không bụi.
Tổ chức phân công cho học sinh ngồi theo đôi bạn cùng tiến, em viết chữ đẹp, cẩn
thận ngồi cạnh em viết chữ chưa đẹp, cẩu thả. Các em này có thể quan tâm giúp đỡ
nhau để cùng nhau tiến bộ hoặc có ảnh hưởng theo chiều hướng tích cực trong học tập.
Tôi đã phân chọn được một số cặp điển hình: Huyền – Diệp, Giang – Chi, Tú – Tiện,


Minh – Huỳnh, Tuyết – Tùng, Thúy – Văn, Khánh – Bình Minh, Khuyến – Nghĩa, Yến
– Tinh, Châu – Hoàng, …
Kết quả cho thấy các em đều hứng thú rèn luyện chữ viết và luôn giúp đỡ nhau
trong các phần luyện viết. Thậm chí có em viết đẹp còn cầm tay bạn mình viết.
3.3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn ngồi đúng tư thế và cách lia bút
Bước 1: Ngay từ đầu tôi luôn chú trọng và rèn cho các em ngồi học đúng tư
thế, thoải mái, tránh gò bó. Thường xuyên nhắc nhở học sinh ngồi thẳng lưng, chân thả
vuông góc với mặt tiếp xúc, không cúi đầu, luôn giữ khoảng cách từ mắt đến vở là 20
– 25cm, cầm bút bằng 3 ngón tay: cái, chỉ, giữa; đặt bút nghiêng với mặt vở một góc
45 độ.
Bước 2: Hướng dẫn kĩ càng học sinh về kĩ thuật rê bút (là trường hợp viết đè
lên theo hướng ngược laị với nét chữ vừa viết. Trong trường hợp này cần viết nhẹ tay,
nếu viết nặng tay nét chữ sẽ viết nhòe ra), lia bút (Kĩ thuật lia bút là thao tác đưa bút
trên không, được dùng khi viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau để đảm
bảo tốc độ trong quá trình viết, nét bút vẫn thể hiện liên tục nhưng không chạm vào
giấy hoặc bảng). Hướng dẫn học sinh nắm chắc quy ước, kí hiệu của giáo viên trong
việc xác định tọa độ dòng kẻ ô li để khi dạy học giáo viên sẽ dễ dạy và học sinh dễ tiếp

thu. Với bản thân tôi quy định như sau; Với vở 5 ô li mỗi đơn vị ô li lớn có 6 dòng kẻ,
vở tập viết có 5 dòng kẻ. Dòng kẻ dưới cùng là dòng kẻ thứ nhất, các dòng kẻ khác là
2, 3, 4, 5, 6 theo thứ tự tiếp theo. Tương tự cũng quy định với đường kẻ dọc như vậy,
đường kẻ thứ nhất là đường kẻ đậm, các đường kẻ dọc tương tự được tính như vậy. Ở
giữa 2 dòng kể (đường kẻ) là 1 ô li được tính theo chiều cao (chiều rộng) và đơn vị gọi
là ô li nhỏ. Cách xác định tọa độ phải dựa vào đường kẻ dọc, dòng kẻ ngang, các ô li
làm định hướng. Đây là trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quá trình
được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành vi ngòi bút đi qua. Qua quy ước này
tôi phân tích cách viết viết các con chữ, hướng dẫn cho các em xác định điểm đặt bút
(điểm bắt đầu), xác định điểm kết thúc, độ cao, rộng của các con chữ.
Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết trên được hướng dẫn như sau: Điểm đặt bút
(điểm bắt đầu) từ dòng kẻ ngang thứ hai, trước đường kẻ dọc thứ nhất nửa ô li nhỏ,
đưa bút lên dòng kẻ ngang thứ ba (ngay tại vị trí dòng kẻ ngang thứ ba cát vớ i đường
kẻ dọc thứ nhất) đi qua rộng 1 ô li lên đến dòng kẻ ngang thứ ba
cắt với đường kẻ dọc thứ nhất và kéo xuống đường kẻ dọc thứ nhất đến điểm
kết thúc là dòng kẻ ngang thứ nhất.
Bước 3: Tôi hướng dẫn học sinh viết các con chữ với nét khác nhau và đặt câu
hỏi gởi mở. Ví dụ: Nét khuyết trên cao mấy ô li và rộng mấy ô? (cao 5 ô và rộng 1 ô).
Lưu ý: Cần lưu ý ở đây là tất cả các con chữ có nét móc hoặc nét xiên chiều rộng của
nó không tính vào nhằm để học sinh xác định được chiều rộng ô li một cách dễ dàng.
3.3.3. Giải pháp 3: Trực quan trong dạy tập viết
Mục tiêu: Rèn kỹ năng quan sát cho các em, bằng hình trực quan các em viết
được các con chữ đúng mẫu hơn, đẹp hơn.
Bước 1: Trong giờ dạy Tiếng Việt, tôi luôn luôn sử dụng bộ mẫu chữ viết trong
bộ chữ Tiếng việt làm đồ dùng trực quan cho học sinh quan sát. Phần viết bảng phải
luôn luôn chuẩn mực; cách đặt dấu thanh , khoảng cách các tiếng trong từ, viết liền
nét, cách trình bày bảng cần phải chú trọng về tính cẩn thận, thẩm mỹ. Vì điều đó ảnh
hưởng rất lớn đến học sinh. Nên khi tôi viết mẫu xong cũng cần cho học sinh quan sát
lại mẫu chữ viết hiện hành để học sinh có hướng viết đúng hơn, chính xác hơn.
Bước 2: Tổ chức cho học sinh viết vào bảng con hay vào vở Tập viết, tôi quan

sát, theo dõi, giúp đỡ những học sinh viết chậm, viết sai, đồng thời chỉ chữ mẫu cho


học sinh quan sát. Mặt khác, tôi còn viết mẫu trên bảng con rồi xóa mờ đi cho học sinh
tô lại một vài lần rồi tự viết.
Bước 3: Nhận xét, dùng phấn (but) khác màu để sửa sai cho những bài viết
chưa
đúng, chú ý đến kích cỡ, đường nét phấn hay bút. Nếu nhiều học sinh viết còn sai thì
cho quan sát lại chữ mẫu và tổ chức viết lại lần 2. Đòng thời động viên, tuyên dương
học sinh kịp thời để có hứng thú thi đua viết chữ tiếp theo.
3.3.4. Giải pháp 4: Rèn kỹ năng viết chữ đúng li, đều nét
Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được kích cỡ các con chữ và viết đúng kích cỡ,
viết đều nét, đặt bút viết đúng vị trí cũng như điểm dừng của các con chữ.
Bước 1: Tôi tìm hiểu rõ yêu cầu của vở tập viết, cấu trúc mỗi bài. Qua quá trình
nghiên cứu cho thấy cấu trúc sau mỗi bài học là gồm hai phần: tập viết chữ cái (vần)
và từ ngữ ứng dụng với yêu cầu mỗi chữ (vần), mỗi từ viết một dòng trong vở tập viết;
còn bảng còn mỗi chữ (vần), mỗi từ ngữ viết một lần. Mặt khác, ở vở tập viết lớp 1 thì
cứ sau 18 tiết học vần lại có 2 tiết tập viết thêm để học sinh rèn luyện cách viết các chữ
vừa học.
Bước 2: Tôi hướng dẫn kỹ các ký hiệu trong vở tập viết và giúp học sinh
nắm chắc như: đường kẻ ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút
đầu tiên của chữ, ký hiệu luyện viết ở nhà.Ví dụ: Chữ “h” có độ cao 5 li gồm hai nét:
nét khuyết trên và nét móc hai đầu; chữ “cái cân” gồm hai tiếng: tiếng “cái” gồm chữ c
là một nét cong hở phải liền với chữ a là một nét cong kín và một nét móc ngược nối
liền với chữ i là một nét móc ngước, thanh sắc là một nét xiên phải đặt trên con chữ a.
Tiếng “cân” gồm chữ c là một nét cong hở phải liền với chữ â là một nét cong kín và
một nét móc ngược cùng với dấu mũ trên đầu, nối liền với chữ n là một nét móc xuôi
và một nét móc hai đầu. Chữ h hay chữ cái cân đều viết nằm trên vạch kẻ đậm, điểm
đặt bút của con chữ h là ở vạch kẻ thứ hai tính từ vạch kẻ đậm lên hay chữ c thì dưới
vạch kẻ thứ ba. Cụ thể mẫu chữ như sau:

h
cái cân
Bước 3: Thường xuyên kiểm tra đánh giá sửa chữa kịp thời. Việc đánh giá có
hệ thống và thường xuyên giúp tôi điều chỉnh chữ viết của học sinh, làm cho các em
thấy mình đã lĩnh hội những điều vừa học đến mức độ nào, các nét nào, con chữ nào
viết đẹp và chưa đẹp để phát huy và khắc phục. Tôi luôn quan tâm đến đối tượng viết
xấu, viết chưa đẹp, tìm hiểu nguyên nhân ở các đối tượng này để có biện pháp giúp đỡ
kịp thời, giúp các em tiến bộ. Tôi tuyệt đối không nóng vội khi rèn chữ viết, cần luyện
viết ở mức độ vừa phải, không cho học sinh luyện viết quá nhiều trong thời gian buổi
học vì như thế sẽ làm các em mỏi tay, chữ viết sẽ xấu đi.
Ví dụ: Theo chương trình có 2 tiết tập viết trong cùng 1 buổi, tôi đã chia ra dạy
một tiết vào tiết 1 và một tiết vào tiết 3. Trong quá trình dạy tập viết tôi kết hợp tổ
chức thể dục tại chỗ, trò chơi thư giãn giúp các em thoải mãi, đồng thời đi tận chỗ,
chỉ tận tay để kịp thời động viên, khích lệ các em và phát hiện, điều chỉnh kịp thời
những lối sai sót.
3.3.5. Giải pháp 5: Phân nhóm chữ để luyện viết
Mục tiêu: Giúp học dễ phân biệt được các nét chữ cơ bản. Qua đó hình thành
cho các em nhớ lâu hơn về quy cách viết chữ và rèn luyện viết từng nhóm chữ sẽ đẹp
và đều nét hơn.
Bước 1: Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các
chữ, sau khi học xong các âm (chữ cái), tôi phân nhóm chung để luyện tập cho


học sinh.
Nhóm1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x. Trọng tâm
rèn luyện là nét cong . Đây là nhóm chữ khó viết đẹp vì rất dễ méo, khó tròn, trên to
dưới nhỏ.Trong nhóm chữ này cần xác định tọa độ dựa vào đường kẻ, điểm giữa của
lưng nét cong phải đặt cân bằng chính giữa đường kẻ (tức là điểm gặp dòng kẻ ngang
thứ hai và cần cho học sinh nắm chắc chiều rộng của các nét cong là 5 ô li (tức là 1 ô li
rưỡi). Mẫu chữ như sau:

c o ô ơ
e ê x
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc: a, ă, d,
đ, g. Trong nhóm này tôi lưu ý kế thừa luyện tập từ nhóm 1và luyện tập nét móc ngược
(ở nét móc ngược này tôi có thể tách thành nét sổ thẳng và nét hất nếu có học sinh viế t
chưa thẳng ở nét móc). Mẫu chữ như sau:
a ă â d đ g
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n. Trong nhóm
này cần lưu ý nét móc nhọn phía trước 1,5 ô li. Mẫu chữ như sau:
i t u ư p m n
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối hợp
với nét móc): l, h, k, b, y, g. Với nhóm chữ cái này nét khuyết trên (dưới) đều có chiều
rộng 1 ô li và lưu ý điểm gặp nhau ngay tại vị trí dòng kẻ ngang thứ ba đối với nét
khuyết trên, dòng kẻ một đối với nét khuyết dưới cắt với đường kẻ dọc. Mẫu chữ như
sau:
l h k b y g
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt: r, v, s. Đây là
nhóm chữ khó viết đẹp nhất, đặc biệt là chữ s và r. Tôi cần lưu ý 2 con chữ này có độ
cao là 2 ô li rưỡi và sau nét thắt con chữ r là nét xuôi hơi ngang đưa ra còn sau nét thắt
cong chữ s là nét xuôi xuống đưa vào. Mẫu chữ như sau:
r
v
s
Bước 2: Với cách chia nhóm chữ này, ngoài việc hướng dẫn rèn luyện viết
trong tiết học vần hay trong tiết tập viết. Tôi còn viết mẫu vào vở ô li theo các nhóm
đã phân chia, yêu cầu học sinh rèn luyện thêm ở nhà. Đặc biệt 15 phút đầu giờ học thứ
ba và thứ năm hàng tuần, tôi cho học sinh rèn luyện viết các nhóm chữ này (mỗi một
lần rèn luyện là viết 5 – 7 chữ). Mức độ tăng dần từ rèn luyện viết từng nhóm chữ
riêng lẻ đến rèn viết kết hợp. Khi qua phần bài học vần, tiếng, tôi lưu ý các em cách
viết liền nét; ở nét liền này cần kéo dài khoảng 1,5 ô li, nếu kéo dài quá nét chữ sẽ gây

phản cảm. Qua đến phần tiếng, từ cần lưu ý khoảng cách giữa các tiếng trong từ là một
vòng tròn khép kín (hay là 1,5 ô).
Bước 3: Trong dạy học bản thân tôi thấy về độ cao các con chữ các em rất dễ
nắm bắt nhưng về chiều rộng các em viết chưa đẹp vì thế khi dạy cần chú ý về chiều
rộng với các em. Từ đó, thường xuyên kiểm tra, đánh giá vở rèn viết của các em, động
viên, tuyên dương kịp thời nhằm nâng cao dần chữ viết đẹp cho các em từng bước.
3.3.6. Giải pháp 6: Thông qua các phương pháp giảng dạy (Tổng hợp)
Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp dạy học
sau:
Phương pháp trực quan:
Tôi khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: kết hợp mắt
nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích
thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đã học
trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh tương đồng.


Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện
đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to
trên bảng hoặc trên máy chiếu, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ
mẫu, … Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúngmẫu quy định, rõ ràng và
đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan sát,
từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ
cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các
nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết
liền mạch, viết nhanh.
- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chữa bài cũng được quan sát như một loại chữ
mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.

Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử lý
quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết,
nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu. Việc viết đúng củng
cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.
Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên
dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi
về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau
và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ a, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Chữ a gồm có bao nhiêu
nét? là những nét nào? Chữ a cao mấy ô? Độ rộng của chữ là bao nhiêu?…
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai
trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái
chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng
dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu
là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và
đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở
lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng
Việt và các môn học khác.
Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách
ngồi viết. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
* Tập viết chữ vào bảng con của học sinh
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bức
đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài cũ
hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó, giáo viên
phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình dáng, thứ tự các
nét viết).
* Luyện viết trong vở Tập viết:

Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết, tôi đã hướng dẫn tỉ mỉ nội
dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa
các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét,…) giúp các em viết đủ, viết đúng số
dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.


* Luyện viết trong vở ở ô li:Tôi viết mẫu cho toàn bộ học sinh trong vở cho
đến khi học hết phần âm (chữ cái). Sau khi chuyển sang phần học vần, tiếng, từ tôi
chọn một số em viết chưa đẹp để viết mẫu (nếu lớp quá đông)
* Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp:
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần thiết.
Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên. Việc
làm này yêu cầu người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự
kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
Cần chọn vở luyện viết ở nhà đúng mẫu, rõ ràng (một số vở dùng luyện viết đẹp
như: Em tập viết đúng – viết đẹp của lê ngọc Diệp chủ bên, vở ô li mẫu chữ của nhà
xuất bản đại học sư phạm do tác giả Trần Minh Hương biên soạn hoặc luyện viết chữ
đẹp của tác giả Trần Mạnh Hưởng).
3.3.7. Giải pháp 7: Quy trình dạy Tập viết lớp 1
Mục tiêu: Giúp cho chính bản thân người giáo viên khi dạy chữ viết là luôn
tuôn thủ theo một quy cách nhất định, theo bước nhất định. Qua đó cũng giúp các em
có thói quen rèn viết chữ theo từng kỹ năng từ đơn giản đến phức tạp hơn.
Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi mới
quy trình, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến
thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực
hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của nhiều giáo viên. Tôi xây dựng quy trình tiết tập
viết như sau:
A. Bài cũ: Kiểm tra (hoặc nhận xét bài cũ dùng ở tiết tập viết)
- Kiểm tra học sinh viết bảng con (1 - 2 em viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng
dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu

sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu), sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên
bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động viên kịp thời
những học sinh viết đẹp tiến bộ).
B. Bài mới:
1. Giới thiệu bài: Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
2. Hướng dẫn học sinh viết chữ:
- Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát.
- Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét? Nét
nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?… (Có thể cho học sinh chỉ vào chữ
mẫu trên bảng).
- Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ:
+ Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát.
+ Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi (ghi nhớ thứ tự
các nét).
+ Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp (hoặc trên bảng con) để học sinh nắm vững
quy trình viết chữ cái. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả quy trình.
- Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nắn, nhận
xét kết quả (chú ý về hình dáng, quy trình).
3. Hướng dẫn học sinh viết từ ngữ ứng dụng:
- Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng dụng; sau
đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng
(chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền mạch - nối chữ,
khoảng cách giữa các chữ cái, đặt dấu ghi thanh,…).


- Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng tâm ở
bài dạy), học sinh theo dõi.
- Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn (chữ ghi tiếng - từ
có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét.

4. Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết:
- Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì? viết mấy
dòng? cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? viết từ ứng dụng mấy dòng? cần lưu ý về cách
nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?…)
- Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết và tư
thế ngồi viết (chú ý giúp đỡ học sinh viết sai, viết cầu thả).
5. Đánh giá bài tập viết của học sinh:
- Giáo viên chữa bài cho học sinh đã viết xong ở lớp (số còn lại thu về nhà
chữa).
- Nhận xét kết quả chữa bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài học
dài, giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập theo nội
dung tương ứng.
C. Củng cố dặn dò:
- Nhắc lại nét trọng tâm vừa học.
- Viết vở rèn chữ viết (mẫu in sẵn).
Qua thời gian áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chữ viết cho học
sinh lớp 1B Khu Trung Tâm Trường Tiểu học Bó Sinh năm học 2016 - 2017” vào
thực tế giảng dạy, tôi thiết nghĩ để giúp học sinh có được chữ viết đẹp, đòi hỏi yêu cầu
cao đối với người giáo viên, phải có phương pháp rèn luyện chữ phù hợp với điều kiện
thực tiễn, trình độ, khả năng tâm lí lữa tuổi học sinh tiểu học, phát huy được tính tích
cực, tự giác, tự rèn của học sinh và đặc biệt là chú ý chí kiên trì “Tay chỉ nở hoa khi ta
luyện tập hằng ngày ”. Ngoài giờ học chính thức giáo viên phải tích cực phụ đạo, làm
tốt công tác chủ nhiệm hướng dẫn các em rèn luyện chữ ở nhà, thường xuyên họp phụ
huynh học sinh để trao đổi tình hình học tập cũng như về chữ viết từng em.
4. Hiệu quả của sáng kiến
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của sáng kiến
Qua quá trình tích lũy, nghiên cứu, áp dụng 1 số giải pháp và biện pháp về việc
“Một số biện pháp nâng cao chữ viết cho học sinh lớp 1B” Trường tiểu học Bó Sinh
năm học 2016 – 2017 đã nêu trên, tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện viết chữ đẹp đóng
một vai trò quan trọng trong việc học tập của học sinh, rèn luyện chữ viết đẹp là một

nhiệm vụ không thể thiếu với lớp học đầu cấp. Cùng với tập đọc, luyện viết chữ giúp
học sinh chiếm lĩnh phần chữ viết của Tiếng Việt. Rèn chữ viết học sinh được rèn
luyện một số phẩm chất như tính kiên trì, cẩn thận, khả năng thẩm mỹ cao,... Viết chữ
đẹp là nguyện vọng là lòng mong muốn của mỗi giáo viên, của mỗi phụ huynh học
sinh. Vậy có thể thấy rằng chữ đẹp là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện sự tài hoa
của người cầm bút, là món ăn tinh thần không kém phần quan trọng trong cuộc sống
của con người xưa và nay.
Ngoài ra, qua các qua các biện pháp nêu trên, bản thân tôi cũng rút rất
nhiều kinh nghiệm, uốn nắn cho các em từng con chữ cũng như đã uốn nắn tính kiên
trì, cẩn thận cả về học sinh và giáo viên. Đưa lớp ngày càng đi lên.
4.2. Đối tượng hưởng lợi của sáng kiến
Về phía giáo viên: Sáng kiến này giúp chính bản thân tôi có thêm những kinh
nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh, và thấy rằng muốn thành công thì không
phải học sinh mà chính người giáo viên trực tiếp giảng dạy phải kiên trì uốn nắn từng


chút cho các em. Qua đó, chia sẻ được kinh nghiệm rèn chữ, tạo nết người cho đồng
nghiệp trong trường nói chung, các đồng nghiệp đang giảng lớp 1 nói riêng.
Về phía học sinh: Các em không những viết chữ đẹp hơn trước mà còn nâng
cao được ý thức yêu cái đẹp, bảo vệ cái đẹp. Tư thế ngồi ổn định, tránh được hiện
trạng ngồi vẹo cột sống, bệnh về mắt, chân tay.

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, kết quả giữ vở và rèn viết chữ
đẹp của tập thể lớp 1B Khu Trung Tâm Trường Tiểu học Bó Sinh đã đạt được những
kết quả cao như sau:
- Học sinh rất chăm và có ý thức trong việc rèn chữ viết và trình bày vở sạch
đẹp, chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so với đầu năm học.
- Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và kĩ thuật viết chữ.

- Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ đứng nét đều.
- Học sinh còn biết tự mình thể hiện bài viết sáng tạo như bài viết chữ nghiêng,
có nét thanh, nét đậm.
- 100% học sinh giữ vở sạch sẽ.
Kết quả giáo viên rèn chữ cụ thể như sau:
BẢNG KẾT QUẢ XẾP LOẠI VỞ SẠCH CHỮ ĐẸP
Tháng/năm
TSHS
Loại A
Tỷ lệ
Loại B
Tỷ lệ
Loại C
Tỷ lệ


%

%

%

9/2016

28

8

28,6


12

42,8

8

28,6

10/2016

28

12

42,8

10

35,7

6

21,5

11/2016

28

18


64,3

6

2,5

4

14,2

12/2016

28

1/2017
2/2017
3/2017
4/2017
5/2017
Qua đó, không những các em chỉ hoạt động tốt trong phong trào rèn chữ viết,
bên cạnh đó các em đã thực hiện tốt được nề nếp, đẩy mạnh được chất lượng học tập
của mình.
2. Kiến nghị đề xuất
2.1. Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm để
nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường của từng khối lớp.
- Duy trì các phong trào thi đua “Giữ vở sạch- viết chữ đẹp”. Hội thi viết
chữ đẹp cấp trường.
- Trưng bày các bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham khảo.
- Đưa tiêu chuẩn “Giữ vở sạch- viết chữ đẹp” vào đánh giá thi đua của thầy và

trò.
- Nhà trường tạo điều kiện về thiết bị dạy học: như chuẩn bị bảng dành cho giờ
học Tập Viết có kẻ ô đúng theo quy định.
- Cung cấp mẫu chữ viết Tập Viết đầy đủ trên mỗi giáo viên trên lớp.
- Mua sắm 1 số tài liệu về luật pháp để những tiết dạy trống, giờ ra chơi giáo
viên đọc.
2.2. Đối với giáo viên
- Cần thấy được vị trí, tầm quan trọng của phân môn Tập Viết ở các lớp. Mỗi
giáo viên phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo, từ tư thế ngồi viết, cách
cầm bút đến chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách chữa bài, nhận xét cho học sinh.
Trên là sáng kiến mà bản thân đã thực hiện, tuy mang lại hiệu quả, song phạm
vi nghiên cứu còn hạn hẹp và thời lượng nghiên cứu còn ít, rất mong được sự đóng
góp chân thành của đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để sáng kiến được hoàn thiện hơn.


-

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Những điểm đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học Tiểu học.
Quy trình dạy Tập Viết lớp 1.
Mẫu chữ Tập viết hiện hành (Chữ thường).
Vở tập viết Tập 1 và Tập 2 (Nhà xuất bản giáo dục).
Một số sáng kiến có liên quan.
Bó Sinh, ngày 09 tháng 12 năm 2016
TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)

Giàng A Cá



MỤC LỤC
TT
A

Các phần chính
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
01


1

Lí do viết sáng kiến

01

2

Mục tiêu của sáng kiến

02

3

Giới hạn của sáng kiến

03

B


PHẦN NỘI DUNG

04

1

Cơ sở viết sáng kiến

04

2

Thực trạng của vấn đề cần giải quyết

06

3

Các giải pháp thực hiện

09

4

Hiệu quả của sáng kiến

21

C


KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

21

1

Kết luận

21

2

Kiến nghị

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23



×