Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 4 tuổi khám pháp khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.51 KB, 27 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 tuổi
làm quen với khám phá khoa học.
2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển nhận thức.
3.Tác giả:
- Họ và tên: Phạm Thị Dung
- Ngày, tháng, năm sinh: 02/6/1983
-Trình độ chuyên môn: Cao đẳng mầm non
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên, trường Mầm non An Lạc
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phạm Thị Dung
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu tiên: Tại Trường Mầm non An Lạc
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Cơ sở vật chất ở trường,
lớp, các trang thiết bị phục vụ cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáp dục trẻ.
7.Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 9 năm 2015
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

Phạm Thị Dung

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 3 tuổi là độ tuổi xem là
có sự “ bùng nổ” về sự ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá mọi sự vật xung
quanh. Một trong các hoạt động mà giáo viên có thể tạo điều kiện cho trẻ được
thực hiện điều này là hoạt động khám phá khoa học.


Song thực tế hiện nay, việc tổ chức hoạt động này còn nhiều hạn chế, và
chưa được giáo viên thực sự quan tâm đầu tư, tổ chức hoạt động còn đơn điệu,
chưa sáng tạo và hiệu quả mang lại chưa cao, trẻ chưa thực sự hứng thú. Cơ sở
vật chất, môi trường hoạt động của lớp, của trường còn cha đầy đủ. Giáo viên
thường cho đây là một hoạt động khó với trẻ vì cung cấp kiến thức kỹ năng
chính xác nên đòi hỏi giáo viên cần linh hoạt tránh nhàm chán cho trẻ.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
Căn cứ vào tầm quan trọng của bộ môn và thức tế giảng dạy bộ môn của
giáo viên, kết quả trên trẻ chưa tốt. Tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Một số
biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 tuổi làm quen với khám phá khoa
học ” để nghiên cứu và áp dụng từ tháng 9/2014 đền thời điểm tháng 3/2015 tại
lớp mẫu giáo 3-4 tuổi trường mầm non nơi tôi công tác.
Để thực hiện có hiệu quả đề tài tôi nghiên cứu thì đòi hỏi có các điều
kiện sau:
Giáo viên phải có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn trở lên,
có tâm huyết với nghề, không ngừng học tập, nghiên cứu, sáng tạo trong dạy
học. Giáo viên lựa chọn phương pháp và nội dung dạy phải vừa sức với trẻ,
đảm bảo mọi trẻ được tích cực, chủ động khám phá và tham gia các hoạt động
nhận thức đa dạng, cần chú ý phát triển ở trẻ các kĩ năng nhận thức, kĩ năng xã
hội. Cần quan tâm đến việc dạy trẻ cách nghĩ, cách hành động, cách khám phá
môi trường xung quanh hơn là khối lượng kiến thức mà trẻ tiếp thu được.
Tạo môi trường cho trẻ khám phá, trải nghiệm phong phú, đa dạng, mọi
lúc mọi nơi.
2


Nhà trường có sự đầu tư về trang thiết bị, cơ sở vật chất, đồ dùng đồ
chơi.
3. Nội dung sáng kiến:
Các biện pháp được tôi chú trọng nghiên cứu để đổi mới là:

1.Xây dựng m«i trơng học tập cho trẻ phong phú đa dạng, sinh động hấp
dẫn, an toàn, thuận tiện để trẻ tích cực khám phá.
2. Khai thác triệt để tác dụng của góc thiên nhiên
3.Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học
4. Rèn trẻ khám phá khoa học thông qua các hoạt động hàng ngày.
5.Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Qua việc thực hiện một số biện pháp trên tôi đã đạt được kết quả: Bản
thân giáo viên linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động, bên cạnh đó tôi
được trau dồi kiến thức, kĩ năng dạy trẻ khám phá khoa học.
Tạo được môi trường học tập phong phú với nội dung của từng chủ đề,
đồ dùng, đồ chơi được trang bị đầy đủ, hấp dẫn trẻ. Trẻ tham gia hoạt động
khám phá tích cực, hào hứng. Giờ học đạt được hiệu quả cao.
Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ làm
quen với môi trường xung quanh, cùng phối kết hợp với cô giáo tạo một cách
tích cực.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện mở rộng sáng kiến.
Các cấp lãnh đạo cần tạo điều kiện cho giáo viên trong trường được đi
kiến tập, tham quan, dự các lớp tập huấn để giáo viên có cơ hội học hỏi thêm
kinh nghiệm tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.
Tăng cường đầu tư kinh phí, thời gian, đồng thời hướng dẫn, động viên,
khuyến khích giáo viên tích cực nghiên cứu, sáng tạo các hoạt động mới, hấp
dấn trẻ và có hiệu quả để phục vụ cho nội dụng bài giảng thêm sinh động.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề nâng cao trình độ chuyên môn cho
giáo viên về mọi lĩnh vực, đặc biệt hoạt động khám phá khoa học.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ làm quen với khám
phá khoa học là không thể thiếu. Vì nó có tác dụng giáo dục toàn diện về mọi
mặt: ngôn ngữ , đạo đức , trí tuệ , thẩm mỹ, thể lực:
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh là hoạt động thực sự hấp
dẫn, làm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ, mở cho trẻ vào cánh cửa rộng lớn
hơn. Trong các hoạt động khám phá khoa học trẻ được tích cực sử dụng tất cả
các giác quan. Chính vì vậy các cơ quan cảm giác của trẻ phát triển và khả
năng cảm nhận của trẻ nhanh nhạy và chính xác hơn. Trong quá trình khám phá
trẻ phải tiến hành các thao tác trí tuệ như quan sát, so sánh, phán đoán, tư duy,
nhận xét, giải thích…Vì vậy tư duy, ngôn ngữ của trẻ phát triển. Đặc biệt thông
qua các hoạt động trải nghiệm còn góp phần phát triển ở trẻ tính ham hiểu biết,
khả năng ghi nhớ có chủ định, tính tích cực nhận thức làm nền cho sự phát triển
các năng lực hoạt động trí tuệ. Thông qua hoạt động khám phá trẻ thu được
những kinh nghiệm thực tiễn, những kiến thức đơn giản về đặc điểm, tính chất,
các mối liên hệ, sự phát triển các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã
hội. Đây chính là cơ sở cho những kiến thức khoa học sau này trẻ sẽ tiếp thu ở
các cấp học.
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh còn được coi là phương
tiện giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo. Việc khám phá môi trường xung quanh
khơi gợi ở trẻ tình cảm nhân ái, mong muốn quan tâm đến những đối tượng yếu
ớt hơn mình, những đối tượng cần giúp đỡ và bảo vệ, hình thành tính tự tin vào
bản thân. Khám phá thiên nhiên và xã hội giúp trẻ có tâm hồn trong sáng, lòng
nhân ái, tình yêu đối với người thân, bạn bè, kính trọng người lao động…yêu
quý, bảo vệ thiên nhiên. Bước đầu trẻ có lối sống văn minh trong giáo tiếp và
sinh hoạt.
Môi trường xung quanh còn là phương tiện giáo dục thẩm mĩ. Khám phá
môi trường xung quanh giúp trẻ phát hiện ra sự cân đối hài hòa của cái đẹp
trong thiên nhiên và là cơ sở để trẻ tạo ra cái đẹp, có tình yêu đối với cái đẹp.
4



Như vậy có thể nói việc tổ chức cho trẻ khám phá với môi trường xung
quanh là phương tiện không thể thiếu nhằm mục đích phát triển toàn diện cho
trẻ ở trường mầm non. Đặc biệt với trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi vốn hiểu biết còn
ít, khả năng nhận thức của trẻ còn hạn chế, các kĩ năng tư duy còn non nớt, khả
năng tập trung của trẻ còn hạn chế. Vì thế để khám phá tìm tòi được thế giới
xung quanh trẻ cần dựa vào năng lực nhận thức, kĩ năng tư duy, vốn ngôn ngữ
ít ỏi của bản thân trẻ và đặc biệt là dựa vào sự hướng dẫn, tổ chức của giáo
viên. Vì thế người giáo viên có một vai trò vô cùng quan trong trong việc cho
trẻ khám phá khoa học để góp phần phát triển toàn diện cho trẻ.
Song thực tế hiện nay, việc tổ chức cho trẻ 3-4 tuổi khám phá về môi
trường xung quanh còn nhiều hạn chế, và chưa được giáo viên thực sự quan
tâm đầu tư, tổ chức hoạt động còn đơn điệu, chưa sáng tạo và hiệu quả mang lại
chưa cao. Nhận thức rõ tầm quan trọng của bộ môn và căn cứ vào kết qủa trên
trẻ ở trường, căn cứ vào cơ sở vật chất của lớp, của trường, của địa phương, và
sự quan tâm ủng hộ của các ban ngành, phụ huynh nên tôi đã mạnh dạn nghiên
cứu tìm hiểu “một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 tuổi làm quen
với khám phá khoa học” và việc áp dụng đó đã mang lại hiệu quả cao, trẻ
hứng thú, tích cực hoạt động.
2. Cơ sở lý luận
Theo từ điển tiếng việt “ Khoa học là hệ thống tri thức tích lũy trong
quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ảnh những quy luật
khách quan của thế giới bên ngoài cũng như của các hoạt động tinh thần của
con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực”. Như vậy
kiến thức khoa học là những kiến thức chính xác ở mức độ cao, còn nghiên cứu
khoa học được hiểu là hoạt động tìm tòi, khám phá của loài người để phát minh
ra những tri thức có thể giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên và trong
xã hội, trong chính con người và cải tạo thế giới.
Ở lứa tuổi Mần non, khoa học là những hiểu biết sơ khai về thế giới

khách quan mà trẻ phát hiện, tích lũy được trong các hoạt động tìm kiếm, khám
phá các sự vật, hiện tượng xung quanh. Đây có thể chưa phải là những kiến
5


thức chính xác ở mức độ cao, song chúng rất phong phú, thỏa mãn trí tò mò của
trẻ, góp phần làm giàu vốn kinh nghiệm để trẻ có thể giải quyết các tình huống
đơn giản xảy ra trong cuộc sống. Kết quả của hoạt động khám phá môi trường
xung quanh là trẻ thu được một lượng kiến thức đơn giản và quan trọng hơn là
phát triển ở trẻ các năng lực cơ bản như quan sát, tư duy, logic, giải quyết vấn
đề, hợp tác…trẻ học được các kĩ năng như: quan sát, so sánh, phân loại, đo
lường, chuyền tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận.
Giáo dục mầm non bậc học đầu tiên - bậc học nền tảng. Mục tiêu của
giáo dục mầm non là hình thành cho trẻ những cơ sơ ban đầu về nhân cách con
người mới, phát triển hài hòa cân đối về mọi mặt. Chính vì thế người lớn, hay
các nhà làm công tác giáo dục cần phải có những tác động hay sự định hướng
đúng để trẻ có cái nhìn đúng đắn, những thói quen và những hành vi tốt được
bộc lộ.
Đặc biệt trẻ 3-4 tuổi đang có những bước phát triển mạnh mẽ về ngôn
ngữ “ trẻ lên ba cả nhà học nói”, nhận thức, tình cảm…Thế giới xung quanh
thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ, hấp dẫn, và còn có biết bao điều
lạ, khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn khám phá mà trẻ chưa thể tự mình
thực hiện được. Trách nhiệm cao cả nặng nề ấy tất cả thuộc về cô giáo mầm
non. Sự nhạy cảm và có trách nhiệm cao là yêu cầu không thể thiếu trong công
tác chăm sóc, giáo dục trẻ, cô giáo phải nhạy bén, kịp thời, có năng lực, có tính
chủ động sáng tạo.
3. Thực trạng vấn đề.
Để thực hiện được đề tài này thì việc điều tra thực trạng là không thể
thiếu. Vì qua điều tra thực trạng giáo viên mới nắm được những thuận lợi, khó
khăn để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. Tôi đã tiến hành điều tra thực trạng và

nắm được những thuận lợi và khó khăn cơ bản như sau:
3.1. Thuận lợi :
Trường có Ban nghiệp vụ luôn đi sâu, đi sát bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ cho giáo viên.
6


Số trẻ đồng đều về độ tuổi, trẻ ngoan và có sự phát triển tương đối đồng
đều về các mặt.
Tỷ lệ chuyên chăm cao.
Lớp có tương đối đầy đủ đồ dùng, phương tiện phục vụ cho dạy và học.
Giáo viên: 2 cô đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn
nghiệp vụ, có lòng yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao trình độ chuyên
môn .
Ban giám hiệu, chính quyền đia phương, phụ huynh luôn động viện, tạo
điều kiện và phối kết hợp thực hiện tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ.
3.2 Khó khăn :
Sỹ số trẻ ở lớp tương đối đông (34 cháu/lớp).
Môi trường để trẻ trải nghiệm thực tế còn hạn chế: những vật mẫu,
những con vật thật, đồ vật ...
Góc nhiên nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú, cô chưa
tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm ở đó.
Đa số phụ huynh quan tâm và phối hợp tốt với cô giáo trong công tác
chăm sóc, giáo dục trẻ. Tuy nhiên chưa có nhiều phương pháp giáo dục trẻ
đúng cách.
Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn nghèo nàn, đồ chơi của trẻ chưa đủ theo quy
định, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát. Các đồ dùng, đồ
chơi chưa mang tính động để gây hứng thú cho trẻ và kích thích trẻ tìm tòi
khám phá.

Trẻ chưa thực sự hứng thú hoặc sự hứng thú của trẻ không kéo dài suốt tiết
học mà chỉ kéo dài được 1,2 đối tượng, các kĩ năng khám phá của trẻ còn chưa
tốt. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên, biểu tượng về thế giới xung quanh
chưa vững chắc. Khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học, tôi đã theo dõi,
đánh giá từng cá nhân trẻ để điều tra kết quả. Tôi đã đánh giá sự hứng thú, khả
năng nắm được yêu cầu của hoạt động khám phá trên lớp tôi với tổng số cháu
là 34. Kết quả đánh giá qua bảng thống kê sau:
7


( Thời điểm điều tra tháng 9/2014)

Tên lớp

Lớp 3
tuổi B

Kết quả đánh giá

Số
lượng

34

Giỏi

Khá

Đạt yêu
cầu


Chưa đạt
yêu cầu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

5

14.7

7

20.6

12


35.3

10

29.4

Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả trên tôi nhận thấy còn rất nhiều trẻ xếp ở
loại đạt yêu cầu và chưa đạt yêu cầu. Rà soát lại các hoạt động mà tôi tổ chức
trong các giờ khám phá khoa học tôi thấy phương pháp mà tôi sử dụng để tổ
chức cho trẻ khám phá khoa học chủ yếu là các phương pháp trực quan và dùng
lời nên việc truyền thụ những kiến thức khoa học trìu tượng cho trẻ chưa có
hiệu quả cao, môi trường cho trẻ trải nghiệm còn ít. Tôi luôn băn khoăn suy
nghĩ tìm nhiều biện pháp để tiết học khám phá khoa học đạt hiệu quả cao hơn.
Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm ra
một số biện pháp thực hiện và thấy có hiệu quả cao.

8


4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO TRẺ
LÀM QUEN VỚI KHÁM PHÁ KHOA HỌC
Muốn thực hiện tốt đề tài này, tôi đã sử dụng một số biện pháp sau :
1.Xây dựng môi trường học tập cho trẻ phong phú đa dạng, sinh động
hấp dẫn, an toàn, thuận tiện để trẻ tích cực khám phá.
2. Khai thác triệt để tác dụng của góc thiên nhiên
3. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học
4. Rèn trẻ khám phá khoa học thông qua các hoạt động hàng ngày.
5.Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất
Từ những biện pháp trên tôi cụ thể như sau:
4.1 Xây dựng môi trường học tập cho trẻ phong phú đa dạng, sinh

động hấp dẫn, an toàn, thuận tiện để trẻ tích cực khám phá.
Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mần non là
thực sựcần thiết và quan trọng. Nó được ví như người giáo viên thứ 2 trong
công tác tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, và
hoạt động của trẻ, thông qua đó nhân cách trẻ được hình thành và phát triển
toàn diện. Đặc biệt với trẻ 3 - 4 tuổi khi tư duy hình tượng đang phát triển
mạnh mẽ thì đồ chơi không thể thiếu đối với sự phát triển toàn diện của trẻ nói
chung và hoạt động khám phá khoa học nói riêng. Môi trường học tập phong
phú, đa dạng, sinh động sẽ kích thích tính tò mò, ham hiểu biết, tìm hiểu, khám
phá ở trẻ.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của việc xây dựng môi trường học tập cho trẻ
tôi đã cố gắng xây dựng môi trường học tập cho trẻ phong phú đa dạng, sinh
động hấp dẫn, an toàn, thuận tiện để trẻ tích cực khám phá bằng những việc
làm cụ thể như:
Căn cứ vào diện tích lớp học tôi sắp xếp các góc chơi, giá đồ chơi phù
hợp, an toàn, thuận tiện cho trẻ hoạt động.
Để các góc chơi, các giá đồ chơi sinh động hấp dẫn đối với trẻ thì đồ
chơi phải đảm bảo đủ về số lượng theo qui định, phong phú về chủng loại, chất
liệu, đảm bảo về mặt thẩm mĩ. Tuy nhiên đồ dùng đồ chơi trong lớp tôi còn
9


chưa nhiều, chủ yếu là đồ dùng đồ chơi cấp phát. Trước yêu cầu thực tế trong
quá trình giảng môn khám phá khoa học về môi trường xung quanh, tôi luôn
luôn băn khoăn trăn trở muốn giờ học đạt kết quả cao thì yêu cầu giáo viên phải
có đủ đồ dùng học tập, và tạo ra môi trường học tập của trẻ thật tốt, từ đó tôi
đặt ra kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho giảng dạy bằng các biện pháp
sau:
Bản thân tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương như:
vải vụn, cọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm đồ chơi. Sưu tầm

các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò ... để bổ sung đồ chơi của trẻ cho trẻ làm
thí nghiệm. Tận dụng các hình ảnh ở đốc lịch, bìa ,hoạ báo, ảnh cũ ... Vừa trang
trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi. Sau một thời gian làm đồ dùng đồ chơi tôi đã
có nhiều đồ dùng đồ chơi theo nội dung khám phá khoa học phù hợp với chủ
đề, độ tuổi, trẻ rất hứng thú.
Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà
trường trang bị thêm thiết bị, đồ dùng dạy học cho trẻ như: Ti vi, máy tình có
kết nối mạng Internet, tranh ảnh, lô tô, và một số mô hình mô phỏng phục vụ
cho hoạt động khám phá.
Tôi tích cực củng cố các góc tuyên truyền trong lớp làm nổi bật đồ dùng
về khám phá khoa học như góc tuyên truyền “bé khám phá gì chủ đề này” tôi
đã lựa chọn những hình ảnh đẹp, sinh động, với nhiều chất kiệu khác nhau, gần
gũi quen thuộc phù hợp với chủ đề cho trẻ khám phá trải nghiệm trong các giờ
chơi. Và thay đổi nội dung cho phù hợp với từng chủ đề. Ở mảng trang trí “Chủ
đề bé đang học”, tôi sưu tầm những hình ảnh thật ngộ ngĩnh đáng yêu, có nội
dung giáo dục, màu sắc đẹp, bố cục hợp lí, đặt tên thật ngộ ngĩnh và phù hợp
với tâm lí trẻ, tranh trí ở vị trí chính để trẻ dễ nhìn thấy.
Ở các góc tùy theo tùy theo từng chủ điểm mà tôi có thể chuẩn bị mảng
kiến thức và các đồ dùng nguyên liệu phù hợp để trang trí phù hợp với nội dung
của góc đó. Ví dụ: giấy màu, tranh ảnh, trang trí, sáp màu, màu nước, đất nặn,
vải vụn, len sợi, lá cây…Những nguyên liệu này tôi sắp xếp ở góc tạo hình và
luôn sắp xếp ở trạng thái mở giúp trẻ dễ lấy, dễ sử dụng khi vào hoạt động…
10


Hay góc học tập, góc sách tôi bố trí các sách có hình vẽ với nội dung phù hợp
với chủ điểm, tôi để vừa tầm với của trẻ để trẻ dễ xem. Các tranh lô tô được
phân loại để vào các giá, các ô dẽ lấy, dễ tìm, như lô tô động vật để vào một ô,
lô tô đồ dùng gia đình để vào một ô.Đối với tranh ảnh đều có kí hiệu tương ứng
để trẻ dễ nhận biết.

Với các bậc phụ huynh vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh, truyện, đặc
biệt là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả,... Sưu tầm những
câu ca dao , tục ngữ ,đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về môi trường
xung quanh của trẻ .
Tôi giúp đỡ để cho trẻ làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật ,
cỏ cây ,hoa lá , hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ ,các sản
phẩm tạo hình ,tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu
biết phong phú của trẻ về khám phá khoa học.
Với những đồ dùng, đồ chơi được cấp phát và tự làm khi tôi đưa vào sử
dụng trong tiết dạỵ và các trò chơi khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hứng thú
học, trẻ hiểu biết nhiều, thích qua sát, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra,quan
sát và nhận xét, rất rõ ràng, rành mạch , ngôn ngữ rất phát triển , trẻ thuộc rất
nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa,các
loại quả ... Tư duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn .
4.2 Khai thác triệt để tác dụng của góc thiên nhiên
Ngoài việc tạo môi trường trong lớp học sinh động, hấp dẫn tôi chú ý
đên xây dựng góc bé với thiên nhiên. Bởi góc thiên nhiên là khu vực kích thích
trẻ thực hiện các hoạt động khám phá khoa học và làm những thí nghiệm đơn
giản để làm giàu thêm hiểu biết của trẻ về sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.
Tôi dùng nhiều chậu nhỏ, vỏ chai nước đã trồng nhiều loại cây khác nhau, cây
leo, cây cảnh, cây hoa, cây trồng trong đât, cây trồng trong nước, tôi cắt tỉa đẹp
mắt. Tôi còn bố trí một số đồ dùng, đồ chơi ở đó để trẻ làm thí nghiệm phù hợp
với từng chủ đề, như:
- Pha màu
- Vật chìm vật nổi
11


- Đường tan hay sỏi tan trong nước?
- Cây xanh có những bộ phận nào?

- Trong hạt có gì?
- Gieo hạt:
- Sự phát triển của cây từ hạt:
- Cây cần gì để lớn lên và phát triển?
- Cỏ có cần ánh sáng không?
- Bóng cây thay đổi:
- Có gì trong chai không?
- Bé biết những gì về nước? Nước có hình dạng thế nào? Tác dụng của
nước?
Ví dụ:
* Khi tìm hiểu “cây xanh” có thể tạo các hoạt động cho trẻ tại góc thiên
nhiên.
- Gạch, nối, khoanh những hình ảnh thể hiện những điều kiện cần cho cây
phát triển.
- Quan sát cây xanh quanh trường, phát hiện ra sự thay đổi của chúng.
- Quan sát người lớn trồng cây, chăm sóc cây.
- Thực hành chăm sóc cây: gieo hạt, tưới nước, nhặt lá, bắt sâu…
- Làm đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên như lá khô, vỏ quả khô, vỏ
cây….
* Khi cho trẻ tìm hiểu về nước, tôi có thể tạo các hoạt động cho trẻ tại
góc thiên nhiên.
- Chơi, thử nghiệm với nước để cảm nhận một vài đặc điểm , tính chất của
nước. Chơi vật nổi, vật chìm. Nước có màu, có mùi không ?Chơi đong nước,
pha màu...
- Trò chuyện, thảo luận về đặc điểm, tính chất, lợi ích của nước với đời
sống con người, con vật, cây cối.
- Thảo luận về các nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước.Từ đó trẻ rất
thích thú hoạt động tại góc thiên nhiên và không còn chán nản khi ra góc thiên
12



nhiên chơi như trước nữa. Qua đó trẻ tích lũy rất nhiều kiến thức bổ xung cho
tiết học, tiết học trở lên hiệu quả hơn, sôi nổi hơn.
4.3 Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học
Đây là hình thức chủ đạo để củng cố , hệ thống hoá , khái quát hoá, mở rộng
kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho trẻ. Nhưng hoạt động này dẽ gây cho trẻ sự
gò bó, ép buộc.Căn cứ vào nội dung của từng đề tài, căn cứ vào cấu trúc một
giờ học tôi đã sử dụng đa dạng phong phú các phương pháp dạy học như: quan
sát, sử dụng phương tiện trực quan, đàm thoại, truyện kể, thơ ca, câu đố, trò
chơi, mô hình hóa…Ví dụ tôi có thể sử dụng phương pháp dùng truyện kể, câu
đố, thơ ca vào việc gây hứng thú nhăm thu hút và kích thích sự tập chung chú ý
của trẻ. Tôi cũng có thể sử dụng phương pháp này vào việc củng cố, mở rộng
kiến thức, phát triển ngôn ngữ và giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn. Sau khi
gây hứng thú tôi tiến hành tổ chức cho trẻ quan sát. Việc tiến hành cho trẻ quan
sát đạt hiệu quả trược hết tôi phải lập kế hoạch quan sát. Trong kế hoạch tôi đã
thể hiện rõ mục đích, nội dung, đối tượng quan sát, các bước tổ chức quan sát.
Ví dụ khi cho trẻ quan sát con cá vàng. Tôi cho trẻ khám phá màu sắc, cấu tạo
ngoài(đầu, mình, đuôi, vây, vẩy, mang và chức năng của chúng), vận động,
thức ăn của chúng. Ngoài ra tôi rèn luyện cho trẻ khả năng ghi nhớ có chủ định,
sử dụng phối hợp các giác quan, phán đoán, nhận xét, giải quyết các tình huống
có vấn đề.
Đối tượng quan sát tôi lựa chọn phải gần gũi, quen thuộc, tiêu biểu, nổi
bật, và đảm bảo thẩm mĩ. Ngoài đối tượng quan sát tôi chuẩn bị các phương
tiện để phục vụ quan sát. Ví dụ quan sát con cá vàng phải chuẩn bị bể cá, vợt,
thức ăn.
Không gian quan sát: Tùy thuộc vào từng đối tượng mà tôi lựa chọn vị trí
cho trẻ quan sát có thể đứng hoạc ngồi, ngồi xung quanh hay ngồi hình chữ u,
nhóm nhỏ, hay nhóm lớn…sao cho tạo ra được khoảng không gian tối ưu cho
việc tiếp xúc của trẻ với đối tượng quan sát. Bởi lẽ việc tri giác các sự vật, hiện
tượng xung quanh chỉ có thể xảy ra thông qua những tiếp xúc trực tiếp. Trẻ

phải nhìn thấy đối tượng và tất cả những gì diến ra với đối tượng, nghe thấy âm
13


thanh phát ra từ đối tượng, có thể ngửi thấy mùi, sờ, cầm, nắm, để cảm nhận
hình dạng, độ cứng mềm, nhẵn nhụi hay sần sùi, của đối tượng.
Khi tiến hành quan sát tôi luôn luôn chú ý gây hứng thú cho trẻ bằng các
thủ thuật gây bất ngờ, các đồ chơi, tình huống chơi. Khi cho trẻ quan sát tôi
giao nhiệm vụ cho trẻ. Sau đó cho trẻ tự quan sát, trao đổi, bộc lộ cảm xúc,
thông tin với nhau, nhưng tôi cũng luôn hướng sự tập trung chú ý của trẻ và đặt
câu hỏi về các đặc điểm mà trẻ cần phát hiện. Ví dụ: Các con hãy nhìn thật kĩ
xem con cá vàng này nó như thế nào nhỉ? Nó có những gì? Nó dùng vây, đuôi
để làm gì? Mồm nó để làm gì?. Trong khi cho trẻ quan sát tôi cũng đưa ra các
tình huồng có vấn đề để trẻ suy nghĩ và tìm cách giải quyết và duy trì sự hứng
thú, chú ý của trẻ vào đối tượng. Ví dụ: Không biết con cá vàng này thích ăn gì
nhất nhỉ? Làm thế nào để biết bây giờ? Sau đó tôi cho trẻ trải nghiệm cho cá
ăn?( Khi chuẩn bị tôi chuẩn bị con cá ấy phải đói). Trẻ được tự tay mình cho cá
ăn và xem cá ăn cái gì thì làm cho quá trình quan sát trở lên hấp dẫn, sinh động
và điều quan trọng là trẻ nhận thức được đặc điểm của đối tượng một các dễ
dàng, sâu sắc và chính xác, giờ học nhẹ nhàng.
Để giảm bớt căng thẳng, tăng cường khả năng quan sát cho trẻ tôi cho trẻ
thực hiện một số hành động và vận động đơn giản nhằm mô phỏng đối tượng
quan sát. Ví dụ tôi cho trẻ dùng tay hoặc miệng mô phỏng động tác đớp mồi
của con cá, dùng tay mô phỏng động tác bơi, ngoi lên lặn xuống của con cá.
Trong qua trình trẻ quan sát tôi luôn luôn kết hợp khen ngợi trẻ đúng lúc, nâng
đỡ, duy trì hứng thú của trẻ. Thời gian tiến hành quan sát tôi cũng không kéo
quá dài, tránh gây mệt mỏi cho trẻ. Thời gian cho mỗi lần quan sát tôi chỉ kéo
dài từ 3 đến 10 phút.
Phương tiện trực quan để cho trẻ cho trẻ khám phá khoa học là phương
pháp quan trọng và nó được sử dụng rộng rãi, vì nó phù hợp với đặc điểm nhận

thức và tư duy của trẻ. Vi vậy khi tổ chức cho trẻ khám phá khoa học về môi
trường xung quanh tôi đã sử dụng đa dạng các tranh ảnh, mô hình, sách, băng
14


đĩa có kích thước, chất liệu , nội dung khác nhau . Tranh, ảnh tôi chọn có kích
thước lớn, nội dung đơn giản, đẹp, sinh động và phản ánh trung thực hiện thực
khách quan, đặc biệt tôi chú ý lựa chọn những vật mẫu thật, những hình ảnh
động để kích thích sự hững thú cho trẻ. Khi cho trẻ xem tranh ảnh, băng đĩa,
sách tôi căn cứ vào mục đích của hoạt động khám phá và nội dung của tranh
ảnh, mô hình để tôi đặt câu hỏi cho phù hợp. Tôi tổ chưc cho trẻ xem tranh ảnh,
sách, đĩa trong các thời điểm thích hợp.
Trong khi trẻ quan sát, xem đồ dùng trực quan tôi đã kết hợp với phương
pháp đàm thoại nhằm gây hứng thú, kích thích sự tập trung chú ý, tri giác tư
duy của trẻ, phát triển khả năng suy luận nhận xét cho trẻ. Tôi còn kết hợp đàm
thoại với đọc thơ, kể truyện, thí nghiệm để gây sự tò mò, nhu cầu khám phá và
tạo cơ hội cho trẻ nói lên cảm nhận, suy nghĩ của mình.Để trẻ tiến hàng đàm
thoại được tốt tôi đã chú ý rất lớn tới việc xây dựng hệ thống câu hỏi. Tôi dựa
vào mục đích của việc khám phá, nhiệm vụ cụ thể của mỗi hoạt động tôi chuẩn
bị câu hỏi cho phù hợp. Để kích thích sự chú ý của trẻ tôi thường đặt câu hỏi
nêu vấn đề. Đó là những câu hỏi về đặc điểm dấu hiệu của sự vật mà trẻ chưa
biết rõ.Ví dụ trước khi cho trẻ quan sát con cá tôi thường hỏi trẻ một trong số
các câu hỏi: “ Các con biết gì về con cá rôi?, Cá có kêu được không? Mắt của
cá có giống mắt của chúng mình không?”. Để trả lời được các câu hỏi trên yêu
cầu trẻ phải tích cực quan sát. Để gây sự chú ý của trẻ vào khám phá các đặ
điểm, dấu hiệu đặc trưng của đối tượng, đồng thời kích thích hoạt động của các
giác quan tôi đưa ra những câu hỏi gợi mở như: Con thấy nó như thế nào? Hay
“ Con thấy nó ra sao?”, khi trẻ gặp khó khăn tôi có thể gợi mở hơn: “ Nó nhẵn
hay sần sùi?”, “ Con ngửi thây nó có thơm không”…Và khi hỏi tôi phải cố
gắng hỏi bằng giọng truyền cảm, thái độ trìu mến và tôi cùng chú ý động viên

khen gợi trẻ, và gợi ý mỗi khi trẻ gặp khó khăn. Tôi luôn khuyến khích trẻ nói
lên những suy nghĩ của bản thân, đặc biệt khen ngợi những trẻ có ý tưởng sáng
tạo, đọc đáo. Tôi cũng kết hợp sử dụng thơ, ca dao tục ngữ để khắc sâu kiến
thức cho trẻ. Ví dụ khi khám phá về “con voi” sau khi trẻ quan sát, trò chuyện,
tìm hiểu về con voi xong tôi cho trẻ đọc bài “vè con voi”…
15


Tôi cũng thường sử dụng các trò chơi một cách đa dạng và phong phú
nhằm tạo hứng thú cho trẻ, giúp trẻ không cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi đồng
thời khắc sâu kiến thức cho trẻ. Trò chơi tôi sử dụng gồm trò chơi học tập, trò
chơi vận động, trò chơi sáng tạo. Tôi cũng tổ chức đa dạng các thí nghiêm
trong các tiệt học, trong sinh hoạt hàng ngày, trong hoạt động ngoài trời để tạo
hứng thú và nhu cầu nhận thức của trẻ. Ví dụ: thí nghiệm hạt nảy mầm, cây cần
gì để phát triển, đường tan hay sỏi tan trong nước, không khí có ở đâu, không
khí có tác dụng gì với con người….Sau mỗi lần làm thí nghiệm tôi thấy trẻ
hứng thú và tiếp thu kiến thức dễ dàng và nhớ lâu hơn.
Hình thức tổ chức một hoạt động khám phá nó có vai trò quan trong tới
việc kích thích hứng thú của trẻ. Vì thế căn cứ vào từng đối tượng khám phá
mà tôi lựa chọn hình thức phù hơp. Đối với những đối tượng có thể tri giác
được, tôi cho thảo luận nhóm lớn, có khi nhóm nhỏ, có khi là 2 bạn ngồi cạnh,
chơi trò chơi. Đối với những đối tượng không trực tiếp nhìn thấy, sờ thấy trải
nghiêm, thí nghiệm, trò chơi. Và trong một tiết học tôi có thể tổ chức đan xen
nhiều hình thức để tránh được sự nhàm chám, tạo hứng thú cho trẻ. Làm như
vậy tôi thấy trẻ hứng thú lâu, giờ học nhẹ nhàng không gò bó. Đối với những sự
vật hiện tượng không thể nhìn thấy, sờ thấy tôi tổ chức cho trẻ tiến hành trải
nghiệm, làm thì nghiệm. Ví dụ khi cho trẻ tìm hiểu về “ gió có từ đâu” tôi tắt
hết quạt, bật nhạc cho trẻ nhảy, một lúc cho trẻ dừng lại và hỏi trẻ cảm nhận về
cơ thể trẻ lúc này như thế nào? Nóng muốn cho cơ thể mát thì phải làm gì? Vậy
gió con thấy có từ đâu?( Từ quạt điện, quạt mo – gió tự tạo). Tôi lại làm thí

nghiệp treo chuông gió ở cửa sổ? Vì sao chuông gió lại kêu? Gió đó là ở đâu?Gió trời – Gió thiên nhiên.....Những trải nghiệm này trẻ rất hứng thú và lĩnh hội
kiến thức nhẹ nhàng, sâu sắc.
Để gây hứng thú cho trẻ trong suốt giờ học tôi luôn chú ý đến bước giới
thiệu chuyển tiếp giữa các đối tượng. Tôi sử dụng phong phú đa dạng hình thức
giới thiệu đối tượng trong một giờ học, khi là khám phá hộp quà, khi dùng thơ,
câu đồ, bài hát, mô phỏng hành động, hoạt đông, trò chơi,…
16


Việc củng cố mở rộng kiến thức cho trẻ phải đi đôi với việc rèn luyện kỹ
năng: Kỹ năng hoạt động trí tuệ ( so sánh, phán đoán, giải quyết vấn đề…) Kỹ
năng xã hội ( giao tiếp, hợp tác, thoả thuận trong nhóm bạn bè…). Tôi luôn
luôn chú ý rèn các kĩ năng này khi tổ chức các hoạt động khám phá, rèn mọi
lúc mọi nơi.
( Có giáo án minh họa).
4. Rèn trẻ khám phá khoa học thông qua các hoạt động hàng ngày.
Ngoài việc rèn trẻ khám phá khoa học ở hoạt động học có chủ đích thì
hoạt động khám phá khoa học có thể rèn trẻ trong các hoạt động hàng ngày
như:
* Dạo chơi:
Với các nội dung về: Động vật , thực vật , phương tiện giao thông, thiên
nhiên vô sinh, hiện tượng thiên nhiên hay mét số hoạt động của con người (Lao
động của người lớn trong trường MN, công việc của công nhân vệ sinh môi
trường , của thợ xây, của người bán hàng….) trong các buổi dạo chơi, cô giáo
giúp trẻ quan sát và đàm thoại nhằm khơi gợi hứng thú, kích thích tính tò mò,
ham hiểu biết của trẻ, đồng thời cung cấp kiến thức cho trẻ về đối tượng .
- Cần cho trẻ phát hiện thấy sự đa dạng, phong phú và các mối liên hệ ,
tác động qua lại ,ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong môi
trường. Khi cho trẻ quan sát giáo viên cần lưu ý liên hệ với những kiến thức
kinh nghiệm đã có của trẻ, khơi gợi ở trẻ những tình cảm tích cực, thái độ đúng

đắn với môi trường.
- Với hình thức dạo chơi , ngoài việc cho trẻ quan sát cô giáo còn có thể sử
dụng phương pháp thí nghiệm . Ví dụ như tổ chức các thí nghiệm : cây cần
nước, hạt nảy mầm, các con vật ăn gì? Nước bốc hơi như thế nào, vật nổi- vật
chìm…
* Sinh hoạt hằng ngày:
Trong hoạt động giáo dục, giáo viên tích cực trò chuyện, thảo luận trao đổi
kết hợp xem tranh ảnh, băng hình với từng trẻ, nhóm trẻ, cả lớp hoặc để trẻ tự
17


trò chuyện với nhau. Trong vệ sinh chăm sóc giáo viên có thể đọc thơ, truyện
để thu hút trẻ vào công việc như chuẩn bị bàn ăn, ngủ, dọn dẹp,….
*Tham quan:
Với các nội dung về xã hội như hoạt động, lao động của con người, các công
trình công cộng hay về thế giới động vật, thực vật, lễ hội của đia phương , giáo
viên có thể tổ chức đi tham quan . Hình thức thăm quan thường được tổ chức
đặc biệt có ý nghĩa đối với trẻ mẫu giáo .Tuỳ điều kiện cụ thể của từng trường
và mục đích tích luỹ kiến thức về các đối tượng khác nhau, giáo viên có thể cho
trẻ tham quan ở gần hay xa trường Mầm non trong khoảng thời gian thích hợp.
Trong khi thăm quan giáo viên có thể tổ chức đàm thoại , thảo luận , trò
chuyện về nội dung của buổi tham quan hoặc sau đó một , hai ngày.
*Tổ chức hoạt động ở các góc:
Giáo viên cần tổ chức tốt môi trường sinh hoạt cho trẻ trong các góc theo
những nội dung cần được tích luỹ như:
+ Cung cấp những điều kiện vật chất cho các hoạt động.
+ Trang trí các mảng tường , các góc theo nội dung giáo dục.
Hướng trẻ tự tìm tòi , khám phá trao đổi, chia sẻ và tích cực hoạt động trên
cơ sở hứng thú và khả năng của trẻ ở tất cả các góc.
Trong thời gian trẻ chơi ở các góc, giáo viên có thể lên kế hoạch làm việc

với một số cá nhân trẻ : Cùng xem tranh ảnh, cùng đọc truyện , đọc thơ, cùng
trao đổi , trò chuyện nhằm cung cấp ,tích luỹ kiến thức, cho trẻ .Những trẻ nhút
nhát, khó khăn trong việc hoà nhập vào tập thể, thường có sự giúp đỡ của giáo
viên.
4.5 Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất
Sự hình thành nhân cách của trẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi
giáo dục gia đình và nhà trường. Do vậy việc phối hợp giữa cô giáo và phụ
huynh là rất cần thiết. Nó tạo được sự thống nhất trong công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ, tránh được tình trạng “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Đặc biệt
trong hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh thì sự phối hợp
giữa cô giáo và phụ huynh góp phần mang lại hiệu quả thiêt thực. Phụ huynh
18


có thể giúp cô giáo cho trẻ tìm hiểu trước những đối tượng xung quanh, củng
cố, khắc sâu lại những đối tượng đã tìm hiểu, phụ huynh còn có thể cung cấp
nguyên vật liệu làm đồ dùng phục vụ cho hoạt động của trẻ….Cô giáo cung cấp
cho phụ huynh phương pháp dạy con khám phá một đối tượng, hoặc củng cố
kiến thức về một đối tượng…. Chính vì vậy mà tôi luôn luôn chú ý phối kết
hợp vơi phụ huynh để tổ chức tốt hoạt động khám phá cho trẻ.
Tôi làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh những nội dung
trẻ thực hiện hoạt động khám phá khoa học thông qua bảng tuyên tuyền của
lớp, của trường. Trong bảng tuyên truyền “ Tuần này bé học gì” ngoài việc
tuyên truyền về nội dung học trong tuần, tôi cùng sưu tầm tranh ảnh phù hợp
với chủ đề cho phụ huynh biết, trên cơ sở đó phụ huynh cho trẻ tìm hiểu ở nhà.
Trong bảng tuyên truyền tôi cũng đưa một số hình ảnh hoạt động của phụ
huynh trong việc phối kết hợp với cô giáo dạy trẻ khám phá khoa học.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ về tình hình
học tập của trẻ, đặc biệt với những trẻ nhút nhát, nhận thức chậm để phụ huynh
củng cố, rèn thêm cho trẻ thêm cho trẻ khi trẻ về nhà. Động viên các cháu

không chỉ biết bảo vệ môi trường xung quanh mà còn giữ gìn, giúp đỡ cha mẹ
những công việc vừa sức của mình
Vào các buổi họp phụ huynh định kì tôi cũng làm tốt công tác tuyên truyền
để phụ huynh hiểu được tác dụng của việc mở rộng thêm hiểu biết cho con,
cũng như một số phương pháp giúp trẻ khám phá khoa học, để phụ huynh dạy
con ở nhà.
Bằng những việc làm thiết thực, tôi đã được các bậc phụ huynh ủng hộ
nhiệt tình trong việc chuẩn bị nguyên vật liệu để khám phá khoa học, trẻ có
hiểu biết rông, vững chắc về môi trường xung quanh.
5. Kết quả đạt được
Từ những biện pháp đã áp dụng, tôi nhận thấy chất lượng khám phá khoa
học của trẻ được nâng cao rõ rệt, môi trường học tập của trẻ đẹp, sinh động,
hấp dẫn, an toàn, thuận tiện, đồ dùng đồ chơi phong phú, đa dạng. Góc thiên
nhiên trẻ hứng thú chơi. Trong giờ học trẻ hứng thú, tích cực hoạt động, các
19


mục tiêu đặt ra đều đạt được, kĩ năng quan sát, nhận xét của trẻ thành thạo hơn,
trẻ lĩnh hội kiến thức tốt hơn. Phụ huynh phấn khởi, tích cực kết hợp với cô
giáo chăm sóc và giáo dục trẻ.
Bản thân tôi, tôi đã nắm chắc được phương pháp, sáng tạo hơn khi tổ
chức hoạt động khám phá, tôi thấy mình tự tin hơn trong công tác chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ.
Theo dõi đánh giá trẻ sau mỗi hoạt động khám phá tôi thu được kết quả
sau:
Kết quả thể hiện qua bảng so sánh đối chứng:
Kết quả đánh giá trên bảng thống kê ( 2/2015)
Tên lớp
Lớp 3
tuổi B

(tháng
9/2014)
Lớp 3
tuổi B
(tháng
2/2015)

Số
lượng

34

34

Kết quả đánh giá
Đạt yêu
Khá
cầu

Giỏi

Chưa đạt
yêu cầu

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

5

14.7

7

20.6

12

35.3

10

29.4

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

10

29.4

16

40.1

6

17.6

2

5.9

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Qua thực tế áp dụng các giải pháp trên vào giảng dạy, tôi thấy để đề tài

nghiên cứu của tôi được nhân rộng cần có những điều kiện sau:
Bản thân giáo viên phải có trình độ chuẩn và trên chuẩn, nắm chắc nội
dung chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nói chung, khám phá khoa học nói
riêng. Giáo viên phải cần mẫn, chăm chỉ luôn luôn tìm tòi sáng tạo trong
phương pháp giảng dạy.Môi trường học tập cho trẻ phải hấp dẫn, sinh động.
Nhà trường có sự đầu tư về có sở vật chất cho trường, cho lớp đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng.
Ban giám hiệu, phụ huynh quan tâm động viên giúp đỡ về mọi mặt.
Qua thực hiện đề tài tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
20


Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ, có năng lực sư phạm, nắm chắc
chuyên môn, có sự hiểu biết về kỹ năng dạy trẻ làm quen với khám phá khoa
học. Có sự linh hoạt sáng tạo trong mỗi hoạt động, luôn có sự đổi mới trong
phương pháp dạy trẻ.
Thường xuyên rèn luyện bản thân, kỹ năng dạy, thao tác, rèn luyện giọng
nói
Đồ dùng dạy trẻ phong phú sáng tạo hấp dẫn với trẻ .
Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh .
Luôn tạo được môi trường học mà chơi ,chơi mà học .
Chú ý rèn những trẻ ít nói, chậm hiểu có phương pháp hướng dẫn cụ thể .
Động viên kịp thời phát huy tính tích cực của trẻ và giúp trẻ tập luyện thường
xuyên .
Tạo điều kiện tốt để trẻ có khả năng tư duy , phát triển tốt .

Phần 3
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
21



Khám phá khoa học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thỏa mãn
nhu cầu nhận thức, nhu cầu hoạt động nhóm của trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được
chơi, hoạt động khám phá thế giới xung quanh một cách tích cực, độc lập, sáng
tạo. Do vậy nâng cao chất lượng cho trẻ 3 tuổi làm quen với khám phá khoa
học tôi cần:
Xây dựng môi trường học tập cho trẻ phong phú đa dạng, sinh động hấp
dẫn, an toàn, thuận tiện để trẻ tích cực khám phá.
Khai thác triệt để tác dụng của góc thiên nhiên
Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học
Rèn trẻ khám phá khoa học thông qua các hoạt động hàng ngày.
Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất
Bản thân tôi không ngừng rèn luyện, học tập và bồi dưỡng về đạo đức
cũng như nghiệp vụ sư phạm. Tổ chức tốt các hoạt động trong lớp, tạo môi
trường trong lớp thân thiện, phù hợp có khoa học.
II. Kiến nghị
Qua việc nghiên cứu và thực hiện một sô biện phám giúp trẻ 3 tuổi nâng
cao chất lượng khám phá khoa học về môi trường xung quanh, tôi có một số ý
kiến đề xuất sau:
Các cấp lãnh đạo cần tạo điều kiện cho giáo viên trong trường được đi
kiến tập, tham quan, dự các lớp tập huấn để giáo viên có cơ hội học hỏi thêm
kinh nghiệm tổ chức các hoạt động khám phá khoa học
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút được trong năm
qua ,để nâng cao kỹ năng quan sát , nhận xét, phán đoán cho trẻ . Tuy nhiên
bản thân tôi còn cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để góp phần nhỏ bé của mình
vào sự nghiệp giáo dục nước nhà. Rất mong được sự đóng góp của các cấp
lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
MỤC LỤC

Thứ tự

Nội dung
22

Trang


Phần 1
Thông tin chung về sáng kiến
Tóm tắt sáng kiến
Phần 2

1
2-3
4

1

Mô tả sáng kiến
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

4

2

Cơ sở lý luận

5


3

Thực trạng của vấn đề

6

4

Các biện pháp thực hiện

8

5

Kết quả đạt được

20

6

Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng

21
22

Phần 3
Kết luận và khuyến nghị
1

Kết luận


22

2

Khuyến nghị

23

Giáo án :
KPKH: Bé tìm hiểu một số loài hoa mùa xuân
Chủ đề: Tết và mùa xuân
Chủ đề nhánh: Một số hoa mùa xuân.
I. Mục đích:
23


- Trẻ biết tên gọi. Đặc điểm màu sắc, cấu tạo, hình dáng, công dụng của
một số loài hoa mùa xuân: Hoa hồng, hoa cúc, hoa đào.
- Trẻ có kĩ năng thảo luận nhóm, kĩ năng quan sát, nhận xét, kĩ năng chơi
trò chơi.
- Trẻ yêu quý, có ý thức bảo vệ, chăm sóc các loài hoa.
II. Chuân bị:
- Mô hình vườn hoa 4 cái, hoam hồng, hoa cúc, hoa đào mỗi thứ 15
bông, bột số loài hoa khác, giỏ cắm hoa mỗi trẻ 01 cái, cô 03 cái.
- Máy tính, powerponit các loài hoa mùa xuân.
- Đàn, nhạc.
III. Tiến hành
Hoạt động của cô
* HĐ 1: Gây hứng thú

- Cô cho bạn búp bê đến thăm lớp. Búp
bê mời cả lớp đi thăm vườn hoa nhà
mình.
- Cô cho cả lớp đi thăm vườn hoa nhà bạn
búp bê, vừa đi vừa hát “ màu hoa”
- Cho trẻ quan sát và kể tên một số loài
hoa mà trẻ biết ở trong vườn.
- Cô giới thiệu búp bê tặng hoa cho cả
lớp.
* HĐ 2: Khám phá
- Cô cho cả lớp về chỗ ngồi thành 3 tổ và
khám phá hộp quà bạn búp bê tặng.
- Cô tặng cho 3 tổ, mỗi tổ một giỏ hoa
to(giỏ hoa hồng, hoa cúc, hoa đào), cho
các tổ về chỗ ngồi và tiền hành thảo luận.
-Cô gợi ý vấn để cho trẻ thảo luận.
- Thời gian thảo luận 5 phút.
- Cô cho mỗi trẻ chọn cho mình 1 bông
hoa cắm vào giỏ hoa và để lên bàn của tổ
mình.
* Khám phá hoa đào:
- Cô đọc thơ:
Bông đào nho nhỏ
Cánh đào hồng tươi
Hễ thấy hoa đào hễ là tết đến
Cô vừa đọc những câu thơ nói về loài hoa
của tổ nào?
-Loài hoa đó có tên là hoa gì?
- Ai có hoa đào để lên phía trước cho các
bạn quan sát.

24

Hoạt động của trẻ
Cả lớp chào bạn búp bê
Cả lớp đi thăm vườn
hoa
Trẻ quan sát và kể tên
Trẻ cảm ơn bạn búp bê
Trẻ ngồi thành tổ và
khám pha hộp quà
Đại diện tổ trưởng nhận
hoa và tiến hành thảo
luận.
Trẻ chọn hoa và cắm
vào giỏ, để lên bàn của
tổ mình.

Trẻ lắng nghe và trả lời

Trẻ trả lời

Ghi chú


- Cô cho tổ có hoa đào trình bày ý kiến về
hoa đào.
- Cô có thể gợi ý cho trẻ trả lời
- Hoa đào có màu gì?
- Cành hoa đào có gì?
- Cánh hoa đào đâu, cánh có hình dáng

thế nào?
- Hoa đòa nở vào dịp nào trong năm?
- Hoa đào dùng làm gì?
- Cô khái quát lại: Hoa đào màu hồng,
cánh hoa nhỏ nhỏ xinh xinh, tròn mỏng,
chỉ nở vào dịp tết.
- Các con còn nhớ bài thơ nào nói về hoa
đào không?
- Cho trẻ đọc thơ “Cây đào”
* Khám phá hoa cúc
- Cô cho trẻ xem hình ảnh hoa cúc trên
máy tình và hỏi trẻ đây là hoa gì?
- Cô cho trẻ nói tên hoa cúc, và hỏi trẻ đó
là hoa của tổ nào?
- Cô cho tổ, nhóm, cá nhân nói tên hoa
cúc.
- Cô yêu cầu tổ có hoa cúc để lên phía
trên và trình bày đặc điểm hoa cúc.
+ Con thấy hoa cúc có màu gì?
+ Cánh hoa cúc đâu? Ai có nhận xét gì về
cánh hoa cúc?
+ Lá hoa cúc đâu? Là hoa màu gì?
-Cô chú ý hỏi một số bạn ở tổ khác có
nhất trí với ý kiến trình bày của tổ bạn
không? Ý kiến của con là gì?
- Cô chú ý động viên
Khen gợi trẻ nhất là những trẻ ở tổ khác
để thu hút tạo hứng thú cho trẻ.
*Khám phá hoa hồng
- Cô đọc câu đố:

Hoa màu nhung đỏ
Cánh tròn xinh xinh
Gió thổi rung rinh
Hương thơm ngào ngạt
Là hoa gì nhỉ?
- Hoa hồng đâu? Tổ nào có hoa hồng để
lên phía trước cho cô?
- Cô cho trẻ nhận xét đặc điểm hoa hồng ,
25

Trẻ trả lời

Trẻ lắng nghe

Cả lớp đọc thơ
Trẻ xem và nói tên.
Trẻ nói theo yêu cầu

Trẻ quan sát và nhận
xét

Trẻ lắng nghe và trả lời


×