Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Cải cách hệ thống ngân hàng trung quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.54 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH MAI LONG

CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC VÀ
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TIẾN TRÌNH
TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9 31 01 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HỌC


Công trình được thực hiện tại: Học viện Khoa học xã hội.

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng
2. TS. Bùi Trường Giang

Người phản biện:
1. PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn
2. PGS.TS. Trần Công Sách
3. TS. Tô Ánh Dương

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở: Học
viện Khoa học xã hội



DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Đinh Mai Long, (2015), “Phát triển thị trường mua bán nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng:Kinh nghiệm Trung Quốc và
một số hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Vietnam SocioEconomic Development, A Social Science Review, Number
84, January 2016, pp.57-70
2. Đinh Mai Long, (2015), “Phát triển thị trường mua bán nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng:Kinh nghiệm Trung Quốc và
một số hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Quản lý
Kinh tế, Số 65 (Tháng 01, 02/2015).
3. Đinh Mai Long, (2015), “Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng: Nhìn tư góc độ chính sách công”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, Tập 1 – Số 5 – Tháng 5/2015.
4. Đinh Mai Long, (2015), “Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng nhìn tư góc độ chính sách công”, Tạp chí Thị trường
Tài chính Tiền tệ, Số 10 (427) tháng 5/2015.
5. Đinh Mai Long, (2015), “Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Số 82 (2015), ngày
06/4/2015.
6. Bùi Trường Giang và Đinh Mai Long, (2013), “Nợ công của
Việt Nam: quan niệm, đặc điểm và xu hướng”, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, Số 4 (151), 2013.
7. Đinh Mai Long, (2007), “Averting Disaster”, Vietnam
Economics Times, Issue number 164, Octorber 2007.

8. Đinh Mai Long, (2007), “Bài học Khủng hoảng Tài chính
Châu Á 1997: chuẩn bị đón nhận những thử thách tài chính –
tiền tệ”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Số 158 (2007), ngày
03/7/2007.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Vấn đề tái cấu trúc hệ thống tài chính nói chung và hệ thống
ngân hàng nói riêng đã và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt kể từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2010. Tại Việt Nam, Đảng,
Nhà nước và Chính phủ đã đặt trọng tâm tái cấu trúc hệ thống các tổ
chức tín dụng là một trong số 3 “trụ cột” chính của quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế. Tuy nhiên, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn (2011-2015) cho thấy, mặc dù đã có nhiều chủ trương,
định hướng lớn được xác định nhưng quá trình triển khai tái cấu trúc
các tổ chức tín dụng vẫn còn chậm so với kế hoạch và kỳ vọng của thị
trường, đang chờ những bước đi và giải pháp căn cơ phù hợp. Do đó,
đây đã trở thành một chủ đề học thuật nhận được nhiều sự quan tâm
chú ý của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và của
toàn xã hội. Thông qua luận án này, tác giả sẽ hệ thống hóa các lý luận,
công trình nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng, từ phân tích quá trình tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng của Trung Quốc thời gian qua để rút ra một số bài học kinh
nghiệm và khuyến nghị chính sách cho quá trình tái cấu trúc các tổ
chức tín dụng Việt Nam thời gian sắp tới.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quá trình cải cách hệ thống ngân hàng
Trung Quốc và tình hình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu kinh nghiệm cải cách hệ
thống ngân hàng Trung Quốc nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm
cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam sắp tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Các lý thuyết và mô hình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trên
thế giới, một số giải pháp cụ thể và kinh nghiệm triển khai; Cải cách
hệ thống ngân hàng Trung Quốc từ cuối những năm 1990s đến nay;
Tình hình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu “Những mô hình, chính sách và giải pháp
cải cách hệ thống ngân hàng chủ yếu trên thế giới hiện nay, đặc biệt

1


là tại Trung Quốc, có thể được áp dụng cho quá trình tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn sắp tới như thế nào?”
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những
chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tái cơ cấu nền kinh
tế nói chung và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng.
Luận án với cách tiếp cận lịch sử và logic cũng như cách tiếp cận hệ
thống, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học bao
gồm: thống kê, phân tích, tổng hợp, tổng quan tài liệu, so sánh quốc tế.
6. Những đóng góp dự kiến của luận án
Thứ nhất, góp phần hệ thống hóa những lý thuyết, quan điểm
cơ bản có ảnh hưởng lớn đến mô hình, chính sách và giải pháp tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng ở một quốc gia.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản
liên quan đến tái cấu trúc ngân hàng trong bối cảnh đặc thù của nền
kinh tế chuyển đổi trên cơ sở nghiên cứu quá trình cải cách hệ thống
ngân hàng tại Trung Quốc.
Thứ ba, từ kinh nghiệm của Trung Quốc góp phần đề xuất
những phương hướng, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ,
nâng cao hiệu quả và tạo sự chuyển biến cơ bản về chất đối với quá
trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận án
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống

ngân hàng trên thế giới, tại Trung Quốc và Việt Nam thời gian qua.
- Chương 2: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới; phân tích những giải pháp
tái cơ cấu cơ bản được thế giới và khu vực áp dụng.
- Chương 3: Phân tích quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại
Trung Quốc (tư góc độ chính sách và thực tiễn thị trường) nhằm đánh
giá những trọng tâm và hiệu quả của quá trình cải cách.
- Chương 4: trên cơ sở các kết quả phân tích, đặc điểm hệ
thống ngân hàng Việt Nam hiện nay và so sánh với Trung Quốc, đề
xuất một số định hướng chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong thời gian tới.

2


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng
trên thế giới:
Trong số các nghiên cứu về khủng hoảng hệ thống ngân hàng
trên thế giới, tiêu biểu nhất là Luc Laeven và Fabián Valencia (2012),
theo đó khủng hoảng ngân hàng có tính hệ thống xảy ra khi có đủ 02
điều kiện: (i) những dấu hiệu đình trệ tài chính nghiêm trọng của hệ
thống ngân hàng (được thể hiện thông qua những cuộc tháo chạy khỏi
ngân hàng (bank run), tình trạng thua lỗ phổ biến của các ngân hàng và
khó khăn thanh khoản); (ii) có những chính sách cạn thiệp sâu rộng để
giải quyết tình trạng khó khăn của hệ thống. Đồng thời, những biện
pháp can thiệp bao gồm ít nhất 03 trong số 06 giải pháp sau: (i) hỗ trợ
thanh khoản ở quy mô lớn; (ii) chi phí tái cấu trúc ngân hàng (ít nhất
3% GDP); (iii) quốc hữu hóa các ngân hàng lớn; (iv) bảo lãnh ở quy

mô lớn cho các khoản nợ của ngân hàng; (v) mua tài sản từ các tổ chức
tài chính (ít nhất 5% GDP); (vi) đóng băng các khoản gửi tiết kiệm.
Thông lệ quốc tế hiện nay có hai các tiếp cận phổ biến về tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng. Cách thứ nhất, theo IMF (1999), tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng nhằm đạt được 03 mục tiêu: (i) Củng cố hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng thông qua việc bảo đảm khả năng thanh
toán và khả năng sinh lời; (ii) Cải thiện năng lực thực hiện chức năng
trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng; và (iii) Khôi phục niềm tin
của công chúng. Cách thứ hai, theo Waxman (1998), tái cấu trúc nhân
hàng có thể nhằm giải quyết vấn đề của một ngân hàng đổ vỡ ngày trong
điều kiện của hệ thống ngân hàng đang hoạt động hiệu quả. Sự khác biệt
giữa hai cách tiếp cận này là ở đối tượng tái cơ cấu là toàn bộ hệ thống
ngân hàng hay chỉ những khâu yếu nhất của hệ thống này.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng tại
Trung Quốc
1.2.1. Những đánh giá tích cực: quá trình cải cách hệ thống
ngân hàng tại Trung Quốc đã đạt được những thành tựu cơ bản.
- Alicia, Sergio và Daniel (2006) khi nghiên cứu 03 trụ cột tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng của Trung Quốc, cho thấy mức độ lành

3


mạnh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể,
đặc biệt là về chất lượng tài sản1.
- Chunxia và Shujie (2010) khảo sát 47 ngân hàng tại Trung Quốc,
sử dụng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên một bước (SFA) để
đánh giá hiệu quả của hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn
1995-2008 gắn với các chính sách tái cấu trúc chủ yếu, trong đó tập
trung phân tích các hiệu ứng về sở hữu, lựa chọn và tác động của

những thay đổi trong quản trị tới hoạt động của ngân hàng là tích cực.
- Berger, Hasan và Zhou (2009) nghiên cứu về hiệu quả hoạt
động của 4 NHTMNN đang kiểm soát ¾ tổng tài sản của hệ thống
ngân hàng của Trung Quốc (nhóm “Big Four”) trong giai đoạn 19942003 và kết luận nhóm ngân hàng này hoạt động kém hiệu quả về lợi
nhuận so với các nhóm ngân hàng còn lại (mẫu nghiên cứu gồm 38
ngân hàng lớn nhất - chiếm 95% tổng giá trị tài sản của thị trường ngân
hàng Trung Quốc), đồng thời cho thấy chỉ cần tỷ lệ nhỏ (thiểu số) tham
gia của cổ đông nước ngoài cũng có thể giúp cải thiện đáng kể hiệu
quả hoạt động (cả về lợi nhuận và chi phí) của nhóm “Big Four”.
- Barth, Koepp và Zhou (2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa các
nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong giai
đoạn 1978-2003 và kết luận rằng những cải cách trong lĩnh vực tài
chính, đặc biệt là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (kênh cung cấp vốn
chủ yếu cho nền kinh tế) là nhân tố kinh tế quan trọng nhất.
1.2.2.2. Những đánh giá tiêu cực: cải cách ngân hàng Trung
Quốc chưa tạo nên sự thay đổi căn bản về mô hình hoạt động, cấu trúc
thị trường của các ngân hàng này theo hướng bền vững và hiện đại.
- Genevieve và Shang-Jin (2005) cho thấy sự mất cân đối giữa tỷ
lệ tiết kiệm – đầu tư tại các khu vực kinh tế khác nhau của Trung
Quốc và vai trò trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng nước này
kết luận chính sự chi phối của nhà nước, thông qua hệ thống các
NHTMNN (đặc biệt là nhóm “Big Four”) đã dẫn đến sự chia cắt
trong thị trường ngân hàng Trung Quốc.

Gồm: (i) Xử lý nợ xấu và bổ sung vốn cho 04 NHTMNN lớn nhất; (ii) Mở của thị trường ngân hàng
trong khi vẫn kiểm soát chặt tài khoản vốn; (iii) Tăng cường kiểm tra, giám sát hệ thống ngân hàng.
1

4



- Guonan Ma (2007) sử dụng khung phân tích của Dziobek
(1998) nghiên cứu về chi phí và việc phân bổ chi phí trong quá trình
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Trung Quốc. Nghiên cứu ước
tính riêng chi phí cải thiện bảng cân đối tài sản của các NHTM tại
nước này trong giai đoạn 1998-2006 lên đến khoảng 22% GDP (theo
giá năm 2007), trong đó, người nộp thuế phải gánh chịu nặng nề nhất,
khoảng 85% tổng chi phí (trích từ ngân sách), phần còn lại thuộc về
PoBC, các cổ đông và khách hàng của các ngân hàng liên quan.
- Xiaoqing và Shelagh (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu
trúc và hiệu quả của thị trường ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn
1985-2002 sử dụng phương pháp tiếp cận của Berger (1995) và
Goldberg (1996) về ước tính dữ liệu chuỗi (panel data estimation) để
kiểm tra giả thiết về sức mạnh thị trường và hiệu quả cấu trúc; nghiên
cứu cũng mở rộng mô hình này để xét đến những tác động từ quy mô
sở hữu của các NHTM và áp lực cạnh tranh với nhóm “Big Four”.
- DaCosta và Ping (2002) nghiên cứu các tác động kinh tế - xã
hội của quá trình tái cấu trúc từng bước hệ thống ngân hàng trong hơn
2 thập niên qua của Trun Quốc và cho thấy có sự khác biệt đáng kể về
các chỉ tiêu kinh tế - tài chính vĩ mô giữa giai đoạn trước và sau năm
1993 (ngoại trừ tốc độ gia tăng tín dụng và tiền gửi nội địa, tỷ lệ giữa
nợ nước ngoài trên tổng tiền gửi); các biện pháp kiểm soát kênh truyền
tải tiền tệ có thể thay đổi nhưng cơ chế kiểm soát theo mệnh lệnh hành
chính vẫn được duy trì, dẫn tới tình trạng phần lớn tín dụng trong nền
kinh tế vẫn chảy vào khu vực doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả.
1.3. Tại Việt Nam
- Nguyễn Hồng Sơn (2012) trong nghiên cứu về “Tái cơ cấu
kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu: Kinh nghiệm của các nước
và khuyến nghị cho Việt Nam” đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu
mà các nền kinh tế mới nổi cần tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008 vừa qua, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng.
- Viện Quản lý kinh tế Trung ương (2009) trong nghiên cứu về
“Cơ cấu lại nền kinh tế: một số vấn đề về nhận thức và kinh nghiệm
một số nước” đã phân tích khá chi tiết về quá trình và kinh nghiệm rút
ra từ một số nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xia.

5


- Trần Quang Minh (2004) trong nghiên cứu “Tái cơ cấu Hệ
thống tài chính Hàn Quốc sau Khủng hoảng tài chính 1997 - 1998,
Những kinh nghiệm và gợi ý cho Việt Nam” đã phân tích khá chi tiết
về công cuộc cải tổ kinh tế sau khủng hoảng tài chính châu Á và một
số gợi ý phù hợp cho việc tái cơ cấu hệ tài chính của Việt Nam.
- Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long (2014) nghiên cứu định
lượng “Đánh giá hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bằng bộ
chỉ số lành mạnh tài chính (FSIs)” đánh giá tác động của quá trình tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng đến hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 2008-2012. Tuy nhiên, tác giả đã không thể tính được một số
FSIs quan trọng do số liệu thống kê chưa phù hợp với thông lệ quốc
tế (độ an toàn vốn, nợ xấu trên tổng nợ, tính thanh khoản, độ nhạy
cảm với rủi ro…), mới dừng lại ở phân tích về các FSIs trong quá
khứ và chưa lượng hóa được mối quan hệ với các chỉ số vĩ mô khác.
- Vũ Thành Tự Anh chủ biên (2013) “Sở hữu chống chéo giữa
các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam: đánh giá và các
khuyến nghị thể chế” đã áp dụng khung phân tích dự trên các lý thuyết
về “ủy quyền – thừa hành” để chỉ ra những hạn chế trong hệ thống các
quy định hiện nay liên quan đến vấn đề sơ hữu chéo giữa ngân hàng –
ngân hàng, ngân hàng – doanh nghiệp. Tuy nhiên, khung phân tích của
nghiên cứu này chủ yếu dựa trên các lý thuyết của kinh tế học cổ điển,

mà chưa xem xét thỏa đáng đến những thất bại của thị trường hiện đại.
- Đinh Thanh Tâm và Nguyễn Thế Tùng (2015) “Xử lý nợ xấu
theo mô hình công ty quản lý tái sản: từ kinh nghiệm quốc tế tới thực
tiễn tại Việt Nam” tập trung phân tích mô hình xử lý nợ xấu của
VAMC, so sánh với hoạt động của DATC tại Việt Nam và các AMCs
tại Trung Quốc, tuy nhiên, chưa tham khảo các quốc gia có mô hình xử
lý nợ xấu tập trung như Hàn Quốc, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia…
1.4. Khung phân tích quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
1.4.1. Cơ quan thực hiện tái cơ cấu
Vấn đề cơ quan chủ trì quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thường mang yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình này. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy nếu NHTW chủ trì tái cấu trúc, thì hệ thống
ngân hàng thay đổi chậm và khó đạt được hiệu quả cao (Hawkins, 1999).

6


1.4.2. Nguồn lực tài chính để thực hiện tái cơ cấu
Theo thông lệ quốc tế, nguồn tài chính cho việc xử lý các
NHTM yếu kém thường được xác định bao gồm: nguồn của các
NHTM khác mua lại, kể cả việc tăng room cho nhà đầu tư nước
ngoài, nguồn từ thanh lý tài sản của các NHTM là đối tượng phải xử
lý, nguồn từ chính chủ các NHTM phải đáp ứng, nguồn từ phát hành
trái phiếu chính phủ qua Bảo hiểm tiền gửi, dùng tiền để Chính phủ
quốc hữu hóa các NHTM yếu kém, vực dậy, sau đó bán lại cho tư
nhân, thậm chí còn có lãi. Tuy nhiên, trong trường hợp Chính phủ bỏ
tiền ra để hỗ trợ các NHTM yếu kém, Chính phủ sẽ đưa ra các quy
định để đảm bảo hiệu quả của quá trình tái cấu trúc cũng như giảm
thiểu tối đa rủi ro đạo đức trong quá trình thực hiện.
1.4.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quá trình tái cơ cấu

Claudia Dziobek, Ceyla Pazarbasioglu (1998) và Barth J.R,
Yago G. (2003) đã xác định 06 tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng, gồm: (i) tăng trưởng dư nợ tín dụng; (ii)
tăng trưởng vốn chủ sở hữu; (iii) tỷ lệ nợ xấu; (iv) tỷ lệ vốn chủ sở
hữu trên tổng tài sản; (v) tỷ lệ chênh lệch lãi suất và chi phí hoạt
động trên thu nhập từ lãi; (vi) khả năng sinh lời trên tổng tài sản
(ROA) và khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE); (vii) thanh
khoản của hệ thống và các nhóm/ngân hàng cụ thể. Ngoài ra, các biện
pháp định tính như: so sánh giữa mục tiêu và kết quả, so sánh giữa
chi phí và lợi ích của tái cơ cấu, đánh giá mức độ thực hiện các
phương án phục hồi của các NHTM yếu kém, đánh giá mức độ phục
hồi sau tái cơ cấu/sau sát nhập của các NHTM định dạng mô hình,
cấu trúc hệ thống NHTM sau tái cơ cấu, mức độ cải thiện năng lực tài
chính và quản trị của các NHTM sau tái cơ cấu… cũng thường được
sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

7


CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CẢI CÁCH
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Hệ thống ngân hàng và những nguyên nhân cơ bản cần tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng
2.1.1. Hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng thường bao gồm: NHTW, NHTM, các
TCTD vi mô/HTX tín dụng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
2.1.1.1. NHTW: Là định chế công (độc lập hoặc phụ thuộc
Chính phủ) thực hiện các chức năng chủ yếu: (i) là ngân hàng cho
Chính phủ và hệ thống ngân hàng, (ii) là cơ quan thực thi chính sách

tiền tệ quốc gia; (iii) có thẩm quyền pháp lý phát hành tiền; (iv) chịu
trách nhiệm giám sát hệ thống ngân hàng và thực thi chính sách tiền tệ.
2.1.1.2. NHTM: Là các tổ chức tín dụng đóng vai trò trung
gia tài chính nhằm chuyển tải những khoản tiền tiếp kiệm/tích lũy
trong xã hội đến những người có nhu cầu đầu tư/tiêu dùng.
2.1.2. Những nguyên nhân cơ bản cần tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng
Trong quá trình thực hiện chức năng trung gian tài chính của
hệ thống ngân hàng, đặc biệt là hệ thống các NHTM, lý thuyết tài
chính tiện tệ cổ điển cũng như hiện đại đều chỉ ra những rủi ro cố hữu
mà cả hệ thống cũng như mỗi NHTM phải đối diện, đó là: (i) thông
tin bất đối xứng (asymmetric information), (ii) sai lệch kép (double
mismatch), (iii) khủng hoảng tài chính (financial crisis), (iv) áp chế
tài chính (financial depression) và (v) tự do hóa tài chính (financial
liberalization). Trong đó, thông tin bất đối xứng là nguyên nhân cơ
bản gây nên những vấn đề còn lại. (các vấn đề này được trình bày cụ
thể tại các mục 2.1.2.1  2.1.2.4 của Luận án).

2.2 Khái niệm, đối tượng, mục tiêu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
2.2.1. Khái niệm: “Tái cơ cấu” (hay “tái cấu trúc”) khác với
“cải cách”/“cải tổ”/“điều chỉnh” hệ thống ngân hàng ở mục tiêu nhằm
tạo ra những thay đổi mang tính cơ bản về “chất”, hướng tới hoàn thiện
cấu trúc và thay đổi căn bản mối quan hệ/tương tác giữa những thành tố
chủ yếu trong hệ thống đó và thường được tiến hành khi có dấu hiệu

8


khủng hoảng hoặc hậu khủng hoảng tài chính – tiền tệ; có tính đột phá
và thường theo định hướng của các nhà hoạch định chính sách. Trong

khi “cải cách”/“cải tổ” hay “điều chỉnh” hệ thống ngân hàng chỉ mọi
thay đổi mang tích cực trong hệ thống, diễn ra thường xuyên, liên tục
cùng với sự phát triển của một hệ thống và thường mang tính tuần tự,
khách quan. Tuy nhiên, “cải cách” và “tái cơ cấu” không hoàn toàn khác
biệt mà có thể bao gồm lẫn nhau: những “cải cách”/“cải tổ” cụ thể có thể
tích lũy tạo nên những sự thay đổi mang tính “cấu trúc” và ngược lại quá
trình “tái cơ cấu”/“tái cấu trúc” không chỉ được thực hiện thông qua
những giải pháp đột phá mà thông qua một loạt những “cải cách” cụ thể.
2.2.2. Đối tượng tái cơ cấu: thường gắn liền với các mục tiêu
cụ thể. Xét theo nghĩa rộng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là quá
trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm:
i) Ngân hàng trung ương; ii) Hệ thống ngân hàng thương mại; iii) Hệ
thống ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng phát triển; và iv)
Hệ thống các tổ chức tín dụng vi mô. Xét theo nghĩa hẹp, tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của
một trong những cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là
một ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân
hàng vẫn đang hoạt động hiệu quả (Waxman, 1998).
2.2.3. Mục tiêu tái cơ cấu: Theo IMF (1998), tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thường nhằm đạt được 3 mục tiêu: (i) Củng cố hiệu
quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua việc đảm bảo khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời; ii) Cải thiện năng lực thực hiện
chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng giữa người đi
vay và người cho vay; và (iii) Khôi phục niềm tin của công chúng
(IMF, 1998). Tuy nhiên, việc đặt ưu tiên vào mục tiêu cụ thể hay tập
trung vào cấu phần cụ thể nào trong hệ thống ngân hàng sẽ phụ thuộc
vào đặc điểm thực tiễn của các quốc gia (Hawkin et al,1999).
2.3. Bối cảnh, vai trò của nhà nước và xu hướng tái cơ cấu:
2.3.1. Bối cảnh
Phần lớn các quốc gia bắt đầu tiến hành tái cấu trúc hệ thống

ngân hàng một cách “bị động”, tức là khi đã xảy ra khủng hoảng tài

9


chính, kinh tế hoặc sau khủng hoảng và đang thực hiện các chính
sách hỗ trợ phục hồi.
Những dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng đang có vấn đề
bao gồm: (i) Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều so với tốc độ
tăng trưởng GDP; (ii) Vay nợ nước ngoài lớn trong khi dự trữ ngoại hối
mỏng và rủi ro tỷ giá cao; (iii) Giá tài sản biến động lớn; (iv) Khả năng
đánh giá tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng kém; thông
tin không đầy đủ, thiếu minh bạch; và (v) Các quy định về hoạt động
ngân hàng không phù hợp, lỏng lẻo; giám sát ngân hàng không hiệu quả.
2.3.2. Vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu ngân hàng
Trong thập niên 30 của thế kỷ XX, dưới sự ảnh hưởng của học
thuyết Keynes về vai trò điều tiết của Nhà nước, chiến lược tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng tại các quốc gia thường dựa vào các giải pháp phi
thị trường, như: (i) bắt buộc các ngân hàng thương mại quốc hữu hóa,
(ii) kiểm soát lãi suất và tỷ giá, (iii) chỉ định tín dụng theo các lĩnh vực
ưu tiên (Dziobek, 1998). Như vậy, quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng gắn liền với sự nâng cao vai trò của Nhà nước, hạn chế sự cạnh
tranh trên thị trường ngân hàng. Ưu điểm của chiến lược tái cơ cấu này
là nhanh chóng chấm dứt sự hoảng loạn của công chúng đối với hoạt
động ngân hàng, tuy nhiên cũng đã tạo tiền đề cho những bất ổn mang
tính hệ thống, cản trở sự phát triển dài hạn của thị trường ngân hàng.
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng nhà kinh tế
F.Hayek về hiệu quả của thị trường tự do, chiến lược tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng tại các quốc gia chuyển dần sang các giải pháp thị
trường. Cho đến thời điểm hiện tại chiến lược này được phần lớn các

quốc gia áp dụng. Theo Dziobek (1998), có thể phân loại các giải pháp
thị trường vào 3 nhóm chính: (1) Nhóm giải pháp tài chính hướng tới
việc cải thiện năng lực tài chính của ngân hàng thương mại; (2) Nhóm
giải pháp hoạt động hướng tới việc cải thiện hiệu quả hoạt động của
ngân hàng thương mại; (3) Nhóm giải pháp cơ cấu lại cấu trúc sở hữu
của ngân hàng thương mại để nâng cao tính cạnh tranh.
2.3.3 Những xu hướng chủ yếu
Trong số các mô hình cải cách hệ thống ngân hàng rất đa
dạng được áp dụng trên thế giới thời gian qua, có thể nhận thấy hai

10


xu hướng chủ yếu, đó là: (i) xu hướng cấp mới2 và (ii) xu hướng phục
hồi3. Việc lựa chọn mô hình nào tùy thuộc điều kiện ban đầu của quá
trình cải cách, đặc biệt là điều kiện thể chế, môi trường phát triển
kinh tế vĩ mô và cải cách ở các lĩnh vực khác như môi trường pháp lý
và doanh nghiệp.
2.4. Những biện pháp cơ bản tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
2.4.1. Xử lý nợ xấu: Hiện nay còn nhiều khái niệm và tiêu chí
đo lường, phân loại nợ xấu khác nhau. Nợ xấu do những nguyên nhân
mang tính hệ thống (chu kỳ suy giảm của nền kinh tế, biến động tỷ giá,
lạm phát) và những nguyên nhân mang tính tình huống (quản trị điều
hành yếu kém). Giải pháp xử lý nợ xấu gồm: (i) các giải pháp dựa trên
sự can thiệp của nhà nước (mua lại nợ xấu, tái cấp vốn cho các ngân
hàng yếu kém) và (ii) các giải pháp dựa trên thị trường (phát triển thị
trường mua bán nợ để thu hút nguồn lực tư nhân tham gia xử lý nợ xấu).
2.4.2. Kiểm soát rủi ro từ sở hữu chéo: Hiện tượng nắm giữ
cổ phần qua lại giữa các doanh nghiệp với nhau, thể hiện mối quan hệ
phức tạp giữa các doanh nghiệp và là hệ quả tất yếu của mối quan hệ

ủy quyền – thừa hành và tình trạng thông tin bất cân xứng. Rủi ro của
sở hữu chéo gồm: (i) vô hiệu hóa vai trò giám sát bằng các giao dịch
nội bộ; (ii) phát sinh các giao dịch bất hợp lý, có tính chất phi thị
trường, bóp méo việc sử dụng nguồn lực hiệu quả; (iii) lợi ích cục bộ
của nhóm sở hữu làm giảm mức độ minh bạch thông tin và biến dạng
giá trị doanh nghiệp.
2.4.3. Mua lại, hợp nhất, sáp nhập một số NHTM: các
NHTM đang gặp khó khăn nhưng có khả năng phục hồi sẽ buộc phải
sáp nhập với nhau hoặc với các NHTM lớn mạnh. Quá trình mua lại,
hợp nhất, sáp nhập này cơ thể tự nguyện hoặc nằm trong kế hoạch tái
cấu trúc ngân hàng do NHTW hoặc Chính phủ tiến hành, nhằm giải
cứu các ngân hàng yếu kém, cứu hệ thống ngân hàng khỏi đổ vỡ.

2
3

Phổ biến ở một số nước khu vực Đông Âu và khu vực bán đảo Ả-rập.
Phổ biến ở các nước khu vực Đông Á và Mỹ Latinh.

11


2.4.4. Thành lập cơ quan đặc trách xử lý nợ xấu: là biện
pháp tiên quyết trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở một
quốc gia. Có hai mô hình xử lý nợ xấu phổ biến trên thế giới: mô hình
tập trung (nợ xấu của các NHTM sẽ được tập trung lại vào một công ty
quản lý tài sản để xử lý) và mô hình phi tập trung (các ngân hàng vẫn
giữ nguyên nợ xấu trong báo cáo tài chính của mình, nhưng lập ra công
ty quản lý tài sản của mỗi ngân hàng để tự xử lý khoản nợ xấu đó).
Tuy nhiên, theo cả 2 mô hình thì tái cấu trúc doanh nghiệp vẫn là giải

pháp gốc rễ giúp làm giảm triệt để nợ xấu cho ngân hàng.
2.4.5. Quản trị rủi ro: Đây là một lĩnh vực quan trọng nhưng
chưa được chú trọng đúng mức (ở cả các nền kinh tế phát triển và
đang phát triển), khiến rủi ro tích lũy trong hệ thống và gây ra khủng
hoảng tài chính trong những thập niên qua. Quản trị rủi ro hiện đại
bao gồm một loạt các chính sách/biện pháp ở cấp vĩ mô (chính sách
an toàn, thận trọng do NHTW ban hành) và cấp vi mô (các quy định,
kế hoạch cụ thể của từng NHTM) nhằm đo lường hệ số an toàn vốn
và tiêu chuẩn vốn tối thiểu cần đạt theo quy định trong Hiệp định
Basel. Hiện nay, đa số các quốc gia (trong đó có Việt Nam) đang
trong quá trình triển khai hoặc hoàn tất áp dụng các tiêu chuẩn của
Basel II và hướng đến Basel III.
Trong đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ được NHTW sử
dụng phổ biến, không chỉ để điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông,
mà chức năng đầu tiên và quan trọng nhất là đảm bảo thanh khoản cho
NHTW và được xác định dựa trên: (i) Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền
gửi; (ii) Mức độ của các khoản nợ; (iii) Các loại tiền gửi khác nhau.
2.4.6. Cơ cấu lại vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu (vốn tự
có) của các ngân hàng sau khi trích lập dự phòng đầy đủ cho các
khoản nợ và giảm giá tài sản là cở sở để đưa ra các biện pháp cụ thể
như yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, cho vay thêm hoặc yêu cầu các
ngân hàng có mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu theo luật
định phải sáp nhập hoặc giải thể. Tại các nền kinh tế đang phát triển,
khi chính phủ không đủ nguồn lực để ‘quốc hữu hóa’ toàn bộ các
NHTM yếu kém sẽ có xu hướng mời các nhà đầu tư trong nước và

12


nước ngoài tài trợ tăng vốn cho các ngân hàng gặp khó khăn bằng

cách đưa ra các điều kiện có lợi cho các nhà đầu tư này.
2.4.7. Cải thiện niềm tin vào hệ thống ngân hàng
NHTW phải thể hiện quyết tâm thực hiện một kế hoạch tái
cấu trúc triệt để mà đầu tiên là minh bạch hóa thông tin đầy đủ và
chính xác về hoạt động điều hành hay tình hình tài chính của ngân
hàng, bao gồm nợ xấu, các giao dịch ngoại bảng, các chứng khoán
phái sinh hay thậm chí là các thông tin đặc biệt như thua lỗ do khiếu
kiện… và quy định đây là một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM.
Chính phủ cần tăng cường bảo vệ người gửi tiền bằng cách
gia tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi và kiện toàn bộ máy, nâng cao
hiệu quả hoạt động của cơ quan Bảo hiểm tiền gửi trong việc ngăn
ngừa và quản lý khủng hoảng. Tăng cường vai trò của cơ quan này
trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Bên cạnh đó, môi trường vĩ
mô ổn định là điều kiện đủ để quá trình tái cấu trúc diễn ra thuận lợi.
2.4.8. Xây dựng ngân hàng theo tiêu chuẩn hiện đại: Các
hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chỉ có thể đem lại hiệu quả
tích cực khi được đặt trong một khuôn khổ pháp lý ổn định và tương
đối hoàn thiện, do đó, tất cả các nước trên thế giới khi tiến hành tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng đều tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật,
xây dựng các phương án can thiệp của Chính phủ và NHTW trong các
tình huống khác nhau, để đảm bảo rằng chúng không vi phạm các luật
lệ đã ban hành trước đây. Ngoài ra, tại các nền kinh tế chuyển đổi với
thể chế kinh tế thị trường yếu, quyết tâm chính trị cao và phản ứng
chính sách kịp thời, quyết đoán là nhân tố đặc biệt quan trọng đảm bảo
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thành công.
2.5. Kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở một số quốc gia
2.5.1. Hoa Kỳ
Chương trình mua lại các tài sản tài chính có mức độ rủi ro cao
(Troubled Assets Relief Program–TARP) là một trong những điểm
nhấn quan trọng trong tổng thể các giải pháp vượt qua khủng hoảng và

tái cấu trúc thống ngân hàng Mỹ sau khủng hoảng 2008. Đây là
chương trình mua lại các tài sản tài chính có mức độ rủi ro cao từ các
định chế tài chính. Theo đó, chính phủ Mỹ cho phép Bộ Tài chính sử

13


dụng ngân sách liên bang mua hoặc bảo lãnh tối đa tới 700 tỷ USD các
tài sản có vấn đề trong hệ thống các định chế tài chính của Mỹ với mục
tiêu là khôi phục tính thanh khoản và ổn định của hệ thống tài chính.
TARP quy định Bộ Tài chính Mỹ phải mua các tài sản này ở
mức giá thấp nhất và đảm bảo giá mua là hợp lý, phản ánh giá trị cơ
bản của tài sản đồng thời cũng có quyền bán hoặc tham gia vào các
giao dịch chứng khoán, cho vay, mua bán lại, hoặc các giao dịch tài
chính khác đối với mọi tài sản có vấn đề được mua mà được xác định
là phù hợp với mục đích của pháp luật. Số tiền thu về từ các hoạt
động trên sẽ được đưa vào quỹ của Bộ Tài chính để giảm nợ công.
Bên cạnh đó, Chính phủ nước này cũng đã sử dụng một cách
khéo léo tổ chức bảo hiểm tiền gửi để giải quyết các ngân hàng đổ vỡ,
bảo vệ người gửi tiền, ngăn chặn sự lây lan của khủng hoảng. Thẩm
quyền của FDIC về xử lý đổ vỡ ngân hàng được nâng lên rõ rệt sau
khi Đạo luật Dodd-Frank được ban hành. FDIC được trao quyền lực
rộng rãi không chỉ trong đảm bảo tiền gửi ngân hàng; bảo vệ người
gửi tiền; kiểm tra và giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính;
trực tiếp xử lý đổ vỡ ngân hàng, sắp xếp các đợt mua bán sáp nhập…
Tính đến 30/6/2015, đã có 373 ngân hàng quy mô lớn nhỏ đổ
vỡ được FDIC xử lý thành công. Như vậy, trong giai đoạn khủng
hoảng, FDIC đã chứng minh được vai trò thực tiễn trong xử lý ngân
hàng đổ vỡ một cách nhanh, êm thấm mà không gây ra các hiện
tượng hoảng loạn. Việc chính phủ Mỹ gia tăng thêm thẩm quyền cho

FDIC sau giai đoạn khủng hoảng đã khẳng định vai trò chủ động của
FDIC trong hệ thống an toàn tài chính và là thành phần không thể
thiếu trong việc thực hiện các biện pháp của Chính phủ Mỹ để quản
lý và ngăn ngừa khủng hoảng trong hệ thống tài chính.
2.5.2. Hàn Quốc
Điểm tương đồng lớn nhất trong quá trình tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng của Hàn Quốc so với Trung Quốc và Việt Nam là việc đặt
trong tâm xử lý mối quan hệ giữa ngân hàng – chính phủ – tập đoàn
lớn (chaebol). Kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc cho thấy điều
kiện tiên quyết là cần có sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan như:
Ủy ban Dịch vụ tài chính Hàn Quốc (FSC), Bảo hiểm Tiền gửi Hàn

14


Quốc (KDIC), Cơ quan Giám sát Tài chính Hàn Quốc (FSS), Công ty
Quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO) và một số NHTM quan trọng…
Khác với tại Việt Nam và Trung Quốc, cơ quan bảo hiểm tiền
gửi quốc gia (KDIC) đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng thông qua việc hỗ trợ tài chính cho các ngân
hàng yếu kém để bảo đảm thanh khoản. Đồng thời, Chính phủ Hàn
Quốc cũng áp dụng thêm nhiều biện pháp hỗ trợ khác, như: (i) thành
lập các cơ quan hỗ trợ tái cơ cấu doanh nghiệp, (ii) thực thi các chính
sách hỗ trợ về thuế cho các tổ chức, cá nhân liên quan tham gia thị
trường mua bán nợ xấu, thị trường chứng khoán…
2.5.3. Nhật Bản
Kết quả nổi bật nhất trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng Nhật Bản chính là xử lý cơ bản, toàn diện vấn đề sở hữu chéo,
vốn được xem là một trong những đặc điểm cố hữu và nghiêm trong
của nền kinh tế nước này trước đó. Sở hữu chéo tại Nhật đã giảm trong

suốt những năm 1990, đây cũng là thời điểm mà Chính phủ bãi bỏ rất
nhiều quy định đối với thị trường tài chính dẫn đến chi phí trong các
thương vụ thôn tính và tạo điều kiện cho các cổ đông bên ngoài có thể
dễ dàng có quyền kiểm soát thông qua thị trường tài chính. Tóm lại,
chi phí thôn tính càng nhỏ thì sở hữu chéo sẽ càng được giảm thiểu.
2.5.4. Các nước ASEAN
Các nước ASEAN chủ yếu dùng mô hình xử lý nợ xấu tập
trung nhằm xử lý nhanh một khối lượng nợ khổng lồ nhằm tránh
nguy cơ đổ vỡ hệ thống. Các cơ quan xử lý nợ xấu tập trung này cũng
được trao nhiều đặc quyền trong những vấn đề liên quan đến định giá
khoản nợ và thu hồi tài sản bảo đảm.
Sau quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mỗi quốc gia
đều đạt được những mục tiêu nhất định, trong đó Ma-lai-xia được coi
là quốc gia thành công nhất trong quá trình tái cơ cấu. Đặc biệt, thành
công của công ty quản lý tài sản Danaharta của Ma-lai-xia về xử lý
nợ xấu đã trở thành một bài học kinh nghiệm quý báu cho các quốc
gia học hỏi và áp dụng trong những cuộc suy thoái và khủng hoảng
tài chính sau này.

15


CHƯƠNG III
CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC
3.1. Tổng quan quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc
3.1.1. Bối cảnh chính trị, kinh tế
Quá trình hình thành, phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng
Trung Quốc hiện đại gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và
hội nhập nền kinh tế thị trường mang “màu sắc Trung Hoa”.
3.1.2. Đặc điểm hệ thống NHTM Trung Quốc trước cải cách

và những động lực cải cách: (i) Thị trường ngân hàng Trung Quốc
có mức độ tập trung cao, trong đó, 04 NHTMNN lớn (“Big Four”) có
vai trò thống trị thị trường; (ii) Cơ cấu tài sản trong bảng cân đối kế
toán của các NHTM Trung Quốc khác biệt so với tiêu chuẩn chung
của quốc tế; (iii) Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng Trung
Quốc khá thấp so với các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi
khác; (iv) Các chỉ tiêu an toàn tài sản của hệ thống NHTM Trung
Quốc cũng ở mức thấp; (v) Hệ thống ngân hàng Trung Quốc có khả
năng sinh lời thấp; (vi) Khả năng điều hành độc lập của các NHTM
Trung Quốc bị đánh giá là thấp do thành phần nhà nước vẫn còn
tham gia khá phổ biến trong cơ cấu sở hữu của các NHTM nước này.

3.1.3. Mục tiêu, lộ trình cải cách
3.1.3.1. Mục tiêu cải cách: (i) đáp ứng vị thế mới và áp lực cạnh
tranh của quá trình hội nhập; (ii) khắc phục những hạn chế và nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế Trung Quốc nói chung và hệ thống ngân
hàng nước này nói riêng.
3.1.3.2. Lộ trình cải cách: có thể chia thành 04 giai đoạn: 19781991, 1991-2000, 2001-2011, 2012-nay.
3.2. Những vấn đề đặt ra, nội dung và kết quả cải cách
3.2.1. Những vấn đề đặt ra:
3.2.1.1. Năng lực của các NHTMNN
3.2.1.2. Tình trạng nợ xấu nghiêm trọng
3.2.1.3. Vấn đề sở hữu chéo và “ngân hàng ngầm”
3.2.2. Nội dung cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc
3.2.2.1. Tái cơ cấu sở hữu
a. Đối với NHTMNN

16



b. Đối với NHTMCP
3.2.2.2. Thành lập cơ quan xử lý nợ xấu
3.2.2.3. Phát triển thị trường mua, bán nợ xấu
3.2.2.4. Kiểm soát vấn đề sở hữu chéo và “ ngân hàng ngầm”
a. Về kiểm soát vấn đề sở hữu chéo
b. Về kiểm soát hệ thống “ngân hàng ngầm”

3.2.3. Hiệu quả cải cách ngân hàng Trung Quốc
3.2.3.1. Về cải cách quản trị và cơ cấu sở hữu của NHTMNN
3.2.3.2. Về xử lý nợ xấu
3.2.3.3. Về xử lý rủi ro sở hữu chéo và hệ thống ngân hàng ngầm
3.3. Vai trò của nhà nước trong cải cách và xu hướng
3.3.1. Vai trò nhà nước trong cải cách hệ thống ngân hàng
Trung Quốc: Sự can thiệp quá sâu của nhà nước trong quá trình tái cơ
cấu và hiện nay đối với thị trường ngân hàng – tài chính của Trung
Quốc cho thấy tàn tích của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung vẫn chưa
được loại bỏ hoàn toàn và cản trở hiệu quả của quá trình cải cách.
3.3.2. Những xu hướng của hệ thống ngân hàng Trung Quốc
3.3.2.1. Chiến lược duy trì đồng NDT “yếu”: làm phát sinh các
chi phí như (i) Chi phí trung hòa tiền tệ; (ii) Tính độc lập của NHTW
trong điều hành chính sách tiên tệ giảm; (iii) Giảm mức độ lành mạnh
trong hoạt của NHTM.
3.3.2.2. Chiến lược quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ: đòi hỏi cần
có các yếu tố như: (i) Cấu trúc nền kinh tế hiện đại: (ii) Quy mô phát
triển của thị trường tài chính; (iii) Khả năng chuyển đổi của đồng tiền.
3.4.2.3. Nguy cơ sập “bẫy đôla Mỹ”: Đồng đôla Mỹ chiếm tỷ
trọng lớn trong dự trữ ngoại hối của Trung Quốc, khiến nước này
chịu rủi ro lớn nếu đồng đôla Mỹ mất giá.
3.4.2.4. Ảnh hưởng từ hội nhập kinh tế: (i) Tăng trưởng kinh tế
giảm sút; (ii) Xuất khẩu giảm mạnh và nguy cơ chiến tranh thương mại;

(iii) Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng; (iv) Suy giảm của thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản.

17


CHƯƠNG IV
KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM TỪ GÓC ĐỘ KINH NGHIỆM CẢI CÁCH
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC
4.1. Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện
nay – những thành tựu và hạn chế
4.1.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng
Việt Nam
Từ 09 ngân hàng thương mại quốc doanh năm 1991, đến nay, hệ
thống các TCTD đã có 05 NHTMNN và NHTM có cổ phần chi phối
của Nhà nước, 33 NHTMCP, 1 ngân hàng hợp tác xã, 44 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân
hàng liên doanh, 29 công ty tài chính và cho thuê tài chính, 02 tổ
chức tài chính vi mô và nhiều quỹ tín dụng nhân dân; trong đó hệ
thống các NHTM đã có mạng lưới bao phủ đến hầu hết mọi miền trên
cả nước, sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng.
4.1.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam
trước Đề án tái cấu trúc
(i) Năng lực quản trị của các TCTD còn nhiều bất cập so với quy
mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ rủi ro trong hoạt động.
(ii) Cạnh tranh giữa các TCTD thiếu lành mạnh, thiếu sự hợp tác
giữa các TCTD dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính sách, pháp luật
trong hoạt động ngân hàng chưa được tôn trọng.
(iii) Các TCTD trong nước nhìn chung có năng lực tài chính còn

hạn chế và hiệu quả kinh doanh thấp.
(iv) Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam yếu và
kém bền vững trước tác động bất lợi từ môi trường kinh doanh.
4.1.3. Bối cảnh ra đời Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Việt Nam
Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ
cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong đó đề ra yêu
cầu cơ cấu lại hệ thống tài chính mà trọng tâm là hệ thống các
NHTM. Trên cơ sở quan điểm và định hướng chỉ đạo của Trung
ương, ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

18


254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai
đoạn 2011-2015” (Đề án 254). Sau 5 năm thực hiện Đề án 254, nguy
cơ khủng hoảng hệ thống ngân hàng đã được đẩy lùi, tuy nhiên, những
vấn đề căn bản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam chưa
được xử lý triệt để. Do đó, ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống
các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020” (Đề án 1058).

4.1.4. Một số phản biện, kết quả, hạn chế của quá trình tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2012 - 2016
4.1.4.1. Một số phản biện về 02 đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
a. Về đối tượng, mục tiêu: theo các đề án 254 và 1058, đối tượng
tái cơ cấu chỉ gồm các tổ chức tín dụng (các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng). Tuy nhiên, thực tế tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng tại các quốc gia trên thế giới cho thấy ngân hàng
trung ương là một đối tượng quan trọng của quá trình tài cơ cấu.

b. Về các giải pháp tái cấu trúc: các Đề án chưa xây dựng lộ
trình để thực hiện các giải pháp, trong khi Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy, các quốc gia hầu hết đều áp dụng một hệ thống các giải pháp
tương tự để xử lý khủng hoảng hoặc tái cơ cấu, nhưng các quốc gia
này thành công hay thất bại phụ thuộc phần lớn vào lộ trình áp dụng
các giải pháp này có phù hợp với đặc điểm hệ thống ngân hàng và
nguồn lực của quốc gia đó hay không.
c. Về nguồn lực cho các giải pháp tái cấu trúc: Cả 02 Đề án (254
và 1058) đều chưa đề cập đến chi phí cho toàn bộ quá trình tái cấu trúc.
d. Về cơ quan chủ trì và mối liên hệ với tái cơ cấu các khu vực
kinh tế khác: Cả 02 đề án đều giao Ngân hàng Nhà nước là cơ quan
đầu mối, phối hợp với các bộ/ngành liên quan, nhưng chưa chỉ rõ cơ
chế phối hợp giữa cơ quan liên quan trong quá trình thực hiện tái cơ
cấu một NHTM cụ thể (như xử lý tài sản thế chấp), cũng như chưa làm
rõ được mối liên hệ giữa tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với tái cơ cấu
các khu vực kinh tế khác (như khu vực doanh nghiệp nhà nước).
4.1.4.2. Kết quả chủ yếu tái cấu trúc ngân hàng giai đoạn 2012 – 2016:
a. Về đánh giá, phân loại và cơ cấu lại các TCTD yếu kém
b. Về đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTMNN

19


c. Về mô hình và hoạt động của VAMC
4.1.4.3. Đánh giá những thành tựu đạt được
4.1.4.4. Đánh giá những hạn chế, tồn tại
4.1.4.5. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
4.2. Nghiên cứu so sánh hệ thống ngân hàng Việt Nam, Trung
Quốc và những biện pháp tái cơ cấu chủ yếu
4.2.1. Về cấu trúc thị trường ngân hàng: các loại hình tổ chức

tài chính trung gian dưới sự quản lý và giám sát của ngân hàng trung
ương ở Trung Quốc và Việt Nam là rất giống nhau.
4.2.2. Về tình hình nợ xấu: các định chế xử lý nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng của cả hai nước đều không trực tiếp dùng tiền ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên, Việt Nam chú trọng mô hình xử lý nợ xấu
tập trung (VAMC) trong khi Trung Quốc chú trọng mô hình xử lý
không tập trung (các AMC) và Trung Quốc đã phát triển được thị
trường mua bán nợ xấu ngân hàng khá hoàn chỉnh (thị trường sơ cấp
và thứ cấp) trong khi các thị trường này chưa phát triển ở Việt Nam).
4.2.3. Về sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: tình trạng sở
hữu chéo tại Việt Nam nghiêm trọng hơn tại Trung Quốc do có 04
đặc điểm: (i) tách rời quyền kiểm soát khỏi quyền sở hữu; (ii) sở hữu
gián tiếp của nhà nước và chính quyền địa phương khá phổ biến; (iii)
Tập đoàn, DNNN sở hữu các NHTMCP mà không có chiều ngược lại;
(iv) tình trạng nhóm cổ đông sử dụng cấu trúc sở hữu hình tháp và sở
hữu chồng chéo để thâu tóm quyền lực, chi phối quyết sách của các
NHTMCP trong chuỗi sở hữu.
4.2.4. Về xử lý nợ xấu bằng các giải pháp thị trường: tại Việt
Nam còn hạn chế hơn so với tại Trung Quốc do (i) các cổ đông trong
nước thường không có tiền thật để góp thêm vốn mà về bản chất là vay
nợ từ các TCTD khác để đáp ứng yêu cầu tăng vốn từ NHNNVN; (ii)
Phát hành nợ thứ cấp dưới dạng trái phiếu chuyển đổi để tăng vốn cấp
2 không hiệu quả; (iii) Các giải pháp giảm nợ, đấu giá quyền giảm nợ,
mua bán lại nợ xấu qua đàm phán và theo giá thị trường, chứng khoán
hoá và hoán đổi nợ và sử dụng công ty tái cơ cấu nợ tư nhân không khả
thi trên thực tế; (iv) Không phá sản các NHTM yếu kém trên thực tế.

20



4.3. Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam trong giai
đoạn tái cấu trúc hệ thống NHTM sắp tới từ kinh nghiệm cải cách
hệ thống ngân hàng Trung Quốc
4.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho tái cơ cấu các NHTM:
cho phép các NHTM tham gia tái cơ cấu: (i) được miễn, giảm thuế, phí
hợp lý liên quan đến mua bán nợ xấu và các tài sản bảo đảm; (ii) được
NHNNVN cho vay, hỗ trợ nguồn vốn với mức lãi suất hợp lý dưới
hình thức tái cấp vốn; (iii) có lộ trình việc trích lập dự phòng rủi ro
theo quy định nhằm hỗ trợ về thời gian; (iv) được duy trì và có lộ trình
xử lý một số vi phạm phát sinh do việc sáp nhập, hợp nhất, cơ cấu lại.
4.3.2. Tăng cường hiệu quả các cơ quan xử lý nợ xấu: cần có
(i) lộ trình phù hợp đối với từng nhóm ngân hàng cho việc áp dụng
phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro; (ii) quy trình đánh
giá doanh nghiệp trước khi công bố trên Trung tâm Thông tin tín
dụng của NHNNVN (CIC); (iii) phát triển đồng bộ mô hình xử lý nợ
xấu phi tập trung cùng với mô hình tập trung; (iv) tăng thẩm quyền
và ban hành cơ chế đặc biệt cho VAMC trong xử lý các tài sản bảo
đảm; (v) xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào
các NHTM “yếu kém”; (vi) phát triển thị trường trái phiếu và tạo
hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
4.3.3. Phát triển thị trường mua bán nợ xấu trong hệ thống
ngân hàng: (i) Nhà nước cần đóng vai trò tiên phong trong việc xây
dựng khuôn khổ pháp lý cho thị trường mua bán nợ xấu hoạt động,
đồng thời có chính sách kịp thời trong điều tiết cung cầu của thị
trường này; (ii) cần phát triển đồng thời hệ thống xử lý tập trung
(VAMC) và hệ thống xử lý nợ xấu phi tập trung (các AMC) trên thị
trường thứ cấp để xử lý nợ xấu triệt để hơn; (iii) thị trường thứ cấp là
nơi nợ xấu thực sự được xử lý nên khuôn khổ chính sách đảm bảo tính
khả thi vào hiệu quả trong thực tế.
4.3.4. Về mua bán, sáp nhập và hợp nhất các NHTM: (i) các

văn bản pháp luật cần thống nhất khái niệm mua lại tổ chức tín dụng;
(ii) cần có thêm quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số và bổ sung các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể gián tiếp tham gia vào hoạt động
mua bán, sáp nhập các TCTD; (iii) cần hoàn thiện quy định định giá

21


tài sản khi thực hiện mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng; (iv)
cần quy định cụ thể thời điểm cung cấp thông tin khi mua bán, sáp
nhập các TCTD.
4.3.5. Về xử lý vấn đề sở hữu chéo: (i) quy định về công bố
thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần cần được mở rộng; (ii) cần bổ sung
phạm vi quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và mở
rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu; (iii) cần quy
định số lượng thành viên ban quản trị của NHTM theo thông lệ quốc
tế; (iv) cần tách bạch chức năng ngân hàng đầu tư và NHTM; (v) cần
nghiêm cấm các hành vi lợi dụng sở hữu chéo để vượt qua các quy
định về tỷ lệ sở hữu, giới hạn góp vốn, mua cổ phần.
4.3.6. Về kiểm soát rủi ro từ hệ thống “ngân hàng ngầm”: (i)
tăng cường kiểm soát, quản lý rủi ro, giám sát chặt chẽ hoạt động của
các chủ thể trong hệ thống “ngân hàng ngầm”, nhất là hoạt động cho
vay mua chứng khoán của các công ty chứng khoán; (ii) tăng cường
thu thập dữ liệu thông tin về quy mô tổng tài sản, lượng cung ứng tín
dụng từ các “ngân hàng ngầm”; (iii) phát triển hệ thống đánh giá khả
năng chống đỡ với các cú sốc của các “ngân hàng ngầm” chủ yếu.
4.3.7. Về thu hút nhà đầu tư chiến lược nước ngoài: (i) mạnh
dạn mở rộng room vốn ngoại với ngân hàng yếu thuộc diện phải tái
cơ cấu bắt buộc và các ngân hàng thương mại Nhà nước không cần
nắm giữ cổ phần chi phối; (ii) nhanh chóng xây dựng một số ngân

hàng tầm cỡ khu vực để làm đối trọng với các nhà đầu tư nước ngoài,
góp phần bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ của nền kinh tế.
4.3.8. Về quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động của các
NHTM: (i) thay đổi cách tính CAR theo thông lệ quốc tế; (ii) bổ sung
cách tính mức độ đủ vốn căn cứ theo quy mô và phạm vi hoạt động
của các NHTM; (iii) khắc phục những bất cập trong quy định về hệ số
rủi ro của các tài sản có trong công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
(iv) bổ sung các giới hạn liên quan đến đòn bẩy tài chính; (v) tăng
cường yêu cầu an toàn vốn với mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng.
4.3.9. Về thanh tra, giám sát các NHTM yếu kém: (i) xây dựng
và áp dụng hệ thống chỉ tiêu thanh tra, giám sát phù hợp thông lệ quốc
tế và định hướng xây dựng dựa trên rủi ro; (ii) có cơ chế phối hợp

22


×