Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.21 KB, 14 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Bậc Tiểu học là bậc rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình
thành nhân cách học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự
nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi
dưỡng và phát huy các tình cảm thói quen và đạo đức tốt đẹp của con người Việt
Nam. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua việc dạy- học các môn học,
việc thực hiện các hoạt động có định hướng theo các yêu cầu giáo dục.
Để thực hiện được điều này trước hết người giáo viên cần nhận thức đúng
đắn vị trí, vai trò của bậc Tiểu học trong nền giáo dục để có hiểu biết và cải tiến
được nội dung,phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo.
Trong các môn học ở Tiểu học, mỗi môn đều có một vị trí rất quan trọng,
trong đó môn toán có vai trò rất lớn trong việc thực hiện mục tiêu GD. Bởi lẽ toán
học với tư cách là một môn học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực. Nó
có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho đời
sống con người. Toán học giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, khả năng suy
luận hợp lý và diễn đạt đúng phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản
trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng,chăm học và hứng thú học tập toán và
góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ , phương pháp học
tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học và sáng tạo cho học sinh. Đồng thời
môn toán còn là công cụ quan trọng để học các môn học khác.
Môn toán ở Tiểu học thì các bài toán giải có một vị trí rất quan trọng. Một
phần lớn thời gian học toán của HS giành cho việc giải các bài toán ấy. Kết quả
học toán của HS cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán. Biết giải
thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán học của
mỗi HS. Có thể nói vấn đề giúp học sinh giải toán có lời văn là vấn đề hết sức
cần thiết.
Sau khi dạy giải toán ở lớp 3, tôi thấy các em nắm được kỹ năng giải toán
của giáo viên truyền đạt tới như là một văn bản của lí thuyết, còn nó có ứng dụng
vào thực tế như thế nào đó thì chưa cần biết. Đó là điều băn khoăn, suy nghĩ cho
chúng ta. Có những bài toán các em làm xong, không cần thử lại, không cần xem


thực tế áp dụng trong thực tế như thế nào, cứ để kết quả như vậy mặc dù có thể
sai. Đó là những tác hại lớn khi học toán. Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh
như vậy,với những lí do trên tôi chọn đề tài: " Biện pháp rèn kỹ năng giải toán
có lời văn cho học sinh lớp 3" làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng học môn Toán lớp
3. Giúp học sinh tích cực, hứng thú học tập, biết vận dụng những kiến thức về
toán, được rèn luyện những kỹ năng thực hành, năng lực sáng tạo theo đúng mục
tiêu của môn Toán lớp 3.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nội dung chương trình và phương pháp dạy học rèn kỹ
năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3C trường Tiểu học Quảng Phú.

1


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Đọc các tài liệu cần thiết .
- Tìm hiểu Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách tham khảo .
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế .
- Kiểm tra chất lượng đầu năm học.
- Thống kê kết quả cuối năm học.
* Phương pháp dạy thực nghiệm
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
Trong dạy học toán ở Tiểu học, giải toán có vị trí quan trọng, có thể coi dạy
học giải Toán là "Hòn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán học sinh
phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả
năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện

những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và trong chừng
mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán là
một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây:
+ Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và
thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán, bước tập
dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn (học tập,
đời sống).
Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh
đã lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp giúp
học sinh phát huy hoặc khắc phục.
+ Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập
dượt quan sát, phỏng đoán tìm tòi.
+ Qua giải toán, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc
của người lao động như: ý trí khắc phục khó khăn, thói quen sét đoán có căn cứ,
tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối
cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc
lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn, xây dựng lòng
ham thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao
từng bước.
Môn toán lớp 3 theo chương trình Tiểu học mới có nhiều điểm được điều
chỉnh, kĩ năng giải toán đã được hình thành và rèn luyện từ lớp 1, nâng cao dần
ở lớp 2. Đến lớp 3 học sinh làm quen với nhiều bài toán có lời văn dựa trên cơ
sở làm quen với các phép tính nhân, chia trong bảng và ngoài bảng.
Việc hình thành và rèn luyện kỹ năng giải toán được thực hiện trong quá
trình củng cố kiến thức,luyện tập vận dụng kiến thức vào các điều kiện khác
nhau.Trong quá trình luyện tập các mối quan hệ tạm thời trong óc được hình
thành và củng cố. Khi kỹ năng được củng cố vững chắc và trở thành kỹ xảo thì
chúng trở thành tự động hóa .Khi đó trong quá trình tư duy của học sinh thực

2


hiện một hành động nào đó,không cần nhớ lại quy tắc làm cơ sở cho hành động
đó .Ở tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 3,việc nắm vững khái niệm phép tính
cộng,phép tính trừ,phép tính nhân,phép tính chia và ý nghĩa của nó rất quan
trọng vì không có điều kiện đó,việc hình thành các kỹ năng tính toán sẽ gặp
nhiều khó khăn .
Để có thể hình thành các kỹ năng ổn định,bền vững thì con đường có nhiều
hiệu quả là dạy học có hướng dẫn,có mục tiêu lâu dài,thông qua mọi hoạt động dạy
học,không những các bài ôn tập,củng cố,luyện tập riêng mà cả các hình thức học
tập khác đòi hỏi học sinh phải tự lập,đây chính là công cụ tốt cho việc học tập.
2.2. Thực trạng việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
Qua tham khảo,trao đổi với các giáo viên dạy ở trường cùng với kinh
nghiệm bản thân, qua quá trình công tác và giảng dạy, tôi nhận thấy:
* Thuận lợi : Về phía Giáo viên: Giáo viên nhiệt tình yêu nghề, có trách
nhiệm trong công việc, mạnh dạn chân thành có ý thức vươn lên, có tinh thần
tập thể cao.
Giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn cao, chất lượng giảng dạy
của giáo viên mỗi năm có sự tiến bộ rõ rệt. Trong giảng dạy, đảm bảo việc
truyền đạt đúng đủ lượng kiến thức theo yêu cầu của chương trình. Từng bài giải
giáo viên biết rõ cách tổ chức, biết động viên khích lệ học sinh trong học tập, thu
hút sự chú ý của học sinh.
+ Về phía học sinh: Học sinh đều đi học đúng độ tuổi, có sức khoẻ tốt, các
em đều có nề nếp, ý thức học tập. Các em biết vâng lời kính trọng thầy cô giáo,yêu
lao động, tham gia đầy đủ các hoạt động ngoài giờ lên lớp và các phong trào thi
đua. Các em đều là những học sinh được tiếp cận với chương trình Tiểu học mới
nên có nhiều thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
* Khó khăn : Một sô phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của học sinh.
Sĩ số học sinh còn đông nên việc quan tâm tất cả học sinh còn khó khăn đối với

giáo viên.
Để nắm được chất lượng giải toán có lời văn của học sinh,tôi đã tiến hành
khảo sát đề bài vào (tuần 7) như sau:
Bài 1: (Bài tập 2 trang 31 sách giáo khoa Toán 3):
Mỗi tuần lễ có 7 ngày.Hỏi 4 tuần lễ có tất cả bao nhiêu ngày ?
Bài 2: (Bài tập 3 trang 106 sách giáo khoa Toán 3)
Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây ,sau đó trồng thêm được bằng 1/3
số cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở môn toán:
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
Sĩ số học sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
42 em
12 28,5% 26 62,0 %
4
9,5%
0
0
Nhận xét: Qua thực tế khảo sát tôi nhận thấy:
- Khi giải toán nhiều học sinh chưa nghiên cứu kĩ đề toán, nhiều học sinh

vốn tiếng Việt còn hạn chế, nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của
bài toán còn gặp nhiều khó khăn.
- Một số học sinh chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học, dẫn
đến còn lúng túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài toán này.
3


- Học sinh còn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, còn bị hạn chế trong
việc lựa chọn các phép giải.
- Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài toán đã giải
xong khi tính đáp số hay tìm được câu trả lời câu hỏi.
- Trong quá trình giảng dạy môn toán giáo viên còn coi nhẹ một số bước
trong quá trình giải toán như: Tìm hiểu đề toán, kiểm tra cách giải toán, nên
nhiều học sinh mắc những lỗi không đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc
rèn kĩ năng giải toán cho học sinh.
Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải
toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện
mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ,sáng tạo.Vì vậy để nâng cao
chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 tôi đã đưa ra một số giải pháp
sau:
2.3 Các giải pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
2.3.1. Các yêu cầu đối với giáo viên khi rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 3.
- Giúp học sinh nắm được các bước cần thiết của quá trình giải toán và rèn
luyện kĩ năng, thực hiện các bước đó một cách thành thạo.
- Giáo viên phải nắm vững nội dung dạy học môn toán ở lớp 3 đặc biệt là
phần giảm tải.
- Giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc điểm của
quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh Tiểu học
đang hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng, người giáo

viên Tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến hành
dạy học giải toán thành công.
- Giáo viên phân loại được các đối tượng học sinh,nắm được khả năng từng
em,biết được điểm mạnh ,điểm yếu của từng học sinh để có biện pháp giúp đỡ
phù hợp .
- Để giúp học sinh giải toán tốt, trong cụ thể mỗi tiết dạy giáo viên phải lựa
chọn và vận dụng phương pháp dạy học thích hợp. Phương pháp dạy học toán
rất cần thiết, có đóng góp quan trọng trong dạy học giải toán, song phải sử dụng
đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ. Giáo viên phải biết lựa chọn, phối hợp sử
dụng hài hoà các phương pháp dạy học.
Ví dụ: Dạy đến: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
Bài toán: (Trang 26 sách giáo khoa Toán 3):
Chị có 12 cái kẹo, chị cho em 1/3 số kẹo đó. Hỏi chị cho em mấy cái kẹo ?
Để hình thành phép chia và có câu lời giải, giáo viên cần sử dụng phương
pháp trực quan: Dùng hình vẽ nhóm những cái kẹo để minh hoạ.
* Khi dạy đến dạng toán hợp giải bằng hai phép nhân chia có liên quan đến
việc rút về đơn vị.
Bài toán: (Trang 128 sách giáo khoa Toán 3)
Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong ?
- Để giúp học sinh giải toán, giáo viên có thể sử dụng phương pháp vấn
đáp, gợi mở để giúp học sinh chủ động thực hiện bài giải.

4


- Để giúp học sinh giải toán, giáo viên phải khêu gợi hứng thú, động lực
học tập của học sinh, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn học sinh, mọi học
sinh đều tham gia, phát triển năng lực cá nhân, có kĩ năng thực hành tốt.
Có thể tuỳ vào từng dạng bài, với thực tế số lượng học sinh, thực tế của nhà
trường, giáo viên có thể sử dụng một số hình thức tổ chức. hướng dẫn hoạt động

dạy học toán theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học toán ở Tiểu học.
2.3.2. Giúp học sinh nắm vững các dạng toán giải ở lớp 3:
- Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Toán đơn và
toán hợp. Mỗi loại toán này có vai trò quan trọng của nó. Việc giải các bài toán
hợp thực chất là giải một hệ thống các bài toán đơn. Có kĩ năng giải các bài toán
đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp.
- Giúp học sinh nắm vững các dạng toán có lời văn ở lớp3và cách giải từng dạng.
* Dạng toán đơn là giải bằng một phép tính ( cộng ,trừ ,nhân,chia ).
* Dạng toán hợp là giải bằng từ hai phép tính trở lên.Lớp 3 thường hai
phép tính.Cụ thể thường gặp ở 4 dạng:
Dạng 1: a + ( a – b ) giải bài toán bằng hai phép tính cộng,trừ.
Dạng 2: a + ( a + b ) giải bài toán bằng hai phép tính cộng.
Dạng 3: a + a x b giải bài toán bằng hai phép tính cộng và nhân.
Dạng 4: a + a : b giải bài toán bằng hai phép tính cộng và chia.
- Giáo viên cần sử dụng phương pháp dạy học và hình thức dạy học phù
hợp với từng bài,dạng bài sao cho học sinh dễ hiểu,nhớ lâu.
Trong các bài toán có lời văn, học sinh thường gặp những từ chìa khoá
như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So sánh hơn, kém bao nhiêu lần". Các
từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương ứng. Giáo viên cần chú ý học
sinh tránh lẫn lộn "Bao nhiêu lần", với "Bao nhiêu đơn vị", và hiểu đúng khái
niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài để ngăn ngừa tác dụng
"Cảm ứng" của các từ "Chìa khoá". Nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép
chia trong mối quan hệ giữa hai phép tính này, điều này rất quan trọng nên giáo
viên luôn luôn lưu ý giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán.
Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song
vốn ngôn ngữ vẫn còn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến
thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần
được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia
số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ biến,
giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng

cách giải toán cho học sinh một cách chắc chắn,dể hiểu,nhớ lâu.
Ví dụ 1: Cô giáo chia 35 học sinh thành các nhóm,mỗi nhóm có7 học sinh.
Hỏi chia được bao nhiêu nhóm? Đây là bài toán đơn giải bằng một phép tính chia.
Một đội thuỷ lợi đào được 132 m mương trong 4 ngày . Hỏi đội đó đào
được bao nhiêu mét mương trong 7 ngày? Đây là bài toán đơn giải bằng hai
phép tính chia và nhân.

5


2.3.3. Giúp học sinh nắm vững quy trình giải toán:
Quy trình này thường được tiến hành theo 4 bước:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
- Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn
của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ
ngôn ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ toán học và ngôn ngữ kí hiệu (chữ số,
các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và
hiểu đầu bài toán rất quan trọng giúp các em sử dụng được ngôn ngữ kí hiệu đặc
biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng.
Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học
sinh nhắc lại nội dung đầu bài, không phải học thuộc lòng mà bằng cách diễn tả
của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh đã nhập tâm đầu
bài toán để tập trung suy nghĩ về nó.
Mỗi bài toán đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết
trong đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được
diễn đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các
dữ kiện và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó,
từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài toán.
Bước 2 : Tìm cách giải bài toán.
Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần

tìm (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh
biết tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán
dưới dạng ngắn gọn cô đọng nhất. toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng,
đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn thẳng, hình vẽ tượng
trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần tóm tắt bằng sơ đồ,
nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số.
Bước 3 : Trình bày bài giải
- Trình bày theo thứ tự các phép tính theo các câu hỏi rõ ràng, gọn gàng, đẹp.
-Ghi các phép tính trình bày ngang của vở theo dòng kẻ và kết quả cuối
cùng ghi đơn vị trong dấu ngoặc đơn.VD 3 (m) mỗi phép tính phải có lời giải
kèm theo.Cuối cùng phải ghi đáp số.
Bài giải
Số lít dầu ba thùng có là :
125 x 3 = 375 (l)
Số lít dầu còn lại là :
375 -185 = 190 (l)
Đáp số : 190 lít dầu
Ví dụ 1: Bài toán 4 trang 56 sách giáo khoa Toán 3:
" Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ
các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ?"
Với bài toán trên đọc và hiểu kĩ đầu bài rất quan trọng, giúp học sinh chỉ ra
và phân biệt rành mạch "Số lít dầu ở ba thùng, học sinh xác định được:
Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít.
Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.
6


Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu?
Ví dụ 2: Bài toán 3 trang 166 sách giáo khoa Toán 3:
"Một hình chữ nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài. Tính

diện tích hình đó ?".
Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài
toán, học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
12 cm
Chiều dài:
Chiều rộng:
?
Từ sơ đồ trên học sinh đã thể hiện đầu bài toán một cách ngắn gọn và cô
đọng nhất, đây là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tìm tòi cách giải bài toán.
Giáo viên tập cho học sinh có thói quen từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các
yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện
cần thiết có liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện không tường
minh, để diễn đạt chúng một cách rõ ràng hơn.Tìm ra cách giải nhanh ,đúng và
thực hiện bài giải dễ dàng.
Quá trình tìm hiểu đầu bài và tìm tòi lời giải kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở lại
tìm hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện để hiểu kĩ hơn.
Bài giải
Chiều rộng hình chữ nhật là :
12 : 3 = 4 (cm)
Diện tích hình chữ nhật là :
12 x 4 = 48 (cm2)
Đáp số: 48 cm2
Ở lớp 3, các bài toán đều mang tính chất đơn giản nên các dữ kiện và điều
kiện của nhiều bài toán có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại sơ
đồ này được dùng phổ biến làm chỗ dựa cho việc tìm kế hoạch giải bài toán .
Trong nhiều bài toán liên quan đến việc so sánh, sếp thứ tự việc dùng tóm
tắt thay cho sơ đồ đoạn thẳng, để biểu diễn quan hệ giữa các số, tỏ ra thích hợp
và mang lại kết quả tốt hơn.
Ví dụ: Bài 3 trang 58 sách giáo khoa Toán 3):

"Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ
hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả
hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua ?
Để giải bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ.
Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng
thứ nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai sẽ là ba phần
bằng nhau. Ta có sơ đồ:
127 kg
Thửa ruộng 1:
Thửa ruộng thứ 2:

.... kg ?

7


Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số kg cà chua của hai thửa
ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải toán:
+ Trình bày lời giải.
+ Trình bày phép tính.
+ Ghi đáp số.
Bài giải
Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki – lô –gam cà chua là:
127 x 3 = 381 (kg).
Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số ki – lô –gam cà chua là:
127 + 381 = 508 (kg).
Đáp số: 508 kg cà chua.
Khi điều khiển quá trình dạy học sinh giải toán, giáo viên phải khêu gợi
được cho học sinh cố gắng tự tin tìm ra cách giải toán, tự tìm ra các thủ thuật
thích hợp, biết mò mẫm, quan sát, phỏng đoán, huy động các kinh nghiệm đã có

để tìm ra lời giải. Thực hiện cách giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép
tính đã nêu, trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải.
* Bước 4: Kiểm tra kết quả:
-Việc kiểm tra kết quả là khâu quan trọng ,chứng tỏ các tiến hành làm việc
của học sinh đúng hay sai.Đánh giá nhằm phát hiện sai sót,nhầm lẫn trong quá
trình tính toán.
Đay là bước phát hiện những sáng tạo của các em đượcthể hiện qua các
hình thức sau:
- So sánh kết quả với thực tiễn của bài toán.
- Bài toán được giải theo mấy cách và các cách có cùng đáp số không .
- Việc đánh giá kết quả đúng đề bài yêu cầu là động lực thúc đẩy các em
tìm ra những cách giải khác nhau,nhằm hình thành kỹ năng giải toán cho học
sinh giúp các em học toán giỏi.
Kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải
toán, và phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.
Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương
pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra bài
giải vừa nắm vững thêm cách giải.
Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát lại và suy nghĩ về tính hợp lí
của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải
tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi:"Có thể giải bằng cách khác
không ?". Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh
hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
Các hình thức thực hiện kiểm tra kết quả giải toán:
- Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá trình
giải với các số đã cho.
Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó.
- Giải bài toán bằng cách khác.
Ví dụ: (Bài tập 1 trang 176 sách giáo khoa Toán 3):
Một sợi dây dài 9135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng

1/7 chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ?
8


Bài giải:
Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là:
9 135 : 7 = 1 305 (cm).
Chiều dài của đoạn dây thứ hai là:
9 135 - 1 305 = 7 830 (cm).
Đáp số:
Đoạn thứ nhất: 1 305 cm.
Đoạn thứ hai: 7 830 cm.
Để kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập
tương ứng giữa chiều dài đoạn dây thứ nhất, chiều dài đoạn dây thứ hai với
chiều dài của cả sợi dây.
Ta thấy:
1 305 + 7 830 = 9 135 (cm).
Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và
kết quả đúng.
+ Để kiểm tra cách giải bài toán, học sinh có thể giải bài toán bằng cách
khác:
Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau:
Đoạn 1

Đoạn 2
9 135 cm

Ta thấy đoạn dây 1 là một phần, đoạn dây hai là sáu phần bằng nhau vậy có
thể giải theo hai cách:
Bài giải:

Chiều dài đoạn dây thứ nhất là:
9 135 : 7 = 1 305 (cm).
Chiều dài đoạn dây thứ hai là:
1 305 x 6 = 7 830 (cm).
Đáp số:
Đoạn thứ nhất: 1 305 cm.
Đoạn thứ hai: 7 830 cm.
Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi chiều dài
của đoạn dây thứ hai, thì còn lại chiều dài của đoạn dây thứ nhất:
9 135 - 7 830 = 1 305 (cm).
* Ta thấy đáp số trên là kết quả đúng.
2.3.4 Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh:
- Rèn học sinh có kỹ năng đọc đề bài,tìm hiểu và tóm tắt bài toán nhanh
,đúng sao cho dựa vào tóm tắt,học sinh sẽ tìm nhanh được cách giải bài toán.
- Học sinh giải toán phải xác định bài toán thuộc dạng gì?cách giải dạng đó
như thế nào?giải bằng mấy phép tính?
- Rèn học sinh kỹ năng trình bày bài giải ,kiểm tra lại kết quả của bài toán.
- Rèn học sinh giải đúng các bài toán từ đơn giản đến phức tạp một cách
thành thạo,nhanh,đúng.
Hình thành năng lực khái quát hoá và kĩ năng giải toán, rèn luyện năng
lực sáng tạo trong giờ học tập cho học sinh. Có thể tiến hành một vài phép giải
sau:
- Giải các bài toán cần nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa
các số đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán.
9


-Giải bài toán bằng nhiều cách giải khác nhau.
- Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán.
e. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể tiến hành dưới những hình

thức sau:
- Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết số liệu hoặc điều kiện.
- Đặt điều kiện cho bài toán.
- Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu.
- Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải.
- Lập bài toán ngược với bài toán đã giải.
- Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ.
- Lập bài toán theo cách giải cho sẵn.
Ví dụ 1: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo bằng 1/3 túi thứ hai. Hỏi túi thứ
hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?
Ở bài toán này cần hướng dẫn học sinh phân biệt rõ ẩn số của bài toán,
tránh trường hợp nhầm lẫn giữa tìm "nhiều hơn số kilôgam" và "nhiều hơn số
phần". Từ đó học sinh thấy được bài toán này thiếu dữ kiện, túi gạo thứ nhất
dựng bao nhiêu kilôgam chưa cụ thể, học sinh có thể thêm dữ kiện vào và giải
bài toán.
Bài giải:
Túi gạo thứ hai đựng số ki-lô -gam gạo là:
8 x 3 = 24 (kg).
Túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất số ki-lô -gam gạo là:
24 - 8 = 16 (kg).
Đáp số: 16 kg gạo.
Ví dụ2: (Bài tập 2 trang 129 sách giáo khoa Toán 3):
Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó:
Tóm tắt:
7 thùng : 2135 quyển vở.
5 thùng : ......... quyển vở?
Nhìn vào tóm tắt học sinh phát hiện ngay được bài giải thuộc dạng toán
"Toán hợp giải bằng hai phép nhân chia, có liên quan đến việc rút về đơn vị" và
từ đó dễ dàng đặt được đề toán:
" Có 2135 quyển vở được xếp vào 7 thùng . Hỏi 5 thùng đó có bao nhiêu

quyển vở
Bài giải:
Mỗi thùng xếp được số quyển vở là:
2135 : 7 = 305 ( quyển vở )
5 thùng xếp được số quyển vở là:
305 x 5 = 1525 (quyển vở).
Đáp số: 1525 quyển vở.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau quá trình thực hiện rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp
3,cuối học kì 2 lớp 3C do tôi chủ nhiệm và dạy chất lượng môn toán ,đặc biệt là
phần giải toán được nâng lên rõ rệt.Đa số các em học tốt và yêu môn toán.Cụ thể
qua bài kiểm tra như sau:

10


Bài 1: Mẹ hái được 36 quả cam,mẹ biếu bà 1/3 số cam đó .Hỏi mẹ biếu bà
bao nhiêu quả cam ?
Bài 2: Có 48 cái đĩa xếp đều vào 8 hộp .Hỏi 30 cái đĩa thì xếp được vào
mấy hộp như thế?
Kết quả cụ thể :
Sĩ số học sinh
42 em

Điểm 9- 10
SL
TL
20 47,6 %

Điểm 7- 8

SL
TL
22 52,4 %

Điểm 5 - 6
SL
TL
0
0

Điểm dưới 5
SL
TL
0
0

So với kết quả đầu năm, tôi thấy đó là kết quả thực chất của các em. Kết
quả đó cho ta thấy được có phương pháp tốt thì học sinh làm bài tốt hơn. Chất
lượng học của học sinh không tự dưng mà có được, mà đòi hỏi mỗi người giáo
viên chúng ta biết phương pháp truyền đạt tới từng đối tượng học sinh. Cho nên
càng cẩn thận, chi tiết bao nhiêu thì chất lượng tiếp thu và làm bài càng tăng lên,
các em học toán tốt hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để giúp học sinh rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3, người
giáo viên phải phát huy khả năng, năng lực của mình .
Trong suốt quá trình nghiên cứu, quan sát học sinh giải toán, tôi thấy các
em rất thích giải toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải toán.
Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được cô giáo nhiệt tình hướng
dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã

trang thiết bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải
toán không nhầm lẫn, chất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt .
Dạy toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là cả một quá trình kiên
trì, đầy sự sáng tạo, nhất là đối với biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 3 nói riêng chúng ta cần phải:
- Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán, bởi các em có thích học toán thì các
em mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
- Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kỹ năng cần thiết khi giải toán bằng
phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó.
- Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi,
phát hiện trong giải toán.
- Thường xuyên thay đổi hình thức dạy học ở mỗi bài để tránh sự nhàm chán.
-Tậpcho học sinh có kỹ năng tự phân tích bài toán, tự kiểm tra đánh giá kết quả.
- Phải coi việc giải toán là cả một quá trình, không nóng vội mà phải kiên trì tìm
và phát hiện ra “ chỗ hổng” sau mỗi lần hướng dẫn để khắc phục, rèn luyện.
- Nên động viên, khuyến khích các em có đưa ra phương pháp giải hợp lí
- Gần gũi, động viên học sinh để các em có tiến bộ, học tốt môn toán.
Bên cạnh đó còn giúp cho giáo viên nắm được một số vấn đề về phương
pháp giảng dạy như sau:
- Tìm hiểu và nắm được một số vấn đề cơ bản về đổi mới phương pháp dạy học
11


- Tìm hiểu nội dung và dạy học rèn kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 3.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 3, cho thấy những ưu, khuyết điểm của giáo viên và học sinh. Từ đó rút
ra một kinh nghiệm nhằm hoàn thiện phương pháp dạy học của mình .
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên: Cần tích luỹ kiến thức để tập trung nghiên cứu các
phương pháp đổi mới ở tất cả các môn học ở bậc Tiểu học.

* Đối với tổ, khối : Thường xuyên tổ chức thảo luận về cách rèn kỹ năng
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
* Đối với nhà trường :
Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Hàng năm, tổ chức các chuyên đề về dạy giải toán theo từng nội dung cụ thể.
- Khi nhập các đầu sách, thư viện của nhà trường cần lưu ý chọn lọc các
loại sách tham khảo có chất lượng của các tác giả, nhà xuất bản có uy tín để
phục vụ cho giáo viên và học sinh trong việc giảng dạy và học tập.
Trên đây, tôi vừa trình bày Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 3 .Một phần, tôi muốn trình bày ý kiến của mình để các đồng
nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến xây dựng để cho phương pháp dạy - học của
tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Phú, ngày 15 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Thực

Tài liệu tham khảo
12


1. Sách giáo khoa Toán lớp 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Sách giáo viên Toán lớp 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.

3. Sách tham khảo Toán lớp 3
4. Đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học
5. Dạy theo chương trình sách giáo khoa Toán lớp 3

13


Mục lục

Nội Dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.

Trang
1
1
1
1

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

2

2. Nội dung

2

2.1. Cơ sở lí luận .


2

2.2. Thực trạng rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

3

2.3. Các giải pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp3 .
2.3.1. Các yêu cầu đối với giáo viên.khi rèn kỹ năng giải toán có lời

4
4

văn cho học sinh lớp3 .
2.3.2. Giúp học sinh nắm vững các dạng toán giải ở lớp 3.
2.3.3. Giúp học sinh nắm vững quy trình giải toán .
2.3.4. Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
3. Kết luận, kiến nghị

5
6
9
10
11

3.1. Kết luận.

11


3.2. Kiến nghị.

12

Tài liệu tham khảo .

13

14



×