Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.71 KB, 27 trang )

“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

STT
I.
1.
1.1
1.2

2.
3.
4.
II.
1.
2.
3.
4.
4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6
4.7
III
1.
2.
3.
IV.
V.
VI


Tên từng tiêu đề
Đặt vấn đề
- Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
- Xuất phát từ những yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung, chất lượng dạy học Toán ở Tiểu học nói riêng.
- Xuất phát từ thực trạng đối tượng học sinh ở địa phương
thường gặp khó khăn trong quá trình học mạch kiến thức
nghiên cứu trong đề tài.
- Nhiệm vụ của sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng và phạm vị
Giải quyết vấn đề
- Cơ sở lý luận.
- Cơ sở thực tiễn.
- Đánh giá thực trạng.
- Các biện pháp tiến hành.
- Họp phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.
- Điều tra phân loại học sinh yếu kém ở lớp để có biện pháp
giúp đỡ.
- Rèn kĩ năng giải toán từ dễ đến khó, từ kiến thức cũ đến kiến
thức mới.
- Chuẩn bị cho việc giải toán.
- Áp dụng qua các tiết dạy.
- Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
- Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm, giải pháp
Kết luận
- Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
- Nhận định về chiều hướng phát triển của sáng kiến kinh
nghiệm.
- Bài học kinh nghiệm

Kiến nghị đề xuất
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

1
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2

Trang
1
1
1

1
3
4
4
4
4
5
5
6
6
7
8
9
12
16
17

18
18
18
18
20
21
22


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

I. Đặt vấn đề
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
1.1. Xuất phát từ những yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất
lượng dạy học Toán ở Tiểu học nói riêng.
Như chúng ta đã biết đất nước ta đang thực sự bước vào một kỷ nguyên mới
với tương lai tươi sáng của thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh nhân loại.Chúng ta
đang tự hào và tự hào thực sự về đất nước ta, dân tộc ta đang ngày càng thay da đổi
thịt ngẩng cao đầu tự tin hướng tới tương lai để “ Sánh vai với các cường quốc năm
châu bốn biển”. Nói đến tương lai niềm tự hào của dân tộc ta không khỏi nói đến
con người mà con người muốn được phát triển toàn diện là nhờ sự giáo dục của
Gia đình - Nhà trường - Xã hội bởi “ Giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cánh
cửa tương lai”. Bởi vậy giáo dục gánh một trách nhiệm hết sức nặng nề và cấp
thiết. Đặc biệt đối với bậc tiểu học “ Là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục
quốc dân”. Bậc học tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho
sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri
thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển năng lực phẩm chất trang bị
các phương pháp ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi
dưỡng phát huy tình cảm, thói quen đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Mục
tiêu đó được thực hiện thông qua việc dạy học các kiến thức cơ bản và thực hiện

theo định hướng của yêu cầu giáo dục, nhằm trang bị cho trẻ những kiến thức, kỹ
năng cần thiết giúp trẻ tiếp tục học ở bậc học cao hơn. Trong các môn học ở Tiểu
học thì môn Toán đóng một vai trò quan trọng, chiếm nhiều thời gian học tập, là
môn học then chốt giúp học sinh phát triển tư duy một cách tích cực, khả năng suy
luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản,
gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; chăm học và hứng thú học tập
Toán; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học,
chủ động, linh hoạt, sáng tạo là môn học không thể thiếu được trong nhà trường để
2
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

giúp con người phát triển toàn diện trong thời đại mới. Vì vậy, mục tiêu quan trọng
của chương trình Toán ở tiểu học hiện nay nhất là học sinh lớp 3 đã đặc biệt chú
trọng rèn luyện thành thạo kỹ năng giải Toán ở tất cả học sinh.
1.2. Xuất phát từ thực trạng đối tượng học sinh ở địa phương thường gặp khó
khăn trong quá trình học mạch kiến thức nghiên cứu trong đề tài.
Như chúng ta đã biết môn Toán là một môn học quan trọng không
những trong trường Tiểu học mà hầu như là cả đời thường. Là thầy giáo, cô giáo
phải có trách nhiệm dạy học trò học giỏi các môn học song không thể coi nhẹ môn
Toán, đặc biệt là khi các em giải toán có lời văn.
Cụ thể trong địa phương tôi đang công tác giảng dạy có rất nhiều học sinh
yếu khi tìm tòi lời giải để giải quyết đề tài. Nếu chúng ta coi nhẹ vấn đề này là coi
như chúng ta không hoàn thành trách nhiệm của người dạy học. Do địa bàn dân cư
phức tạp các hộ gia đình sống rời rạc trình độ dân cư còn hạn chế. Một ảnh hưởng
nữa là mặt bằng dân trí không đồng đều có những gia đình rất hiếu học nhưng về

nhà dạy cho con lại sai vì họ không hiểu được việc cần phải tìm và phải tìm ra kết
quả lời giải của bài toán. Cha nói một điều con lại hiểu sang điều khác. Từ đó gây
khó khăn rất lớn cho người học và người dạy. Có những lúc những khi học sinh
không hiểu được những lời thầy cô giáo nói ra hoặc cha mẹ nói ra vì ai cũng là
người đáng kính trọng một bên là mẹ một bên là cô biết nghe ai đây? Biết đặt lời
giải cho bài toán này thế nào? Song đối với giáo viên chất lượng giữa dạy và học
vẫn là trên hết.
Bản thân tôi cũng thấy rằng trong giảng dạy học sinh khá giỏi và và học
sinh đại trà là hai vấn đề được đặt ra và phải thực hiện có hiệu quả trong năm học.
Để đạt được điều đó chúng ta cần phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh:
Học sinh hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Mục tiêu trước mắt là
nâng cao chất lượng dạy và học để đưa học sinh từ chưa hoàn thành lên hoàn thành
đưa học sinh hoàn thành phải đạt kết quả cao hơn nữa. Đặc biệt là đưa học sinh
3
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

chưa hoàn thành đạt học sinh hoàn thành để cuối năm không có học sinh lưu ban.
Đồng thời chống học sinh lưu ban ở trường tiểu học cũng là đã góp phần tích cực
thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục Tiểu học. Đó là một trong những nhiệm vụ,
mục tiêu của năm học đề ra cho từng lớp, từng cấp học. Đối với học sinh lớp 3 việc
giải toán có lời văn là rất quan trọng và cần thiết để giúp cho các em học lên các
lớp cao hơn. Do đó sự giúp đỡ của giáo viên với học sinh là rất cần thiết, làm sao
cho các em từng bước học tập có kết quả, từ đó gây dựng cho các em lòng tự tin,
hứng thú cố gắng học tập. Như chúng ta đã biết những học sinh phát triển bình
thường đều có khả năng tiếp thu chương trình và đạt yêu cầu quy định. Song thực

tế trong một lớp học tại sao lại có học sinh đạt hết quả thấp khi giải toán có lời văn.
Đây chính là mấu chốt của vấn đề cần đặt ra mà chúng ta cần phải tập trung giải
quyết.
Thực tế trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải các
bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường
lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác
và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải
không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời
giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải là một khó khăn lớn đối với một số em học sinh. Các em
mới chỉ đọc được đề Toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu:
Bài toán cho biết gì ?...Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay
hoặc không có câu lời giải…Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học
sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng,
truyền đạt của những người thầy.
Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng giải
Toán có lời văn ở lớp 3”, mong tìm ra những giải pháp nhằm giúp các em nhận
thức chậm tìm ra cách giải Toán có lời văn một cách dễ dàng cũng từ đó góp phần
nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng và trong môn
4
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Toán 3 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời
văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
2. Nhiệm vụ của đề tài

Tìm ra những giải pháp nhằm góp phần giúp học sinh yếu nâng cao kĩ năng
giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng và trong môn Toán 3 nói chung.
Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài Toán có lời văn khó và phức
tạp ở các lớp trên.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức trong chương trình môn
toán lớp 3 ( số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán
có lời văn). Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp HS :
- Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn.
- Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn.
- Phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán có lời văn và khả năng
diễn đạt đúng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu về môn Toán.
- Phương pháp điều tra thực trạng.
- Phương pháp thực nghiệm để nắm được tính khả thi của đề tài.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp quan sát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tương: Học sinh Lớp 3 Trường Tiểu học Yên Lư số 2 – Yên Dũng Bắc Giang.
Nội dung: Học sinh thường gặp khó khăn trong khi giải toán có lời văn ở lớp
3 của trường Tiểu học Yên Lư số 2 – Yên Dũng - Bắc Giang
5
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”


* Phạm vi nghiên cứu.
- Trong chương trình toán 3
- Đề tài nghiên cứu về mạch kiến thức giải toán có lời văn ở lớp 3.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có
liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn
chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản
chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các
mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những
câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương
trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta - những người trực
tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải
viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3
mới phải viết câu lời giải…Nhưng với yêu cầu đổi mới của giáo dục thì hiện nay
ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy
vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán
ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt
giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học
tốt ở các lớp sau.
2. Cơ sở thực tiễn
Đối với trẻ là học sinh lớp 3, môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc hiểu bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù
hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn
của giáo viên là hoàn toàn chính đáng.
6
Dương Thị Khuyên


Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Vậy làm thế nào để giáo viên nói - học sinh hiểu , học sinh thực hành - diễn
đạt đúng yêu cầu của bài toán.
Đó là mục đích chính của đề tài này.
3. Đánh giá thực trạng .
a. Thực trạng chung của nhà trường
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ
huynh học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao
việc dạy học của giáo viên và học sinh.
- Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ
- Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn gặp phải không ít khó khăn:
- Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn
nhiều khó khăn. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như
chất lượng học tập của các em.
- Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già
yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của
các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
- Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học
nhưng thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy

song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
b. Thực trạng của lớp
Năm học 2015- 2016 tôi được phân công giảng dạy Lớp 3D tại khu Bùi Bến
Lớp 3D do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 24 học sinh. Trong đó:
7
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

- Con cán bộ công chức: 0 em.
- Con cán bộ viên chức: 0 em.
- Con gia đình nông dân: 24 em.
- Nam: 14 em; nữ: 10 em; con dân tộc: 0 em.
Các em ở rải rác khắp 4 thôn trong xã, có nhiều học sinh có bố mẹ đi làm xa nên
việc quan tâm đến việc học tập của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
- Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc tóm tắt, tìm hiểu đề toán đang còn nhiều khó khăn đối với một số học
sinh yếu của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em
đọc được đề toán và hiểu đề toán còn thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều
– phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu
trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
c. Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu
Đầu năm học 2015 - 2016 tôi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm học sinh
lớp 3 tôi chủ nhiệm về mạch kiến thức giải toán có lời văn tôi thu được kết quả như
sau:

Sĩ số
24 em

Giải thành thạo
8 em = 33,3 %

Kĩ năng giải chậm
7 em = 29,2 %

Chưa nắm được cách giải
9em = 37,5 %

4. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề đặt ra.
4.1. Họp phụ huynh - Thống nhất biện pháp giáo dục.
Chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng đến
trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô.
Các em chưa có ý thức tự giác học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học
tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn.

8
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều
em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “ Hai không” của ngành giáo dục và
giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh

dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu
cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng - cách hướng
dẫn các em tự học ở nhà, ….Rất mừng là đa số phụ huynh đều ủng hộ. Riêng trong
phần bài tập của sách, phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu
nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em - Sách
giáo khoa còn nhiều kí hiệu, các lệnh, yêu cầu của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu
bài tập, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán,
luyện nói và trả lời nhiều… Một số học sinh thiếu Sách giáo khoa và vở bài tập, tôi
gặp gỡ trao đổi với phụ huynh, động viên họ mua sách tạo điều kiện cho con em
học tập; tôi trực tiếp kêu gọi những em học sinh cũ (lớp 3 năm ngoái) ủng hộ số
sách cũ của các em cho nhà trường để nhà trường giúp đỡ những em có hoàn cảnh
gia đình khó khăn.
4.2. Điều tra phân loại học sinh chưa đạt ở lớp để có biện pháp giúp đỡ.
Sau đợt khảo sát chất lượng đầu năm, đối với học sinh yếu kém trong môn
Toán , tôi tiến hành phân loại từng em. Đối với những em chưa đạt loại toán giải
toán có lời văn, tôi có kế hoạch kèm cặp, hướng dẫn phương pháp giải toán kịp
thời cho từng em. Lớp tôi qua điều tra có 9 em giải toán có lời văn còn yếu: em
Tân,, Thành, Vũ, Thúy, mạnh, Huệ, Mai, Lực, Nhân, Oanh là những em còn yếu về
kĩ năng giải toán có lời văn, các em không biết giải, thường trả lời sai, làm tính
không đúng, tôi luôn quan tâm động viên các em chăm học, tích cực làm bài để các
em tự tin vào khả năng của mình để suy nghĩ, tìm cách giải đúng. Trong các giờ lên
lớp, tôi luôn động viên các em đọc đề kĩ, phân tích đề, suy nghĩ tìm ra mối quan hệ
giữa dữ kiện đã cho và dữ kiện phải tìm bỏ qua các chi tiết thứ yếu, những chi tiết
không cần thiết mà tập trung vào những chi tiết chủ yếu bản chất để tìm ra cách
giải. Tôi dành nhiều thời gian hơn trong việc kiểm tra bài làm của các em này trên
9
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2



“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

lớp, thường xuyên chấm, chữa trực tiếp với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên
dương khen thưởng kịp thời bằng lời động viên khen thưởng kịp thời để các em có
cố gắng ,các em phấn khởi học tập, xoá dần ấn tượng sợ giải toán. Vào buổi học
thứ hai tôi hướng dẫn lại cho các em giải lại bài toán vừa giải ở buổi sáng để các
em nắm vững cách giải, lần sau gặp loại bài như thế là có thể giải được ngay. Tôi
còn yêu cầu phụ huynh kết hợp với giáo viên để giáo dục cho học sinh học ở nhà,
giúp các em ôn lại nắm vững kiến thức đã học. Ngoài ra tôi còn tổ chức em học
sinh khá giỏi kèm em học yếu, duy trì việc truy bài đầu giờ, đọc trước bài toán
nhiều lần trước khi vào học bài mới.
4.3. Rèn kĩ năng giải toán từ dễ đến khó, từ kiến thức cũ đến kiến thức mới
* Hệ thống lại kiến thức đã học từ lớp 1:
+ Ở lớp 1 các em đã học các bài toán đơn giản giải bằng một phép tính cộng
hoặc một phép tính chủ yếu là các bài toán thêm bớt một số đơn vị trừ. Loại toán
này đơn giản nhưng cũng phải củng cố cho các em nắm vững kiến thức thì mới làm
được các bài toán trên:
Chẳng hạn các dạng toán:
- Nhà Thắng có 8 con gà, mẹ mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Thắng có mấy con
gà ?
- Đàn ngỗng có 6 con ở dưới ao và 4 con ở trên bờ. Hỏi đàn ngỗng có mấy
con ?
- Nhà Nam có 8 con gà , mẹ đem bán 3 con. Hỏi nhà Nam có mấy con gà ?
Đây là bài toán có dữ kiện cụ thể. Các em cần suy nghĩ làm tính cộng hay tính trừ
là đúng và chú ý dựa vào câu hỏi trả lời cho chính xác.
* Hệ thống lại kiến thức đã học từ lớp 2:
Ở lớp 2 các em được ôn lại các dạng toán lớp 1 và luyện thêm các dạng toán
mới. Giải các bài toán bằng một phép tính cộng hoặc trừ hoặc nhân, hoặc chia:
Chẳng hạn:

10
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

- Bao ngô cân nặng 42 kg, bao gạo nặng hơn bao ngô 15 kg. Hỏi bao gạo
cân nặng bao nhiêu kg ?
- Mẹ hái được 25 bông hoa, Chị hái được nhiều hơn 14 bông hoa. Hỏi chị
hái được bao nhiêu bông hoa ?.
- Có 12 kg gạo chia đều vào 3 túi. Hỏi mỗi túi có mấy kg gạo ?
- Mỗi can đựng 4 lít dầu. Hỏi 3 can như thế đựng bao nhiêu lít dầu ?
Đây là các bài toán cũng có dữ kiện cụ thể. Cho học sinh nhận xét dữ kiện,
tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải, suy nghĩ tìm ra tính cộng hay tính trừ hay tính
nhân, hay tính chia là đúng và chú ý dựa vào các câu hỏi mà trả lời cho đúng. Với
cách làm này, học sinh mạnh dạn tự tin vào bản thân, dần ham thích giải toán, để
thể hiện khả năng của mình. Vai trò người thầy cũng quan trọng. Lời phát biểu của
các em dù đúng hay sai, giáo viên cần phải có lời động viên hợp lý . Nếu học sinh
phát biểu sai hoặc chưa đúng, giáo viên động viên: em trả lời gần đúng rồi , em cần
suy nghĩ thêm thì sẽ có lời giải chính xác.., giáo viên giúp các em cố gắng suy nghĩ
làm bằng được, khích lệ các em không thua cuộc trước bài toán khó. Đây chính là
bước rất quan trọng, giúp các em không sợ giải toán, thích thi nhau làm để khẳng
định mình, từ đó tạo dựng dần kĩ năng giải toán vững trắc với lời giải thông thường
để các em nắm vững ở lớp 1; 2.
* Định hướng cho học sinh giải toán ở lớp 3:
Ở lớp 3, giáo viên cần định hướng cho các em giải được các bài toán từ có dữ
kiện cụ thể sang bài toán giải bằng hai phép tính; bài toán liên quan đến rút về đơn
vị; bài Toán gấp một số lên nhiều lần, giảm một số đi nhiều lần; bài Toán so sánh 2

số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị; bài toán so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, số bé
bằng một phần mấy số lớn; các bài toán có nội dung hình học (tính chu vi, tính diện
tích...)
- Hướng dẫn học sinh đọc đề, phân tích đề: Đọc đề, phân tích đề là một khâu
vô cùng quan trọng của bài toán có lời văn. Tình trạng hiện nay phần lớn học sinh
đọc đề không kĩ , chưa chịu khó phân tích đề nên dẫn tới bài làm sai nhiều.
11
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

- Vì vậy yêu cầu học sinh cần đọc đề nhiều lần, phân tích mối quan hệ giữa
dữ kiện đã biết và dữ kiện chưa biết để giải đúng, bằng cách phân tích đề theo
hướng tổng hợp...Trong quá trình học sinh học tập theo từng nhóm giáo viên cần
lựa chọn câu hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh giúp học sinh dễ hiểu.
4.4. Chuẩn bị cho việc giải toán
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần quan
trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng Việt.
* Chúng ta đã biết học sinh lớp 3, đặc biệt là một số em học lực trung bình yếu còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy , để các em mạnh dạn tự tin
khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các
em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các
giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể
nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người
giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc
độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu
mà các bài tập nêu ra.

Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn chú
ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng
Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ
đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng suy luận của học sinh còn kém. Học
sinh chưa có kỹ năng phân tích - tổng hợp trước một đề toán. Khả năng chuyển bài
toán hợp về các bài toán đơn còn yếu. Khi giải Toán các em chưa tập hợp được kiến
thức, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Điều đáng chú ý ở đây là
cách đặt lời giải cho phép tính, rất nhiều em chưa biết cách đặt lời giải hoặc lời giải
đặt chưa hợp lý. Do các em không được uốn nắn, luyện tập nhiều trong quá trình
học.
12
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là:
Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn rất
kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề Toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu
miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa được
thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em , ở những tiết Toán có bài
toán giải có lời văn tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp
trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK Toán 3.
“ Thùng thứ nhất đựng 18 l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?”.
- Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:

Thùng 1 có :
Thùng 2 có:

18l .
nhiều hơn 6l.

Cả hai thùng:.... lít dầu?
- Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi hướng dẫn học
sinh tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng:
18l
Thùng 1

6l

?l

Thùng 2
- Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng,
tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:
+ Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
tính gì ?
( Tính số dầu ở thùng thứ hai).
Yêu cầu học sinh nêu miệng lời giải:
Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 6 = 24 (lít)
Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:
Cả hai thùng đựng được số lít dầu là:
13
Dương Thị Khuyên


Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

18 + 24 = 42 (lít)
Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số dầu cả
hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (lít).
Đối với những em này, tôi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt, còn
chưa nắm vững yêu cầu bài toán. đây là những trường hợp nằm trong nhóm đối
tượng học sinh yếu. Tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ:
Muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì ? để các em nêu được: Lấy số
dầu thùng thứ nhất + số dầu ở thùng thứ hai và giúp cho các em thấy được số dầu
ở thùng thứ nhất là 18l và số dầu ở thùng thứ hai là 24l.
- Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán và
tập tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ một bài
toán.
Ví dụ: Bài tập 3 (trang 50 - SGK toán 3)

27kg
Bao gạo
Bao ngô

5kg ?kg
- Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu
đề toán bằng lời theo

yêu cầu.
Học sinh: Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao
gạo và ngô nặng tất cả bao nhiêu ki - lô - gam ?

Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Bao ngô nặng số kg là: 27 + 5 = 32 (kg)
Cả hai bao nặng số kg là: 32 + 27 = 59 (kg)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bài giải
Bao ngô nặng số ki – lô - gam là:
27 + 5 = 32 (kg)
Cả hai bao nặng số ki – lô - gam là:
14
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 ki- lô - gam.
4.5. Áp dụng qua các tiết dạy
Trong chương trình Toán lớp 3 thường được cho dưới các dạng sau:
+ Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l dầu, buổi chiều bán được gấp đôi
buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? (Bài tập 4 tr 103).
+ Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng

1
3

số cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ? (Bài tập 3 tr 106)...
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh
các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình

bày bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá
quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông

1 1
thường như: “ gấp đôi”, “ , ”, “tất cả”…
3 4
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán
đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề Toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại:
“ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán…
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa
vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán
rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán
a. Chọn phép tính giải thích hợp
15
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép chia” nếu
bài toán yêu cầu “tìm


1 1
, ... ”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn
3 4

lại” hay là “lấy ra”. Chọn “phép nhân” nếu “gấp đôi, gấp 3” …
Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa
được

1
quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường
3

nữa ? (Bài tập 2 tr 119).
Để giải được bài Toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái
đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu
hỏi gợi ý như:
+ Bài toán cho biết gì ? (phải sửa quãng đường dài 1215m.)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (đã sửa được

1
quãng đường.)
3

+ Bài toán hỏi gì? (Đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường
nữa?)
+ Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa trước
hết phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? ( Tìm số mét đường đã sửa: 1215 : 3)
+ Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (Tìm số mét
đường còn phải sửa)

+ Nêu cách tìm? ( Lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số đã sửa).
b. Đặt câu lời giải thích hợp
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với một số học sinh trung bình, yếu lớp 3. Chính
vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó

16
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

khăn lớn đối với người dạy. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn các cách
hướng dẫn sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của
bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời
giải: “Vườn nhà Nam có số cây cam là:” (Đối với bài toán đơn)
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa
bao nhiêu mét đường nữa trước hết phải tìm gì trước?” Để học sinh trả lời miệng:
“Tìm số mét đường đã sửa:” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu
hỏi, câu lời giải và phép tính):
Số mét đường đã sửa là:
1215 : 3 = 405 (m)
Đáp số: 405 (mét).
Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em
cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2 cách
trên.

Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy
nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp
với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ
hiểu, phù hợp với các em) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và
phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu
lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học,
đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này
trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định.
17
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần tóm tắt
là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở, câu lời giải ghi cách lề
khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm (:),
phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 -> 3 chữ, cuối phép tính là đơn vị
tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải và dấu
hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để
từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên
chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp

những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại
bài làm của mình để các bạn cùng học tập…
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp
giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự
thành công trong vấn đề giải Toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực
tiếp các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho học sinh
làm một số dạng bài tập giải Toán có lời văn như sau:
Ví dụ 1: Một thùng đựng 24l mật ong, lấy ra

1
số lít mật ong đó. Hỏi trong
3

thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong ?
Không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như
sau:
Tóm tắt
Có :

Bài giải

24l.

Số lít mật ong được lấy ra là:
18

Dương Thị Khuyên


Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

1
số lít mật ong.
3

Lấy ra:

24 : 3 = 8 (l)

Còn lại: ... lít mật ong?

Trong thùng còn lại số lít mật ong là:
24 – 8 = 16 (l)
Đáp số: 16 lít mật ong.

Ví dụ 2: Một bến xe có 45 ô tô. Lúc đầu có 18 ô tô rời bến, sau đó có
thêm 17 ô tô nữa rời bến. Hỏi bến xe đó còn lại bao nhiêu ô tô ?
Học sinh lớp tôi thực hiện như sau:
Tóm tắt
Có:

Bài giải

45 ô tô.

Số ô tô rời bến là:


Rời bến: 18 ô tô.

18 + 17 = 35 (ô tô)

Rời tiếp: 17 ô tô.

Số ô tô còn lại trong bến là:

Còn lại:... ô tô?

45 – 35 = 10 (ô tô)
Đáp số: 10 ô tô.

Tiếp tục tiến hành kiểm tra nhiều kĩ năng giải toán của học sinh với
nhiều dạng bài khác nhau, tổng hợp kết quả qua chấm chữa bài cho học sinh tôi thu
được kết quả sau:
- Số bài đạt:
- Số bài chưa đạt:

24 bài.
Không có.

4.6. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em
chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em
trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên
dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với

những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới
19
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp
đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta
đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp Ba nói riêng có trí thông minh
khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát
triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt,
căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển
hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ
thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó
trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo
viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm
trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong
mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 - 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ
bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng
thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã
học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến
việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.

4.7. Kết quả của sáng kiến, kinh nghiệm, giải pháp.
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được
những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và
trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng toán
khó và mới của chương trình thay sách. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính
và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp 3 chắc
20
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng toán khó
hơn.
Trong năm học trước: (2015 – 2016) có những em khi giải toán còn đặt câu
lời giải như: “Có tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số gà còn lại là:”… Những lỗi
đó đến nay không còn nữa, học sinh lớp tôi không những biết cách đặt câu lời giải
hay, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải đúng, đẹp.
Năm học 2015 - 2016 này tôi được phân công trực tiếp chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 3D. Tổng số học sinh của lớp là 24 em. Có 10 em nữ. Các em phân bố rải
rác ở 4 thôn. Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm ngay
những ý tưởng của mình. Những kết quả mà các em đạt được sau những lần thi do
kiểm định chất lượng do nhà trường ra đề đã cho thấy công sức tôi bỏ ra đã có kết
quả nhất định. Năm học 2015 - 2016 lớp 3D do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng
dạy có kết quả như sau:
Thời gian

Sĩ số


Giải

Kĩ năng

thành thạo
giải chậm
Đầu năm
24 em
8 em = 33,3 % 7 em = 29,2 %
Cuối năm
24em
21 em = 87,5 % 3em = 12,5 %.
Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập

Chưa nắm
được cách giải
9 em = 37,5 %
Không có
tích cực, tự giác

của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh yếu tuy vẫn còn nhưng chỉ
còn với tỉ lệ khá nhỏ, số học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì kết quả
trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới
phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan. Những thầy cô giáo trường
khi dự giờ lớp tôi các đồng chí đồng nghiệp cũng đã công nhận lớp học sôi nổi,
nắm kiến thức vững chắc. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục theo đuổi ý tưởng
của mình.


21
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp
tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn.
III. Kết luận.
1.Ý nghĩa của sáng kiến, kinh nghiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm về "Một số biện pháp rèn kĩ năng giải Toán có lời
văn ở lớp 3 " mang một ý nghĩa quan trọng và là một việc làm hết sức cần thiết
góp phần hoàn thành mục tiêu cần đạt đối với học sinh sau khi học hết chương trình
toán lớp 3, nó mang ý nghĩa cộng đồng cùng nhau góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục, đây là những giải pháp quý báu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục,
dạy và học đi vào chất lượng thực tế, góp phần khắc phục tình trạng học sinh chưa
đạt, học sinh chưa đủ chuẩn lên lớp, chống được bệnh thành tích trong giáo dục đã
sảy ra trong thời gian trước đây.
2. Những nhận định về chiều hướng phát triển của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nghiên cứu các giải pháp và hình thức tổ chức khi phụ đạo về “Một số
biện pháp rèn kĩ năng về giải Toán có lời văn ở lớp 3” mà tôi đã trình bày ở trên
tôi nhận thấy sáng kiến kinh nghiệm này có thể nhân rộng ra và sử dụng được ở tất
cả các lớp 3 của trường tiểu học hiện nay.
3. Bài học kinh nghiệm
Qua những vướng mắc thực tế, cùng với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu
và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng của
mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học tôi lại rút ra được một vài

kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp,
với lương tâm trách nhiệm của người thầy.
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc rút những vướng mắc, khó
khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm,
đúng nội dung ở từng bài học.
22
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

Không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài
liệu hướng dẫn - tham khảo, không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học sinh
trong lớp được.
- Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó
khăn để học tập tốt hơn.
- Trong quá trình hướng dẫn giải toán có lời văn ở lớp 3 giáo viên cần lưu ý
hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em cách đặt câu lời giải cho hay, cho súc tích.
Vì việc thực hiện phép tính các em đều có thể nêu được ngay sau khi đọc xong đề
toán.
- Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý
nhiều đến kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết trong môn Tiếng việt. Luyện kĩ năng hỏi đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải
cho bài toán.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,
mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của

giáo viên trong mọi lúc của giờ học.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp,
nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân,
làm việc theo nhóm… và tập trung chú ý tới cả 3 đối tượng để giúp các em học tốt
hơn. Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức để
đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên phải
dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tòi trong các tài liệu có liên quan, tham
gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điều quan trọng nhất
trong dạy học là: Lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn của mỗi giáo viên.
- Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin
rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của các
23
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học tốt hơn ở
các lớp sau.
- Với một vài kinh nghiệm này, tôi mong muốn được đóng góp một phhần
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài “Giải toán có
lời văn” trong môn Toán 3 nói riêng.
IV. Những kiến nghị, đề xuất
Để việc triển khai ứng dụng có hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm, bản thân tôi
xin đề xuất một số ý kiến đối với các cấp như sau:
+ Tăng cường quan tâm việc cung cấp thiết bị, đồ dùng dạy học như tranh
ảnh, băng đĩa hình dạy mẫu của các giáo viên giỏi, đặc biệt là đưa máy chiếu vào
phục vụ giảng dạy.

+ Các cấp lãnh đạo cần tăng cường tổ chức các chuyên đề đối với giải toán có
lời văn, đây chính là hình thức học tập, bồi dưỡng trao đổi kinh nghiệm dạy học.
Tạo điều kiện cho giáo viên từng bước nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn
nghiệp vụ và mở rộng tầm hiểu biết của mình.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi rút ra được trong quá trình giảng
dạy tôi mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp nhằm hoàn thiện các
phương pháp dạy học Toán có lời văn cho có kết quả cao nhất cho học sinh. Một
lần nữa tôi mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng nghiệp
và các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Yên Lư, ngày 06 tháng 10 năm 2016
NGƯỜI VIẾT

Dương Thị Khuyên
24
Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”

V. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở tiểu học lớp 3-NXB Giáo Dục
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 3 - NXB Giáo dục
- Dạy học lấy học sinh làm trung tâm – NXB Đại Học Sư Phạm.
- Sách giáo khoa toán lớp 3 – NXB Giáo dục
- Sách giáo viên toán lớp 3 – NXB Giáo dục

25

Dương Thị Khuyên

Trường TH Yên lư số 2


×