1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Không biết tự bao giờ, trải qua hàng nghìn năm tiến hóa của loài người, ngôn
ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện
tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách
con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi
trọng:“Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Hay:
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Bằng ngôn ngữ nói chúng ta có thể đánh giá một người nào đó qua việc giao
tiếp hằng ngày: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”[2]. Mặt khác, qua
việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực.
Ngay từ ngày đầu trẻ cắp sách đến trường, trẻ được giáo dục đạo đức, giáo dục
ăn nói lễ phép theo phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do vậy, học sinh
lớp Một là nền tảng đầu cấp Tiểu học cần rèn luyện cho trẻ kĩ năng nói năng lễ
phép, lịch sư, có biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế ta còn rèn cho trẻ
mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp. Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay, không chỉ dạy cho học sinh kĩ năng nghe, đọc, viết, làm tính mà điều quan
trọng là ta dạy cho học sinh sử dụng lời nói tình cảm, nói đúng nói chuẩn Tiếng
Việt theo tiếng phổ thông trong giao tiếp.
Quan điểm giao tiếp, nói cụ thể hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra
nguyên tắc, phương hướng xây dựng chương trình môn tiếng Việt. Mỗi phân
môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục đích phát triển của
lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải đến bây giờ mới được
đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu
đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày
càng phát triển rộng khắp” [2]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “
Trường học có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Phải làm cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta” [2]. Nghị Quyết số 29
NQ/TW, ngày 04/11/2013 nêu rõ: "Đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu GD & ĐT là Quốc sách
hàng đầu; Phát triển GD & ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang thiết bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học" [2]; “Học đi đôi với
hành” đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục [2]. Muốn thực hiện được điều này,
trường Tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm
nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo
tiếng Việt.
Trẻ lớp 1 trước khi đến trường đã “biết nghe, biết nói” tiếng Việt song vẫn
chưa thật sự thành thạo và thực tế hoạt động nói năng của các em vân còn nhiều
hạn chế. Thực tế dạy học hiện nay chưa có tài liệu nào viết chuyên sâu về
phương pháp dạy Nói cho học sinh lớp 1 cũng như vẫn còn một số giáo viên chỉ
coi trọng việc dạy đọc, viết mà chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng phần luyện
1
nói nên giờ Tập đọc lớp 1 bị coi nhẹ, không gây được hứng thú học tập cho học
sinh, kĩ năng nói của các em chưa đạt được như mong muốn. Đặc biệt trong lời
nói của các em còn nặng phương ngữ, nói chưa đúng, chưa chuẩn Tiếng Việt
theo tiếng phổ thông ( kế hoạch 04/ KH - PGD & ĐT Quảng Xương ngày 04/ 1/
2018). Là người trực tiếp giảng dạy lớp 1, tôi thấy rõ yêu cầu cấp bách việc dạy
học Tập đọc, nhất là hoạt động luyện nói. Qua hoạt động này không chỉ giúp các
em rèn kĩ năng trả lời đúng ý, nói đủ câu, mà còn rèn cho các em nói chuẩn
Tiếng Việt theo tiếng phổ thông. Chính điều đó đã khiến tôi băn khoăn, trăn trở
và thôi thúc tôi giành thời gian cùng với khả năng vốn có của mình đi sâu
nghiên cứu, tìm tòi biện pháp giúp học sinh lớp 1 luyện nói đạt kết quả cao.
Chính vì những lí do trên tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng
luyện nói cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, mục đích của tôi hướng tới là trên cơ sở đánh giá thực
trạng và mức độ thành công của việc rèn rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1; xác
định nguyên nhân thành công và đề ra biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Qua nhiều năm dạy học lớp 1, tiến hành khảo sát kĩ năng nói của học sinh,
nhận thấy những khó khăn và nguyên nhân dẫn đến học sinh nói chưa đủ câu, đủ
ý, còn nặng phương ngữ. Từ đó tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp khắc phục
những hạn chế mà các em còn mắc phải nhằm nâng cao kĩ năng luyện nói cho
học sinh lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu để đạt kết quả tốt, tôi đã sử dụng nhiều
phương pháp. Trong đó, chủ yếu là các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tê.
Bản thân tôi đã sử dụng phương pháp này để điều tra kĩ năng nói của học
sinh trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và điều tra kết quả sau khi đã áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp thu thập thông tin.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân tôi đã tìm tòi tài liệu để nghiên
cứu, hỗ trợ thêm cho việc viết sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp thực hành, luyện tập.
Khi áp dụng những biện pháp mới chủ yếu tôi hướng dẫn và học sinh
tham gia luyện tập, thực hành.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm, tác giả dùng phương pháp tổng kết để đánh giá lại những hiệu quả mà
sáng kiến đem lại..
- Phương pháp hỏi đáp.
Mục đích để nắm bắt được khả năng giao tiếp của học sinh, trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2
Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu ở Tiểu học như sau: “Giáo
dục Tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở” [2].
Phân môn Học vần - Tập đọc có một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương
trình môn Tiếng Việt của Tiểu học và “Nói” là một trong bốn kỹ năng quan
trọng trong việc dạy tiếng Việt để học sinh có khả năng thực hành giao tiếp
nhanh và đạt hiệu quả cao nhất. Thông qua thực hành nói, học sinh tiếp thu kiến
thức một cách chủ động, sẽ lôi cuốn được toàn thể học sinh trong lớp tham gia
hoạt động kể cả các em hoàn thành chậm và chưa hoàn thành. Luyện nói là rèn
cho học sinh có kĩ năng giao tiếp và có thói quen hiểu tranh một cách dễ dàng;
giúp cho học sinh chiếm lĩnh được tiếng Việt: công cụ để giao tiếp tư duy và học
tập. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhât của loài người” (Lênin)
[9]. Đối với người sử dụng tiếng Việt nói đầy đủ câu, trình bày mạch lạc chứng
tỏ là người đã có trình độ văn hoá về mặt ngôn ngữ. Nói thành câu có nghĩa nói
đúng, nói lưu loát, thông thạo, nói không trống không giúp cho học sinh có điều
kiện sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập các bộ môn văn hoá,
trong việc viết các văn bản, thư từ, hoặc trong giao tiếp; tăng cường khả năng
ứng xử của học sinh trong các tình huống khác nhau, gây hứng thú, tính mạnh
dạn, tự tin trong hoạt động nói trước đám đông,... Hoạt động nói trong Tập đọc
là loại bài học thực hành kĩ năng.
Qua đó bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam.
2.2.Thực trạng về vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Tình hình địa phương, nhà trường.
Tuy vẫn còn nhiều khó khăn song những năm gần đây được sự quan tâm của
các cấp chính quyền địa phương và sự chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường nên
cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục của trường Tiểu học Quảng Thái từng
bước được nâng lên rõ rệt.
Lớp do bản thân chủ nhiệm - Lớp 1B - có sĩ số là 32 học sinh, trong đó có 17
nữ, 15 nam. Đa số các em ở thôn 1, thôn 2 và thôn 3. Trong lớp các em đều
chăm ngoan học giỏi, kính thầy, mến bạn, có tinh thần xây dựng bài, yêu thương
đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau.
Lớp 1B là lớp có số học sinh đông nhất khối. Ở lứa tuổi này các em đang còn
hiếu động, vui chơi là chính, chưa quen với các hoạt động, phương pháp học
mới của chương trình lớp 1. Khả năng phân tán chú ý, nói tự do, nói cộc lốc ,
chưa đủ câu của các em còn cao, đặc biệt hầu hết các em còn nói nặng tiếng địa
phương, nói chưa chuẩn tiếng Việt theo tiếng phổ thông. Hơn nữa đa số các em
thường phải ở nhà với ông, bà đã già, cô, dì, chú, bác… khi bố mẹ đi làm ăn xa
nên ít được quan tâm, sát sao việc học. Trong lớp còn có rất nhiều học sinh
thuộc hộ nghèo và cân nghèo.
2.2.2.Những việc đã làm được:
3
Năm học 2017–2018 để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng mục
tiêu giáo dục tiểu học. Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đó xác
định rõ vai trò và luôn chú trọng đến việc rèn kĩ năng đọc, giao tiếp cho học
sinh, đặc biệt là kĩ năng nói thành câu, nói đúng chủ đề, nói theo tranh, theo chủ
điểm. Một trong các nội dung nhà trường lựa chọn thực hiện đề án “ Giáo dục
gắn với rèn kĩ năng sống” của UBND huyện Quảng Xương là “Giáo dục gắn
với rèn kĩ năng giao tiếp” cho học sinh. Do đó, của việc rèn kĩ năng nói cho học
sinh trong nhà trường nói chung và ở học sinh lớp 1 nói riêng là một nhiệm vụ
vô cùng quan trọng.
Ban giám hiệu nhà trường quán triệt tất cả các giáo viên và học sinh nhận thức
đúng đắn vai trò của việc rèn kĩ năng giao tiếp chuẩn. Hằng ngày, hằng tuần nhà
trường chỉ đạo giáo viên đó kiểm tra, nhận xét cách nói của học sinh trong từng
giờ học, nhất là hoạt động luyện nói trong giờ tập đọc và trực tiếp kiểm tra theo
dõi kết quả rèn luyện nói của học sinh, của tập thể lớp. Hằng kì, đều tổ chức
kiểm tra đọc định kì cấp trường, lựa chọn học sinh giỏi cấp trường. Tổ chuyên
môn tổ chức dạy đối chứng một số giờ để nhận xét rút kinh nghiệm. Nhà trường
luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục, của các cấp, các ban
ngành, của địa phương và học sinh luôn nhận được sự quan tâm nhiệt tình của
các thầy, cô giáo. Bên cạnh đó các em còn nhận được sự quan tâm, chỉ bảo của
các anh chị phụ trách trong trường.
2.2.3. Những việc chưa làm được:
Về phía giáo viên: Qua tìm hiểu, có thể thấy rằng:Trong quá trình giảng dạy, xét
về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của giáo viên,
một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chưa bám
sát vào mục tiêu, yêu cầu của từng bài, từng tiết dạy chỉ chú trọng đến kĩ năng
đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học
sinh quá ít. Các phương pháp mà giáo viên sử dụng trong việc giảng dạy phần
luyện nói chưa khai thác hết, đồ dùng dạy học và việc sử dụng đồ dùng cho phần
luyện nói còn nhiều hạn chế, nhiều giáo viên còn dạy “chay”,chưa coi những
phương tiện trực quan là cần thiết cho việc luyện nói. Và vì thời lượng ít (10
phút/1 bài)nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều
mà chỉ qua loa một vài em . Giáo viên không mấy quan tâm đến những học sinh
hoàn thành chậm, ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời
sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học
sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
Về phía học sinh: Thực tế cho thấy học sinh Tiểu học giai đoạn đầu cấp luôn
ham, thích học hỏi nhưng lại nhanh chán và chóng quên, ý thức học tập chưa
đồng bộ ,khả năng nói của học sinh mới bước vào lớp 1 rất là yếu. Đó là do vốn
từ của các em còn quá ít, do chưa có sự quan tâm chu đáo chặt chẽ của cha mẹ
nên các em khó hoặc không diễn đạt được khi nói, khi giao tiếp; các em phát âm
không chuẩn, phát âm không đúng; còn rụt rè trong giao tiếp, giao tiếp kém hoặc
có thì nói năng cộc lốc, không biết cách diễn đạt hết ý nghĩa của mình.
4
Không những nói chưa chưa đủ câu, phần lớn các em còn nói sai các phụ âm,
nguyên âm và nói theo phương ngữ,chưa chuẩn tiếng phổ thông, kĩ năng nói
chưa thông, chưa mạch lạc. Chẳng hạn, giáo viên hỏi: Hôm nay ai đưa em đi
học? Học sinh trả lời: Ông ( bà), (mẹ),... hoặc hỏi : Bố em làm nghề gì?. Học
sinh trả lời: đi bén hèng ( đi bán hàng); các bạn, nói là các bạng;. Tốc độ nói
còn chậm, ê a, ngắc ngứ, nói quá nhanh hoặc quá chậm…các em còn rụt rè, chưa
mạnh dạn khi luyện nói.
Đa số các em chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nếu yêu
cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý.
Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải
thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không ? Còn ỷ lại hoặc nói theo các
bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho chính mình.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu: Em hãy nói một câu về một cây hoa mà em biết?.
HS A: “Nhà em có một cây hoa hồng rất đẹp.
HS B cũng bắt chước nói theo mẫu câu đó:“Nhà em có một cây hoa lan rất
đẹp.”
Về phía phụ huynh học sinh: Phần đông phụ huynh sống bằng nghề nông,
ngư, kinh tế còn khó khăn phải vất vả lo cái ăn, cái mặc, đi làm ăn xa, thường
xuyên vắng.Trường Tiểu học Quảng Thái lại thuộc xã ven biển, nằm xa trung
tâm nên học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các
phương tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. Ít có đều kiện tiếp cận với môi
trường mới lạ nên ngôn ngữ diễn đạt phần nào còn hạn chế. Phụ huynh lại chưa
dành nhiều thời gian ngồi học, trò chuyện hoặc chở con đi chơi, giải trí trong
những dịp cuối tuần để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người..; học sinh
thiếu đi sự đôn đốc của cha mẹ, hơn nữa nhiều phụ huynh lại không chú tâm đến
cách nói, cách diễn đạt thành câu dẫn đến con mình nói lưu loát hay ấp úng cũng
không hướng dẫn được. Hằng ngày các em sống và tiếp xúc với ngôn ngữ địa
phương vốn có, tiếng mẹ đẻ, các em có thói quen phát âm riêng, lệch chuẩn so
với hệ thống. Dấu ấn của phương ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến chính âm.
Ví dụ: “sao vậy” các em nói thành “ sao nẩy”, “cái gì vậy?” nói thành “ cái
nẩy?”, “Mẹ em đi bán hàng” nói thành: “Mẹ em đi bén hèng”. “Các bác phụ
huynh” nói thành: “Céc béc phụ huynh”... Và phần lớn lỗi phát âm này là do
ông, bà, bố mẹ và những người bạn xung quanh em đều phát âm sai,các em tiếp
xúc, trò chuyện, giao tiếp hằng ngày, lâu dần thành thói quen khó sửa, khiến các
em bị ảnh hưởng nhiều và gặp khó khăn trong quá trình luyện nói ở lớp,ở
trường. Những yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng chất lượng
nói và giao tiếp thông qua các giờ học, nhất là trong giờ học Tập đọc theo đúng
yêu cầu: nói rành rọt, đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, lôgic.
2.2.4. Kết quả khảo sát.
Bảng kết quả khảo sát 1:
Lớp Sĩ số Số HS nói mạch Số học sinh Số học sinh Số HS nhút nhát, ít
học lạc, diễn đạt tốt
nói đủ ý nói chưa đủ ý
phát biểu
5
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1B
32
4
12.5
6
18.7 13 40.7
9
28.1
Qua quá trình dạy học và thực nghiệm giờ dạy Học vần với bài 29: “ia” [1]–
chủ đề luyện nói là Chia quà Kết quả khảo sát của học sinh lớp 1B chưa cao.
VD: Giáo viên hỏi: “Trong bức tranh bà đang làm gì?” Một số HS trả lời:
“chia quà”, “Mỗi khi mẹ hoặc bà đi chợ về các con thường được chia quà gì?”
Học sinh:” bánh ạ”, “quả ạ”, “kẹo ạ”... Rất ít học sinh trả lời đủ ý đủ câu.
Ngoài ra tôi còn dự giờ thăm lớp, tham khảo ở giáo viên đứng lớp ở các lớp 1
khác theo hướng dạy chung mà các đồng nghiệp đó tham khảo trong sách giáo
viên và thiết kế Tiếng việt 1 tập 2, kết quả đạt được của các lớp là:
Bảng kết quả khảo sát 2:
Số học sinh nói
Số học sinh Số học sinh nói Số học sinh nhút
mạch lạc, diễn
Sĩ số
nói đủ ý
chưa đủ ý nhát, ít phát biểu
Lớp
đạt tốt
học sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1A
28
4
14.3
6
21.5
9
32.1
9
32.1
1C
31
4
12.9
8
25.8
12
38.7
7
22.6
1D
27
3
11.1
7
25.9
10
37.1
7
25.9
1E
31
4
12.9
6
19.4
13
41.9
8
25.8
Cũng như chất lượng lớp tôi chủ nhiệm. Qua việc khảo sát tôi thấy tình
trạng học sinh nói cộc lốc, nói chưa đủ câu và nói chưa chuẩn tiếng Việt theo
tiếng phổ thông là tình trạng chung của đa số các em học sinh trong khối lớp 1
của trường .
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Rèn kĩ năng nói qua môn Tiếng Việt
Xác định rõ Nói là một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) quan trọng của
môn Tiếng Việt vì vậy hoạt động luyện nói được tôi quan tâm đúng mức. Trong
giờ dạy tiếng Việt lớp một, tôi phân chia thời lượng rõ ràng phù hợp với các hoạt
động của bài để đảm bảo nội dung kiến thức được truyền đạt đúng, đủ và vừa
sức đối với học sinh. Trong đó thời lượng cho hoạt động luyện nói là thường từ
10 - 12 phút. Đối với việc rèn kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi, HS được rèn
hỏi đáp theo chủ đề của bài học, trả lời câu hỏi về bản thân, người thân, trả lời
câu hỏi theo tranh, trả lời câu hỏi về bài đọc, trả lời câu hỏi về bài nghe,... Đối
với kĩ năng thuật việc, kể chuyện, HS được luyện kể từng đoạn câu chuyện đã
nghe kể (có hình ảnh minh hoạ), kể từng đoạn, kể toàn bộ câu chuyện (đã đọc có
tranh/có gợi ý), kể chuyện phân vai (có tranh), tự tìm đọc truyện, tự tìm câu
chuyện đó nghe kể rồi kể lại, kể lại câu chuyện /hoạt động đó tham gia hoặc đó
chứng kiến.
Thông qua những nhiệm vụ học tập cụ thể, các bài Học vần luôn tạo điều kiện
để học sinh tham gia vào các tình huống nói năng gần gũi với hoạt động giao
tiếp thường ngày của các em. Ví dụ: Luyện nói theo chủ đề “ Chia quà”(Bài 29 :
ia - Học vần lớp 1),“Bà cháu” ( Bài 39: au, âu - Học vần lớp 1); “ Bé tự giới
6
thiệu”(Bài 41: iêu, yêu - Học vần lớp 1);....; HS có thể tập nghe nói gắn với
những chủ đề thường gặp trong cuộc sống hay tập nghe và kể ở mức độ đơn
giản những câu chuyện ngắn gọn, có tình tiết không phức tạp, dễ nhớ. Cũng nhờ
vậy vốn từ của các em được mở rộng và nhiều mẫu câu được hình thành tạo điều
kiện cho các em phát triển kĩ năng đọc - viết, nghe - nói ở giai đoạn sau.
Khi tiến hành soạn giáo án cho hoạt động luyện nói tôi thiết kế hệ thống câu
hỏi xoay quanh chủ đề và nội dung luyện nói, cấu trúc câu hỏi từ dễ đến khó
phù hợp với năng lực học tập của từng đối tượng học sinh trong lớp.
Ví dụ : Luyện nói theo chủ đề “ Bé tự giới thiệu” [1] : Giáo viên đưa ra
hệ thống câu hỏi gợi ý lần lượt: Con tên gì? Năm nay con bao nhiêu tuổi? Con
là học sinh lớp nào? Trường gì? Sở thích của con là gì? Con ước mơ sau này
lớn lên mình sẽ làm gì?.....
Khi thực hiện hoạt động này, đối với học sinh hoàn thành tốt, nói lưu loát, rành
rọt thì giáo viên cho các em nói 3 đến 4 câu, đối với đối tượng nói chưa đủ ý,
nói ê a, ngắc ngứ, nhút nhát, ít nói giáo viên động viên các em nói 1 - 2 câu theo
các câu hỏi gợi ý[9]. Sau mỗi học sinh nói, học sinh khác nhận xét, Giáo viên
nhận xét sự tiến bộ của học sinh và cho lớp tuyên dương bạn.
2.3.1.1. Luyện nói theo chủ điểm.
Cuối mỗi bài học vần hoặc một số tiết tập đọc đều có hoạt động luyện nói theo
chủ đề. Giáo viên có thể đặt câu hỏi về tranh chủ đề, học sinh trả lời; sau đó
hướng dẫn yêu cầu học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Luyện nói trong nhóm (3 - 5ph).
GV tổ chức cho học sinh nói cho nhau nghe trong nhóm bàn (Học sinh tự điều
khiển) Nhằm giúp các em tự giác, tích cực, tự nhiên trong học tập, giúp học sinh
rèn luyện thói quen mạnh dạn trước đông người, năng động, hào hứng học tập.
Giáo viên theo dõi các nhóm, quan tâm thường xuyên giúp đỡ các nhóm để
các nhóm hoạt động có hiệu quả.
Giáo viên nhắc nhở các em trong quá trình luyện nói:
- Bạn nào cũng được nói. Nói vừa đủ nghe trong bàn, nhóm của mình.
- Khi bạn nói các thành viên còn lại trong nhóm theo dõi, nhận xét lỗi sai
của bạn.
- Bạn nói rành rọt kèm bạn nói ê a, lắp bắp, nói chưa đủ ý, đủ câu hoặc
nói chưa chuẩn tiếng phổ thông.
- Giáo viên trực tiếp kèm thêm học sinh chưa hoàn thành .
Bước 2: Thi nói giữa các nhóm với tinh thần “ Học mà chơi, chơi mà học”
Đây là một hình thức học sinh trình bày kết quả luyện nói, thi nói tạo sự hào
hứng, vui tươi cho học sinh, là hoạt động đa dạng và phong phú về hình thức tổ
chức.
Đại diện nhóm thi nói: Mỗi nhóm cử đại diện một bạn nói.
Trong khi các nhóm luyện nói, nhóm khác cùng giáo viên theo dõi nhận xét,
bổ sung, tuyên dương kịp thời những cá nhân hoặc nhóm nói đúng, nói tốt.
7
Lưu ý: Việc đánh giá kết quả đọc giáo viên cần đảm bảo tính động viên,
khích lệ, coi trọng sự tiến bộ của học sinh. Chọn học sinh của nhóm nói tốt nhất
nói lại cho cả lớp học tập.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề: chuối, bưởi, vú sữa. ở bài 35:
uôi, ươi [1]; giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho mọi đối tượng trong
lớp như sau:
Bức tranh vẽ gì ?- Câu hỏi ngắn gắn với hình ảnh trực quan- Dành cho
học sinh nhút nhát, ít phát biểu (Tranh vẽ chuối, bưởi, vú sữa)
Trong những quả này, quả nào có dạng tròn? (bưởi, vú sữa) ; Dành cho học
sinh nói chưa đủ ý.
Con đã nhìn thấy những loại quả này ở đâu?- Câu hỏi có sự tư duy- học sinh
nói đủ ý. (các loại quả này mẹ con thường mua ở chợ về. Hoặc nhà bà em trồng)
Trong những quả này, con thấy quả nào có hình dáng to nhất? (Trong các loại
quả này, con thấy quả bưởi to nhất ạ.) Dành cho học sinh nói mạch lạc, diễn đạt
tốt.
Ngoài những quả này, con còn biết những loại quả nào nữa?, con thích ăn loại
quả nào nhất?- Trình bày câu trả lời theo suy nghĩ và sự hiểu biết cảu cá nhânDành cho học sinh nói mạch lạc, diễn đạt tốt. (HS kể: na, ổi, mít, sầu riêng,
măng cụt,...Trong các loại quả này con thích ăn nhất là vú sữa ạ. Vú sữa rất ngọt
và ngon ).
Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn
sửa chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ: Khi giáo viên hỏi:
+Những quả nào có dạng tròn? Học sinh trả lời: ( bưởi, vú sữa ạ).
Lúc này giáo viên nêu câu hỏi gợi ý để học sinh nói lại cho thành câu như sau:
? bưởi, vú sữa là những quả có dạng gì? Con hãy nói lại cho đủ câu.
+ Quả bưởi, quả vú sữa là những quả có dạng tròn ạ.
2.3.1.2. Rèn kỹ năng nói theo bài học.
Yêu cầu luyện nói là một điểm mới của SGK mới, có mục đích giúp phát triển
ngôn ngữ của trẻ, rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở, tự tin.
Điều quan trọng là giáo viên phải biết cách khơi gợi, kích thích học sinh nói
năng, có hứng bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình.
Khi dạy bài: Bàn tay mẹ[1], giáo viên phải biết cách làm cho học sinh hiểu yêu
cầu hỏi nhau dựa theo nội dung bài học. Ví dụ:“Hằng ngày, ai nấu cơm cho bạn
ăn?”Ai giặt giũ quần áo cho bạn?”“Ai đưa bạn đi học?”“Ai chăm sóc bạn khi
bạn bị ốm?...Từ đó, HS sẽ nghĩ ra những câu hỏi, câu trả lời theo vốn suy nghĩ
và hiểu biết của mình một cách tự nhiên.
Đối với bài: Mèo con đi học [1]. GV cũng phải gợi ý cho HS hiểu phần luyện
nói là dạng gì? Đề tài gì? Như: Đề tài luyện nói hôm nay là gì? HS trả lời: “Đề
tài luyện nói hôm nay Hỏi nhau về Vì sao bạn thích đi học? GV có thể hướng
dẫn HS như sau:
GV chia nhóm, yêu cầu nhóm đôi thảo luận theo hình thức: Một bạn hỏi, một
bạn trả lời. Để dễ nói, có thể đặt tên cho các nhân vật trong tranh.
8
Hỏi:Tranh 2: Vì sao bạn Hà thích đi học? Trả lời: Vì ở trường được học hát.
Các nhóm luân phiên nhau hỏi và trả lời. GV theo dõi nhận xét, bổ sung.
H: Vì sao bạn thích đi học?
T: Tôi thích đi học, vì ở trường có nhiều bạn bè. Còn bạn, vì sao bạn thích
đi học? H: Mỗi ngày được học mỗi bài mới nên tôi thích đi học.....
HS nào chưa nói được GV cho em đã nhắc lại câu bạn vừa nói. GV hỏi:
Em có thích đi học không? Vì sao?...GV gợi mở để HS trả lời. Tuyên dương HS
nói.
Lưu ý: để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và khi đàm
thoại nói riêng giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ ý,
diễn đạt gãy gọn và nói chuẩn tiếng phổ thông. Trong quá trình rèn luyện cho
học sinh phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí, những khó khăn mà học sinh gặp
phải để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều và mạnh dạn hơn.
Quá trình luyện nói phải bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức
độ khó lên theo thời gian qua từng câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà
quát nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết sức cởi mở, nhã nhặn, niềm
nở với các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn chấn giúp các em có
cảm giác thoải mái thì hoạt động nói mới diễn ra một cách thuận lợi. Những
trường hợp học sinh nói chưa đủ câu, trả lời chưa đúng ý giáo viên không được
gắt gỏng, quát nạt, chỉ trích hay chê trách mà động viên học sinh tiếp tục suy
nghĩ để có câu trả lời chính xác và hay hơn, giáo viên tiếp tục gọi học sinh đó
nói trước lớp. Đề nghị cả lớp tuyên dương nếu kĩ năng nói của học sinh đó có
tiến bộ.
2.3.1.3. Rèn kĩ năng nói đúng, nói đủ ý, thành câu thông qua hoạt động uyện
nói câu trong các bài tập.
Phần luyện nói trong các bài tập đọc giúp học sinh phát triển vốn từ, kĩ năng
nói tự nhiên, diễn đạt lời nói rõ ràng, mạch lạc và rèn cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp.
Luyện nói đúng, nói thành câu là nói trọn nghĩa cho người khác hiểu. Để học
sinh nói đúng người giáo viên phải thực hiện tốt các bước dạy sau:
Bước 1: Rèn cho học sinh phát âm đúng (Đúng phụ âm đầu, đúng vần,
đúng phụ âm cuối, đúng dấu thanh)
Bước 2: Luyện cho học sinh nói đúng câu có vần ôn tập, phát âm liền
mạch một lời nói (không nói lặp, không thiếu tiếng). Bước này tôi có thể vận
dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để giúp các em bước đầu phân biệt được
vần - tiếng (là từ đơn) - câu. Học sinh dựa vào các tiếng, từ chứa vần ôn tập vừa
tìm được để nói câu.
Chẳng hạn, khi hướng dẫn HS nói câu có tiếng chứa vần uôt hoặc uôc (Bài
tập đọc : “Chuyện ở lớp” -TV 1- Tập 2)[1]. Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện
các bước sau: a) Quan sát ví dụ: Cho học sinh đọc câu mẫu.
b) Phân tích ví dụ: ? Trong câu này tiếng nào có vần uôt?
Học sinh nêu tiếng có vần uôt trong câu:
9
- Giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét, nếu học sinh 1 trả lời chưa đúng,
chưa đủ câu thì giáo viên yêu cầu học sinh đó nói lại hoặc yêu cầu học sinh khác
sửa lại giúp bạn.
- Giáo viên khuyến khích học sinh nói câu có các tiếng từ chứa vần uôt( uôc)
tìm được ở trên. Yêu cầu cả lớp theo dõi, lắng nghe, nhận xét và giúp bạn sửa
sai. Giáo viên nhận xét, tuyên dương những học sinh nói tốt và những học sinh
có tiến bộ trong hoạt động nói câu.
Bước 3: Luyện cho học sinh nói đủ ý, đúng nội dung và nói chuẩn tiếng phổ
thông.
Để học sinh trả lời đủ câu, nói tốt về : người, vật, hành động , tính chất ...
thuộc phạm vi trường lớp, gia đình và môi trường xung quanh; có thói quen nói
đủ câu, giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý, VD: ai?, cái gì?, con gì?, là gì?, làm
gì?, như thế nào?....
Lưu ý: Các câu hỏi gợi ý của giáo viên phải rõ ràng, ngắn gọn. Nếu học sinh
không nói được thì giáo viên cho học sinh đó nhắc lại câu hỏi rồi mới trả lời lại.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh nói câu có vần uôt HS nói : vuốt tóc.
GV yêu cầu học sinh khác nhận xét và sửa cho HS bằng câu hỏi: Ai vuốt tóc
em?
HS trả lời: Mẹ .
GV yêu cầu HS nói đủ câu, GV hỏi lại : Mẹ làm gì?
HS trả lời: Mẹ vuốt tóc em. Lúc này giáo viên nhận xét, tuyên
dương động viên khuyến khích để HS khác mạnh dạn, hứng thú nói theo.
HS mà nhút nhát không chịu suy nghĩ tìm câu để nói GV gọi em đã nói lại câu
bạn vừa nói 2, 3 lần rồi hỏi: Câu có tiếng nào chứa vần uôt/ uôc?
Việc luyện nói cho học sinh là việc làm thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi
nơi chứ không phải chỉ ở lớp học, trong tiết học.
2.3.1.4. Rèn kĩ năng nói theo dạng kể trong kể chuyện:
Trong tiết ôn tập (ở phần học vần) sau chủ điểm trong tuần phần luyện nói
thường là hoạt động kể chuyện. Sau khi được nghe toàn bộ câu chuyện, từng
đoạn truyện theo tranh, giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp: trực
quan, hỏi đáp và luyện tập, giúp học sinh biết kể theo yêu cầu và kể được đoạn
truyện. Để các em có thể kể lại được một đoạn hoặc câu chuyện vừa nghe, trước
hết tôi thường nêu các câu hỏi gợi ý giúp HS nhớ được từng chi tiết trong truyện
theo trình tự . Ví dụ: Câu chuyện các con vừa được nghe kể về ai? HS: Trong
truyện có những nhân vật nào? Nhân vật đó là người như thế nào?Con thích
nhất chi tiết nào trong truyện ?.... Sau đó hướng dẫn học sinh luyện kể cho nhau
nghe trong vòng 3 phút. Các bước làm tương tự luyện nói theo chủ điểm.
Yêu cầu luyện nói trong kể chuyện cao hơn một chút so với luyện nói theo bài
học, chủ điểm. Để rèn kĩ năng nói cho học sinh trong kể chuyện, việc đầu tiên
giáo viên phải giới thiệu truyện, cho biết câu chuyện thường có các vai nhân vật,
vai dẫn truyện; do đó để tăng tính hấp dẫn, tôi cho HS làm quen với các giọng
khác nhau (giọng người kể, giọng nhân vật A, B...) qua giọng kể của mình. Đặc
điểm giọng kể phụ thuộc vào nội dung truyện, rồi kể mẫu, cho học sinh làm
10
quen với cách phân đoạn diễn biến tiếp bằng việc dừng lại sau một tình tiết nào
đã và đặt câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Một vài học sinh nêu phân đoạn
của mình (Em nghĩ, nó sẽ...”; Em không nghĩ như bạn..., nó sẽ...). Sau đó, giáo
viên cho HS luyện kể cho nhau nghe, HS thi kể trước lớp, nhận xét, đánh giá. Ở
giai đoạn này học sinh chỉ phải kể 1 đoạn. Học sinh nào chưa kể được giáo viên
nêu câu hỏi gợi ý để các em nhớ lại các chi tiết cơ bản trong truyện, từ đó giúp
các em kể lại được đoạn truyện theo yêu cầu.
Ví dụ: Kể chuyện: Thỏ và Rùa [1]. Đây là câu chuyện kể về việc gì? HS
quan sát tranh xem trong truyện có những nhân vật nào? GV kể, và hỏi? Rùa
đang làm gì?..Học sinh nói: đang tập chạy. Học sinh khác nhận xét. Giáo viên
yêu cầu HS nói lại đủ câu bằng câu hỏi: Con gì đang tập chạy?. Học sinh trả lời,
nhận xét, bổ sung, GV kể tiếp và hỏi : Thấy Rùa đang tập chạy, Thỏ nói gì với
Rùa? , nếu học sinh trả lời chưa đủ ý, yêu cầu học sinh khác nhận xét, chỉ ra chỗ
sai của bạn và giáo viên yêu cầu em nói sai nói lại cho đúng câu của mình.
Trường hợp học sinh không tự sửa được thì giáo viên yêu cầu học sinh khác sửa
giúp. Giáo viên là người nhận xét cuối cùng, khen, tuyên dương và khích lệ học
sinh....làm như vậy vừa gây hứng thú, vừa lôi cuốn sự chú ý cho học sinh luyện
nói và nhớ được truyện.
Với bài này tôi cho học sinh kể phân vai theo nhóm, hướng các em tập kể cho
phù hợp với lời nói của nhân vật trong truyện, tạo điều kiện để học sinh ở các
trình độ, các khả năng khác nhau ít nhiều được thực hành kẻ nói về nội dung câu
chuyện, khuyến khích học sinh không đọc thuộc lòng, có thể thêm từ, hoặc thay
từ khác nhưng không làm thay đổi nội dung câu chuyện.
2.3.2. Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học khác.
Đối với học sinh lớp Một, khả năng ghi nhớ của các em chưa được vững chắc,
dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt,
giáo viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu,
trôi chảy ở các môn khác.
Đối với môn Toán cần yêu cầu học sinh nói thành câu, đủ ý vì khi nói đầy đủ
người nghe sẽ hiểu được nội dung một cách trọn vẹn, giữ được ý nghĩa của bài.
Ví dụ 1: Ở môn Toán khi dạy bài : Phép cộng trong phạm vi 3 [3]
Giáo viên hỏi:+ Có 2 bông hoa, thêm 1 bông hoa nữa, tất cả có mấy bông hoa?
Nếu học sinh chỉ trả lời là “ba” thì chưa đầy đủ, giáo viên cần yêu cầu học sinh
sửa lại cho thành câu như sau:
+ Có 2 bông hoa, thêm 1 bông hoa nữa, có tất cả là 3 bông hoa ạ.
Ví dụ 2: Khi dạy bài : Gia đình- Bài 11-Môn TNXH lớp 1[4].
GV hỏi: Gia đình con gồm có mấy người? Đó là những ai? HS trả lời: “có 4
người”
GV yêu cầu học sinh sửa lại: Gia đình con có bốn người, đó là: bố, mẹ, con và
em trai con ạ.
Ví dụ 3: Khi dạy bài : Cảm ơn và xin lỗi - Bài 13 - Môn Đạo đức lớp 1[5]. :
Tôi đưa ra các tình huống ( theo mục tiêu yêu cầu và nội dung bài học)
11
? Hôm nay đi chợ về, bà mua cho em một chùm nhãn. Em nói gì khi nhận được
món quà của bà?
Hoặc: Nếu em lỡ tay dây mực làm bẩn vở của bạn. Em sẽ nói gì? Nói như thế
nào?
Tôi cho học sinh nối tiếp nhau nói câu của mình – Lớp theo dõi, nhận xét, giúp
bạn sửa lại câu nói chưa đủ, chưa đúng hoặc nói sai tiếng phổ thông.
2.3.3. Rèn kĩ năng nói thông qua việc sửa lỗi trực tiếp cho học sinh:
Hằng năm khi tuyển sinh vào lớp 1, để tạo sự gần gũi ban đầu và giúp các em
mạnh dạn hơn trước sự thay đổi mới, tôi thường có bài kiểm tra kĩ năng giao tiếp
của các em bằng một vài câu hỏi đơn giản, như: Con tên gì?, Hôm nay ai đưa
con đến trường?...Câu trả lời của các em thường chưa đủ ý: “Trần Văn Quang”;
“mẹ”... Tuy chưa vào bài học nhưng tôi đã lưu ý học sinh nói lại cho đủ câu.
Trong thời gian (khoảng 2 tuần) đầu năm học tôi hướng dẫn rõ ràng quy trình
của một giờ học tiếng Việt gồm những hoạt động nào, yêu cầu của từng hoạt
động này ra sao rồi cho các em thực hiện, đến đâu tôi nhắc nhở, uốn nắn đến đó
dần các em đã quen với nề nếp, cách thức học trong các hoạt động này và chất
lượng học tập ngày càng tiến bộ. Riêng ở hoạt động luyện nói tôi hướng dẫn rất
cụ thể các bước tiến hành như: Nhắc học sinh lắng nghe cô nêu yêu cầu, nêu
xong yêu cầu học sinh nhắc lại xem các em có nắm được nội dung cô yêu cầu
chưa, nếu chưa thì giáo viên giải thích thêm cho các em hiểu. Khi đó hiểu ra vấn
đề, giáo viên tiến hành cho các em tập nói theo nhóm nhỏ (nhóm đôi) trong lúc
các em nói, giáo viên đến các nhóm lắng nghe để giúp đỡ, uốn nắn cách nói cho
các em. Khi trình bày trước lớp nên cho các em nhận xét, tham gia sửa chữa để
rút kinh nghiệm lẫn nhau. Để gây hứng thú học tập cho học sinh, tôi thường tổ
chức cho các em luyện nói thông qua trò chơi: “Em tập làm phóng viên”
Với những học sinh nói đủ ý, mạch lạc, diễn đạt tốt thì giáo viên khuyến khích
các em duy trì và sáng tạo trong mọi tình huống.
Khi yêu cầu các em cùng nói về một vấn đề nào đó, có những em chỉ đưa ra
câu trả lời giống y như bạn chứ chưa sáng tạo nói theo suy nghĩ của mình để
tranh luận về vấn đề đó thì giáo viên nên động viên, gợi ý để các em nói khác đi
để nội dung bài nói được mở rộng, sâu sắc và sinh động hơn.
Đối với những học sinh thiếu tự tin rụt rè, ít nói thì giáo viên chia nhỏ câu hỏi
và hỏi nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các em; với
những trường hợp các em nói quá nhỏ cả lớp đều không nghe thấy thì giáo viên
sắp xếp cho các em ngồi bàn ở khoảng giữa lớp và giải thích cho các em hiểu là
nói nhỏ như thế thì các bạn không nghe và không tham gia xây dựng bài tốt
được, lớp học sẽ rất buồn chán. Từ đó yêu cầu các em nói lại, ở mỗi lần nói lại
thì yêu cầu các em nói to hơn, to hơn nữa, dần dần các em sẽ quen với âm lượng
nói thế nào là đủ nghe.
Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo
viên hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói
lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trong khi nói giáo viên phát hiện ra học sinh
12
phát âm sai, hay dùng từ không đúng trong một số trường hợp thì giáo viên cần
sửa chữa ngay và cho các em nói lại để ghi nhớ.
Ví dụ: Khi luyện nói câu chứa vần ôn tập, một số học sinh hay nói câu:
Bữa nay mẹ em mua cho em một chiếc áo len rất đẹp.; Bữa nay trời rất oi bức.;
Giáo viên lưu ý học sinh sửa từ “Bữa nay...” thành “ Hôm nay...” để câu nói
nghe chuẩn hơn, hay hơn.
2.3.4. Rèn kĩ năng nói qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và trong
giao tiếp hằng ngày.
Ngoài giờ học, trong giao tiếp hằng ngày giữa giáo viên và học sinh, giữa
học sinh và học sinh, giáo viên cũng phải hết sức chú ý phát hiện và sửa chữa
kịp thời khi các em nói trống không, không đủ ý, xưng hô không phù hợp, ngôn
ngữ diễn đạt còn lộn xộn, ở mọi nơi, mọi lúc.
Thông thường , trong giờ ra chơi tôi thường ngồi lại trong lớp và trò chuyện
cùng một nhóm học sinh , trong khi trò chuyện tôi thường hỏi han về những điều
gần gũi nhất với các em, như: món ăn mà các em thích, những trò chơi mà các
em thường chơi cùng bè bạn, những công việc nhà mà các em thường làm để
giúp đỡ ông bà, cha mẹ,...
Ví dụ: + Hôm nay ai đưa con đi học? (Hôm nay bố đưa con đi học)
Em thích học nhất là môn nào ? (Môn Toán là môn em thích học nhất)
hoặc em thích học nhất là môn Toán.
Ở nhà, ngoài giờ ôn bài con thường giúp ông bà, bố mẹ làm những công việc
gì?
Hoặc có khi là những câu hỏi cho chủ đề luyện nói vừa học, ví dụ: Khi học xong
bài tập đọc “Hoa ngọc lan”[1],trong giờ học, tôi khuyến khích 100% học sinh
trong lớp luyện nói câu: Con biết loài hoa nào? Đa số học sinh đã biết nói đủ
câu, tuy nhiên vẫn còn một vài học sinh (em Đô, em Quang) trả lời: hoa hồng,
hoa cúc, hoa mai,.....Đối với những trường hợp này tôi yêu cầu các em nói lại
cho đủ ý và nêu một câu hỏi khác để kiểm tra lại kĩ năng nói của các em đó
trong giờ ra chơi. Cùng trò chuyện với các em, tôi hỏi: Em hãy nói một câu về
một loài hoa mà em biết?. Khi học sinh A nói, các bạn trong nhóm bạn chơi
lắng nghe, nhận xét và giúp bạn sửa lỗi. Nếu bạn nói chưa đủ câu hoặc nói chưa
chuẩn như: “ Bữa nay mẹ em cắm một bình hoa hồng”, học sinh B sửa lại:
“Hôm nay, mẹ em cắm một bình hoa hồng rất đẹp”, “ Bố em mua một cây hoa
đào về chơi tết”. Đối với những học sinh nói đúng, nói hay, nói tốt tôi cho cả
nhóm bạn tuyên dương, khuyến khích bạn.
Trong các buổi sinh hoạt cuối tuần hoặc các buổi giao lưu văn nghệ, chơi trò
chơi, thi kể chuyện, hùng biện trước mọi người … ; khi yêu cầu các em trả lời,
hát hoặc tham gia trò chơi không nên đặt nặng vấn đề thắng thua hay phân loại
cao thấp mà cố gắng động viên các em nên hòa đồng thể hiện hết khả năng của
mình trước lớp, trước khán giả. Bên cạnh đó giáo viên và các bạn nên kịp thời
ghi nhận và tuyên dương sự tiến bộ để các em cảm thấy tự tin, mạnh dạn hơn.
Hướng dẫn học sinh tự luyện nói, viết đúng tiếng phổ thông. Khuyến
khích học sinh phát hiện bạn nói, viết chưa chuẩn và giúp nhau sửa lỗi.
13
Hướng dẫn các nhóm học sinh chủ động “chơi mà học, học mà chơi” trong
thời gian ra chơi; phát huy vai trò của Hội đồng tự quản trong việc kiểm tra, điều
chỉnh nói, viết Tiếng Việt của các bạn trong lớp ở 15 phút đầu giờ. Quan tâm
ngay sau khi học xong các bài học có liên quan đến đọc, viết các âm, vần và dấu
thanh dễ lẫn tổ chức cho học sinh được luyện tập ghi nhớ luôn.
Tổ chức mỗi tuần cho học sinh thi nói, viết câu có nội dung liên quan đến
bài tập đọc.
Trong các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, tôi vận dụng linh hoạt các phương
pháp và hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh như: thi nói, viết đúng Tiếng
việt; thi nói hay, kể chuyện diễn cảm,..
Hướng dẫn các em tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp do Đội thiếu niên
tổ chức cho học sinh được tham gia nhiều các hoạt động giáo dục, hướng dẫn
các em biết nhận ra và tích cực sửa chữa những lỗi nói, viết chưa đủ câu, chưa
chuẩn tiếng phổ thông của bản thân; biết bày tỏ ý kiến của bản thân, tự tin và
mạnh dạn hơn trong học tập và giao tiếp.
2.3.5. Rèn tư thế nói cho học sinh:
Ngay từ buổi đầu tiên, muốn học sinh nói đúng, thoải mái, tự tin, tôi chú ý
ngay đến tư thế nói của từng em. Nhiều em khi nói, đứng còn gò bó, tay giơ lên,
miệng nói lắp bắp, run run sợ nói sai,....Để giúp những em này thoải mái, tự tin
nói rõ ràng, mạch lạc, trước hết giáo viên phải giải thích cho các em hiểu cần
đứng đúng tư thế để có lợi cho sức khoẻ, tự tin khi nói. Nếu đứng không ngay
ngắn mất tự tin sẽ không tập trung vào nội dung cần nói....Sau đó giáo viên làm
mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế đứng tay phải thả lỏng, hai chân
đứng thẳng song song, thoải mái. Tôi luôn khuyến khích cho các em thực hiện,
bạn nào đứng đúng nhất được cô tuyên dương trước lớp. Trong các tiết học tiếp
theo, tôi luôn nhắc nhở để các em nhớ đứng đúng, tạo thói quen cho học sinh.
2.3.6. Rèn cho học sinh có kĩ năng học nhóm.
Trong quá trình dạy học tôi không chỉ tổ chức cho các em học nhóm và thi đua
trên lớp mà tôi còn tổ chức cho các em thi đua học nhóm ở nhà. Ngay từ đầu
năm học tôi đã chia lớp thành 6 nhóm; mỗi nhóm có 1 tổ trưởng, những học sinh
trong nhóm đều ở gần nhà nhau, cùng thôn với nhau để tiện cho việc học tập
trung, nhóm trưởng là những học sinh nói diễn đạt lưu loát, rành mạch với mục
đích học sinh hoàn thành tốt kèm học sinh chưa hoàn thành.
Với phương pháp và hình thức tổ chức này không những giúp cho các học sinh
có tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ ở mọi lúc mọi nơi mà còn tạo
cơ hội, tạo điều kiện cho các em học sinh hoàn thành kém, học sinh chưa hoàn
thành mà bố mẹ đi làm ăn xa hay không biết chữ. Không những thế mà phương
pháp này còn giúp những học sinh nhút nhát, chưa tự tin khi phát biểu, bày tỏ ý
kiến cá nhân, khi trao đổi bài, hoà nhập và mạnh dạn để phấn đấu học tập.
Để hưởng ứng phong trào thi đua Đôi bạn cùng tiến có hiệu quả cao tôi thường
xuyên cho Ban học tập kiểm tra các nhóm vào đầu buổi học, sau ngày học hoặc
sau các ngày nghỉ. Khi kiểm tra tôi có khen, chê, nhắc nhở kịp thời và thưởng
14
những bông hoa có lời khen vào cuối tháng nhằm giúp các em có hướng phấn
đấu trong học tập.
Chú trọng lồng ghép việc khắc phục nói chưa đủ câu, nói chưa chuẩn tiếng
việt trong thực hiện đề án “Xây dựng trường học gắn thực tiễn và giáo dục kỹ
năng sống”. Hướng dẫn và rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua việc
chào hỏi, giao tiếp với thầy cô giáo, giữa trò với trò, nhắc nhở bạn khi bạn nói
chưa đủ câu, chưa đúng chuẩn tiếng phổ thông.
2.3.7.Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy hoạt động nói nhằm đạt hiệu quả
thiết thực.
Người giáo viên phải căn cứ vào yêu cầu về tốc độ và chất lượng của hoạt
động nói cho từng giai đoạn (Chẳng hạn: giữa học kì I các em nói được 1 -2 câu;
cuối kì I nói được 2 - 3 câu; giữa học kì II các em nói được từng hoạt động trong
tranh theo chủ đề; cuối học kì II các em nói được những hoạt động trong và có
liên hệ 1 - 2 câu tuỳ ở học sinh). Đặc biệt cần phải căn cứ vào đối tượng học
sinh cụ thể để vận dụng các hình thức, biện pháp dạy học và qui trình dạy một
cách linh hoạt.
Muốn rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh được tốt trước hết phải chú ý đến
cách nói mẫu của giáo viên. Qua việc nói mẫu của giáo viên các em có thể bắt
chước nói đúng và từ, từ ngữ đến giọng điệu. Đồng thời người giáo viên phải
biết kết hợp nhiều biện pháp và sử dụng hợp lý các phương pháp mới có chất
lượng cao. Người giáo viên nói mẫu đòi hỏi phải nói đúng, rõ ràng, mạch lạc,
phù hợp. Đó là thể hiện giọng điệu, đủ ý, biểu cảm, thể hiện sự gần gũi, thân
thiện, cởi mở. Đối với lớp có nhiều học sinh kĩ năng giao tiếp còn yếu giáo viên
phải hướng dẫn cho các em nói từng từ, từng câu, rồi đến nói từng chủ đề. Tổ
chức cho các em nói theo nhiều hình thức như: nói cá nhân, nói theo nhóm,
theo dãy bàn, nói đồng thanh,….
Người giáo viên có tâm huyết với nghề, thực sự yêu thương học sinh luôn biết
kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học để phát huy tính chủ
động sáng tạo của học sinh. Luôn học hỏi những đồng nghiệp có kinh nghiệm
tìm ra phương pháp dạy học có hiệu quả để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Đặc biệt trong quá trình dạy học giáo viên phải chú ý đến cả 3 đối tượng học
sinh, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp tác động kịp thời, thích hợp
có hiệu quả. Hình thành cho học sinh thói quen có ý thức tự học, tự đọc, tự bồi
dưỡng.
Không những thế giáo viên còn phải dạy đúng chương trình, đúng dạng bài
học. Phân bố thời gian hợp lí trong từng tiết học, bài học giúp học sinh có thời
gian tự rèn nói cho bản thân; vận dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp với
từng đối tượng học sinh. Biết giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Trước khi lên lớp
giáo viên phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, không quên coi học sinh là trung tâm
của thị trường giáo dục. Kết hợp việc dạy học với việc sử dụng đồ dùng dạy học
nâng cao chất lượng việc nghe - nói cho học sinh nhằm gây hứng thú cho các
em trong từng tiết học.
15
Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên liên hệ với gia đình, tạo mối quan hệ chặt
chẽ giữa Nhà trường - Gia đình và Xã hội. Quan tâm nhiều đến những học sinh
có hoàn cảnh khó khăn, thiếu đồ dùng, sách vở học tập; Phối hợp với Đội thiếu
niên, nhờ sự hỗ trợ của Công đoàn, nhà trường và Hội khuyến học thôn, xã,...
kêu gọi học sinh quyên góp sách giáo khoa cũ để tạo điều kiện cho các em học
tập tốt hơn.
2.3.8. Tăng cường nhận xét, đánh giá, khích lệ học sinh.
Thường xuyên đánh giá sự tiến bộ của học sinh là một yêu cầu quan trọng của
Thông tư 22. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của hoạt động nói trong giờ dạy
Tập đọc, việc theo dõi nhận xét đánh giá, sửa sai cho học sinh là rất cần thiết, rất
quan trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ nói đúng để lần sau
không bị mắc lỗi sai đó.Có nhiều hình thức theo dõi nhận xét, sửa sai, khi dạy
thì thường sử dụng biện pháp như sau:
Trước khi học sinh nói câu, trả lời câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh theo
dõi bạn trả lời, nói phát hiện lỗi sai, sửa sai, sau đó cho các em tự kiểm tra bài
cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau) nói cho nhau nghe theo sự hướng dẫn của giáo
viên. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời nhắc nhở bạn sửa lại ngay. Sau
đó, các em nêu kết quả mình được kiểm tra bạn khi nói, hỏi, trả lời. Giáo viên
tuyên dương những bạn không sai lỗi nào, đồng thời sửa những lỗi sai cơ bản
mà nhiều học sinh thường mắc phải. Việc đánh giá kết quả nói, giáo viên cần
đảm bảo tính động viên, khích lệ, coi trọng sự tiến bộ của học sinh. Chọn học
sinh của nhóm nói tốt nhất nói lại cho cả lớp học tập.
Với biện pháp trên, tôi thấy việc học sinh tự chữa lỗi có những điểm tích cực
sau:
Các em có điều kiện để tái hiện lại kĩ năng nói rõ ràng, mạch lạc, mạnh dạn tự
tin, đủ ý, đủ câu cho mỗi trường hợp. Tạo được sự mạnh dạn, hứng thú học cho
học sinh khi trả lời câu hỏi, hoặc luyện nói theo tranh, theo chủ điểm.
Học sinh được hoạt động nhiều, biết nghe, biết quan sát, theo dõi bạn nói, biết
đánh giá nhận xét khi bạn nói. Tạo cho học sinh được thói quen tự giác tích cực
học tập. Trường hợp, những em học sinh yếu, thường xuyên trả lời cộc lốc, nói ê
a, ngắc ngứ, lúng túng thì thường không phát hiện được lỗi của bạn. Đối với
những em này, giáo viên đi đến từng em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp
các em có thể nắm được cách trả lời đầy đủ và chính xác.
Cũng qua đó, hình thành ở các em ý thức tự giác, mạnh dạn, trách nhiệm
của các em với nhiệm vụ được giao. Tạo cho các em thói quen và ý thức khi trả
lời câu hỏi, luyện nói câu có chứa vần đã hoc, nói theo chủ điểm. Giáo viên luôn
tuyên dương và khuyến khích những em nói tốt, mạnh dạn, nói to rõ ràng. Chính
vì thế chỉ một thời gian không lâu tôi đã thu được kết quả đáng khả quan. Ngoài
những việc luyện nói ở tiết Tập đọc tôi luôn quan tâm nhắc nhở các em cần phải
trả lời đủ ý thành câu ở tất cả các môn học khác như trả lời tìm hiểu yêu cầu bài
toán, đề bài toán của bài toán, Tập viết, đạo đức,…và tóm lại, cứ khi nào có câu
hỏi các em phải trả lời đầy đủ ý thì dần dần các em mới quen được. Trong các
16
tiết dạy, phát hiện học sinh nào nói có tiến bộ, giáo viên kịp thời tuyên dương
trước lớp nhằm khuyến khích các em tiếp tục phát huy để tiến bộ hơn.
Từng tuần, từng tháng tôi tổ chức cho học sinh trong lớp thi nói đúng, phát
âm chuẩn, nói to, rõ ràng, giám khảo là những tổ trưởng, giáo viên giám sát học
sinh, theo dõi và nhận xét cách nói của từng học sinh, tổ nào có nhiều bạn nói tốt
thì tổ đó dành được nhiều điểm thi đua và ghi thành tích thi đua của tổ.
2.3.9. Rèn kĩ năng nói thông qua phối kết hợp với gia đình:
Bên cạnh các biện pháp trên tôi không quên biện pháp rất quan trọng đó là
thường xuyên gặp trực tiếp với phụ huynh học sinh để trao đổi phương pháp,
cách dạy, hướng dẫn con em mình luyện nói ở nhà.
Ngay buổi họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã chỉ cho phụ huynh thấy rõ
tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của cách nói và xưng hô của phụ huynh trước
con trẻ như thế nào khi ở nhà; Và tầm quan trọng của việc luyện nói, nói thành
câu và nói, viết tiếng Việt chuẩn tiếng phổ thông trong trường học. Nêu một số
lỗi cơ bản mà học sinh thường mắc trong giao tiếp cũng như trong câu trả lời
liên quan đến nội dung bài học của các em, phân tích để phụ huynh nắm được
cách hướng dẫn và nhắc nhở con, em mình nói đúng, nói đủ câu.
Không những thế tôi thường gặp gỡ thường xuyên và giúp gia đình hiểu
được rằng lo lắng, thương yêu con không chỉ lo cho con cái ăn, cái mặc là được
mà phải sắp xếp thời gian ở bên con động viên, chia sẻ và giúp đỡ kịp thời
những chuyện vui buồn trong cuộc sống thì nhân cách của các em mới phát triển
toàn diện được. Thường xuyên tiếp cận và tác động tích cực để gia đình nhận
thức một cách đúng đắn về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng
nói nói riêng. Bên cạnh việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực
sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi
người xung quanh để các em học tập, noi theo.
Từ đó phối hợp hướng dẫn phụ huynh cùng tham gia khắc phục nói, viết Tiếng
Việt chưa đủ câu, chưa chuẩn tiếng phổ thông. Thực hiện tốt được công tác phối
hợp phụ huynh cùng tự sửa lỗi nói, viết đúng chuẩn sẽ có hiệu quả tác động trực
tiếp tới học sinh nhiều hơn bởi ngoài giờ học, học sinh tiếp xúc, học hỏi và ảnh
hưởng từ cha mẹ rất nhiều.
Thường xuyên thông tin 2 chiều với phụ huynh trong việc kiểm tra, đánh giá
kết quả khắc phục nói, viết chuẩn tiếng phổ thông của học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện khảo sát tại lớp 1B cũng như trao
đổi phương pháp với đồng nghiệp.Tiến hành dạy thực nghiệm ngày: 4/ 3/ 2018
Từ những biện pháp như tôi đã nêu trên chất lượng hoạt động nói trong
giờ dạy Tập đọc được nâng lên rõ rệt, khảo sát chất lượng nói qua hai thời điểm
khác nhau của lớp 1B tôi thấy kết quả như sau:
Chất lượng nói của học sinh qua 2 thời điểm:
17
Lớp
Sĩ số
học sinh
Số HS nói mạch Số học sinh
lạc, diễn đạt tốt
nói đủ ý
SL
9
12
%
SL
8
14
%
Số HS nói Số HS nhút nhát, ít
chưa đủ ý
phát biểu
SL
11
4
%
SL
4
2
%
28.1
25
34.4
12.5
37.5
43.8
12.5
6.2
Từ hai thời điểm khảo sát trên, tôi thấy việc áp dụng những biện pháp
nêu trên để rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 nói chung và cho lớp tôi nói riêng
đã đem lại kết quả cao, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Với vai trò là
Tổ trưởng tổ chuyên môn, tôi không chỉ vận dụng phương pháp này vào việc rèn
kĩ năng nói cho học sinh lớp mình mà còn trao đổi, truyền đạt cho đồng nghiệp
vào các buổi sinh hoạt chuyên môn, giờ thao giảng rút kinh nghiệm ở trường
tham khảo, vận dụng vào việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 và cho học sinh
toàn trường. Sau một thời gian vận dụng các lớp đã khảo sát kiểm tra nói của
học sinh đạt được kết quả như sau:
Tuần 22
Tuần 28
32
32
Sĩ số
Lớp
học sinh
Số HS nói mạch lạc, Số học sinh nói
diễn đạt tốt
đủ ý
SL
11
10
9
11
%
SL
11
13
10
13
%
Số HS nói
chưa đủ ý
SL
4
5
6
4
%
Số HS nhút nhát,
ít phát biểu
SL
2
3
2
3
%
28
39.3
39.3
14.3
7.1
31
32.3
41.9
16.1
9.7
27
33.3
37.1
22.2
7.4
31
35.5
41.9
12.9
9.7
Sau 28 tuần dạy và học, tôi rất vui khi kết quả khảo sát trên đạt rất cao.
Trong số học sinh còn nói ê a, ngắc ngứ đến nay các em đó nói lưu loát, các em
đã nắm được cách trả lời. Ngoài chất lượng đạt được trên việc rèn kĩ năng quan
sát, luyện nói còn giúp các em có tác phong tự tin, mạnh dạn khi giao tiếp, tiếp
xúc với mọi người.
Bằng tâm huyết của mình tôi đã thực hiện tốt các biện pháp đề ra, qua thời
gian thực hiện kết quả đạt được rất khả quan. Giờ đây trong hoạt động luyện nói
phần lớn các em đã tự giác giơ tay để phát biểu, nói đủ nghe, diễn đạt vấn đề khá
gãy gọn, những em nhút nhát, ít giao tiếp, ít trả lời cũng đã nói được thành câu
đơn giản và giải thích sự việc theo ý hiểu của mình chứ không rụt rè, nhút nhát
như trước. Đó là điều làm cho tôi cảm thấy rất vui vì đã uốn nắn được các em
phát huy theo hướng tích cực. Càng đáng mừng hơn là thành tích đó cũng được
phát triển theo thời gian.
Sở dĩ, có những kết quả trên là do Ban giám hiệu nhà trường, Tổ chuyên
môn và các bạn đồng nghiệp luôn tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ, giáo viên luôn
chăm lo cho việc trả lời của học sinh, tổ chức tốt các phong trào thi đua “Nói lời
hay, làm việc tốt” ở các khối lớp, duy trì việc đánh giá, nhận xét kĩ năng nói
hàng tiết, hàng giờ học, hàng tuần, hàng tháng, hàng kì. Và một phần đóng góp
không nhỏ nữa là do sự nổ lực phấn đấu của chính bản thân các em trong suốt
quá trình học tập và rèn luyện. Nhiều em đầu năm nhút nhát không dám nói, nói
1A
1C
1D
1E
18
chưa đủ ý, nói chưa đủ câu, nói ê a, lắp bắp. Nhưng được sự chỉ bảo tận tình của
cô các em đó đọc tốt hơn. Đặc biệt cho đến thời điểm này học sinh lớp tôi chủ
nhiệm không chỉ nói đủ câu mà nhiều em còn nói rất hay, nói đúng, nói chuẩn
Tiếng Việt theo tiếng phổ thông, phân biệt tốt thanh hỏi/ thanh ngã, các phụ âm
đầu và nguyên âm đôi....Sự tiến bộ của các em là thành công lớn của tôi và là
nguồn động viên, khuyến khích tôi càng hăng say thực hiện mong muốn của
mình và là động lực giúp tôi viết lên sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng
luyện nói cho học sinh lớp 1”
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Kĩ năng luyện nói của học sinh Tiểu học nói chung và của học sinh lớp Một nói
riêng có một vị trí quan trọng trong việc đánh giá trình độ giao tiếp, nhận thức
của người học, đánh giá sự phát triển văn hoá của một dân tộc. Đây là yêu cầu
cần thiết trong việc hình thành nhân cách và rèn luyện thói quen cho học sinh
tiểu học. Để nâng cao chất lượng hoạt động nói trong giờ dạy Tập đọc thì việc
luyện nói cho các em là rất cần thiết.
Chất lượng về kĩ năng nói của học sinh không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố
chủ quan (năng lực cá nhân, khả năng kiên trì tự rèn luyện, nghiệp vụ sư phạm
của giáo viên) mà còn có sự tác động của những yếu tố khách quan (điều kiện
phương tiện phục vụ cho việc dạy và học Tập đọc: sách, chữ viết của giáo viên
trên bảng và ngôn ngữ…giao tiếp của giáo viên hằng ngày). Thực tế cho thấy để
nâng cao chất lượng nói cho học sinh lớp 1 cần áp dụng nhiều phương pháp dạy
học một cách linh hoạt trong tiết dạy, phù hợp với từng đối tượng học sinh, gây
được hứng thú cho các em, giúp các em khắc phục tình trạng nói quá nhanh, quá
chậm, nói ê a, nói không đủ ý; biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên
những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây ngô của con mắt trẻ thơ. Việc
rèn nói cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực và sự chuẩn bị chu
đáo, chủ động đánh giá sự tiến bộ của học sinh một cách thường xuyên trong
quá trình dạy học, phải linh hoạt về hình thức tổ chức lớp học để khơi gợi, kích
thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ
năng nói của các em, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự
tin hơn trong quá trình giao tiếp, giúp học sinh có được niềm tin học tập, phấn
đấu vươn lên cùng bạn. Giáo dục ở các em tinh thần tự giác, trung thực và ý
thức cao trong quá trình học tập cụ thể là việc rèn luyện để có kĩ năng nói tốt.
Do vậy việc áp dụng những biện pháp để nâng cao kĩ năng nói cho học sinh lớp
Một nói riêng, cho học sinh Tiểu học nói chung như đã nêu trên là việc làm rất
cần thiết và có hiệu quả thiết thực đến phong trào giáo dục trong trường và ở địa
phương.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Với Phòng GD & ĐT: Nếu được sự nhất trí và quan tâm, góp ý nhiều
hơn nữa, bản thân sẽ tiếp tục nghiên cứu, học hỏi, bồi dưỡng tìm thêm biện pháp
tối ưu để rèn kĩ năng nói cho học sinh các lớp sau tốt hơn.
3.2.2. Với chính quyền địa phương:
19
Quan tâm, khuyến khích hơn nữa tạo ra các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt
ở nhà trường.
Hội khuyến học của xã, của thôn qua loa truyền thanh, thường xuyên nhắc nhở
học sinh trong xã, trong thôn vào bàn học đúng giờ quy định của buổi tối. Động
viên các em ôn bài và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp, đặc biệt là đối với học
sinh lớp 1.
3.2.3. Với nhà trường:
Duy trì kế hoạch chọn lựa giáo viên dạy lớp 1 có lòng nhiệt tình tâm huyết với
nghề, có năng lực chuyên sâu, nói đúng, nói chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ
thông, trình bày bảng đẹp và khoa học để học sinh được tiếp cận với cái hay cái
đẹp ngay từ buổi học đầu tiên.
3.2.4. Với giáo viên:
Mỗi thầy, cô giáo phải coi hoạt động luyện nói cho học sinh là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình dạy học. Nghiên cứu bài dạy trước khi lên
lớp. Thực hiện đầy đủ, linh hoạt các thao tác, tuân thủ đúng quy trình bài dạy.
Biết vận dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp
mình và điều kiện thực tế của nhà trường, của địa phương. Đối với những giáo
viên nói chưa chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ thông cần có ý thức tự giác rèn
luyện để khắc phục, phải coi kĩ năng nói của mình như một đồ dùng trực quan
trong quá trình luyện nói cho học sinh, từ đó để tự hoàn thiện mình.
3.2.5. Với phụ huynh học sinh:
Quan tâm, giúp đỡ con em mình trong quá trình học tập và rèn luyện một cách
thường xuyên, liên tục. Tạo điều kiện để con em mình có thời gian học và tự học
ở nhà. Trang bị đầy đủ trang thiết bị đồ dựng học tập: mua đầy đủ sách, vở.
Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với thầy cô giáo, với nhà trường để nắm bắt
thông tin của con em mình, biện pháp khắc phục những yếu khuyết điểm trong
học tập, đặc biệt là kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp một cách kịp thời để các em
nhanh tiến bộ .
Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đã ra một số
biện pháp để nâng cao kĩ năng nói cho học sinh qua giờ Tập đọc lớp 1 trong đề
tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng rèn nói cho học sinh lớp 1”. Trong quá trình
nghiên cứu do thời gian có hạn, kinh nghiệm còn ít không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn bè đồng nghiệp;
của Ban giám hiệu nhà trường và lãnh đạo các cấp để đề tài của tôi được hoàn
thiện và thành công hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 2 tháng 4 năm 2018
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ.
Tôi xin cam đoan Sáng kiến này là của tôi, do
tôi tìm hiểu và viết. Không sao chép nội dung
của người khác.
Nguyễn Thị Hồng
20