Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn một số kinh nghiệm dạy học nhằm nâng cao chất lượng phân môn tập đọc lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.08 KB, 14 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc
Tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho học sinh, việc
học Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ.
Thông qua môn Tiếng Việt sẽ hình thành cho học sinh năng lực hoạt động ngôn
ngữ đặc biệt là hình thành cho các em các kĩ năng : Nghe, nói, đọc, viết; học
sinh sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách
chính xác và biểu cảm… Ngoài ra, tầm quan trọng của Tiếng Việt ở bậc tiểu
học còn hướng đến việc hình thành các kỹ năng mềm, kỹ năng sống cần thiết
cho trẻ. Nội dung kỹ năng sống được thể hiện ở tất cả các nội dung của môn
học. Những kỹ năng đó chủ yếu là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ
năng suy nghĩ sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng làm chủ bản thân,…
Thông qua các kỹ năng này sẽ giúp trẻ nhận biết được những giá trị tốt đẹp
trong cuộc sống, biết tự nhìn nhận đánh giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng
và không ngừng vươn lên trong học tập cũng như cuộc sống. Tiếng Việt sẽ dạy
trẻ biết cách giao tiếp, ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân,
với cộng đồng và với môi trường tự nhiên, biết sống tích cực, chủ động trong
mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh.
Tập đọc là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nó có vị trí rất quan
trọng, là công cụ để hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy,
để trẻ tiếp thu các môn học khác.
Phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một
nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ Tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc
diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một
vốn văn học đáng kể cho trẻ em. Cũng thông qua các bài văn học, học sinh được
hiểu thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được các truyền thống quý báu
của dân tộc.
Đọc thật sự cần thiết cho con người, không phải chỉ đối với học sinh Tiểu
học. Vì vậy đọc trở thành một đòi hỏi đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu
tiên trẻ phải học đọc, đọc để lĩnh hội tri thức, đọc để học các môn học khác.


Hiện nay các em, đặc biệt là học sinh vùng nông thôn chưa có thói quen
đọc sách, chưa thích đọc sách, có đọc là đọc các mẫu chuyện vui, truyện tranh,
quảng cáo. Các em chưa biết đọc để có hiểu biết về những gì đang diễn ra hàng
ngày trên thế giới, đọc để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, đọc để phục vụ cho
học tập vì thế vốn hiểu biết của các em rất nghèo nàn. Vì vậy giúp các em có
thói quen đọc, đọc suốt đời là cả một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.
Từ những vấn đề đặt ra ở trên và thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học
Quảng Cát, thành phố Thanh Hóa tôi rất băn khoăn, trăn trở và tìm cách thực
hiện làm thế nào để các em đọc đúng, đọc tốt, đọc diễn cảm và có thói quen đọc.
Những trăn trở, băn khoăn ấy đã được đền đáp khi áp dụng “Một số kinh
nghiệm dạy học nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc lớp 3”.

1


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập
đọc ở lớp 3 .
Tìm hiểu nguyên nhân đọc sai để xác định nội dung dạy tập đọc.
Phân tích thực trang đọc sai về những lỗi nào: Sai do phương ngữ, sai do
phát âm hay sai do lí do nào khác,..
Bổ sung cách phát âm, cách luyện đọc, luyện đọc từ ngữ, luyện đọc câu.
Nêu được các bài tập ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên mà học sinh
mình hay mắc phải để luyện đọc và khắc phục dần cho học sinh.
Giáo viên phải phát âm đúng, đọc đúng, đọc diễn cảm để phát huy tính
tích cực của học sinh.
Nâng cao nghiệp vụ sư phạm của bản thân. Rèn kỹ năng viết đề tài nghiên
cứu khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: Dạy học tốt phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 3.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp khảo sát thực tế.
Phương pháp thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê,phân tích, xử lý số liệu.
Phương pháp vấn đáp.
1.5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu và hoàn thành dựa trên chương trình phân môn
Tập đọc của môn Tiếng Việt lớp 3. Do trình độ và thời gian có hạn nên phạm vi
nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc nêu ra “Một số kinh nghiệm dạy học nhằm nâng
cao chất lượng phân môn Tập đọc lớp 3”.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Thuật ngữ “Đọc” chính là một quá trình “nhận thức” phức tạp của việc
giải mã các biểu tượng để tạo ra ý nghĩa. Đọc không chỉ là “đánh vần” phát âm
thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết, cũng không chỉ là quá trình nhận
thức để có khả năng thông hiểu những gì đọc được. Đó chính là một sự tổng hợp
của cả hai quá trình. Đọc đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các yếu tố như tiếp
nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm và cơ quan thính giác.
Dạy Tập đọc là dạy cho học sinh kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh
được văn bản, biết đọc đúng là biết chiếm lĩnh được kiến thức, sẽ tiếp nhận và
xử lí được thông tin. Cái cuối cùng của dạy Tập đọc là giúp người đọc biến đổi
chính xác và ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự thành kí hiệu âm thanh đồng
thời thông hiểu được những gì đã đọc. Mục đích chính của dạy Tập đọc là giúp
học sinh vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt Nam thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm

2



thanh. Tuy nhiên theo nguyên tắc dạy Tập đọc ta vẫn phải chấp nhận một số
cách phát âm của một số vùng miền.
Là một giáo viên mà không nhận thấy được những lỗi và những khó khăn
mà học sinh gặp phải thì dạy Tập đọc sẽ không hiệu quả. Như vậy để đạt được
chất lượng dạy Tập đọc cao hơn và phù hợp với nguyên tắc dạy Tập đọc, chúng
ta cần phải sửa cho học sinh một số lỗi cơ bản mà ở vùng các em không đáng
mắc phải, nghĩa là phải thừa nhận việc dạy đọc theo vùng . Dạy học theo khu
vực là nội dung giảng dạy phải sát với phương ngữ. Nói cách khác nó phải đựơc
xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi của học sinh ở từng trường, từng địa
phương để hình thành nội dung bài dạy. Ở một số mức độ nào đó có thể lược bớt
nội dung ở sách giáo khoa xét thấy không phù hợp với học sinh vùng mình
giảng dạy đồng thời bổ sung những nội dung cần thiết mà sách giáo khoa chưa
đề cập đến.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trên thực tế khi dạy Tập đọc lớp 3, tôi nhận thấy chất lượng đọc của học
sinh còn hạn chế. Đa số học sinh đọc chưa to, rõ ràng văn bản, ngắt nghỉ nhiều
khi chưa hợp lí, đọc sai chính tả do phương ngữ, do ngọng. Nhiều em chưa biết
thể hiện giọng đọc, trả lời câu hỏi chưa tách khỏi văn bản mà dường như đọc
một phần nào đó của bài để trả lời, chưa nắm được nội dung bài.
Đối với sự quan tâm, phối hợp của phụ huynh: Đa phần phụ huynh trong
lớp làm nông nghiệp hoặc công nhân, họ không có nhiều thời gian để chăm lo
việc học tập cho con em mình. Một số phụ huynh nhận thức còn nhiều hạn chế,
định hướng học tập cho con chưa rõ ràng. Mặt khác, một số phụ huynh cho rằng
với phân môn Tập đọc con em mình chỉ cần biết đọc là được, học Toán quan
trọng hơn.
Đối với học sinh: Tuy thuộc địa bàn thành phố nhưng Quảng Cát là vùng
thuần nông xa trung tâm thành phố nên ít nhiều cũng ảnh hướng đến việc phát
âm tiếng địa phương, mặt khác các em còn bị ảnh hưởng bởi quan điểm của gia
đình “chỉ cần đọc thông viết thạo là được”. Ngoài ra, khả năng nhận thức của
học sinh chưa đồng đều, hoạt động tư duy của từng em khác nhau. Học sinh

cũng thường thích học Toán hơn, vì vậy khi học Tập đọc các em chưa chú trọng
lắm.
Đối với giáo viên: Bản thân giáo viên cũng có lúc chưa cảm nhận hết được
dụng ý của tác giả, chưa hướng dẫn học sinh học một cách sát sao, chỉ coi trọng
một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ, phát âm đúng hoặc có hướng dẫn đọc diễn
cảm nhưng chỉ lướt qua, việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh còn ít. Thời gian
dành cho việc hiểu văn bản chưa nhiều.
Nhận thấy thực trạng trên, tôi đã kiểm tra tình hình thực tế ban đầu (vào
đầu năm học) khi chưa áp dụng các giải pháp bằng cách khảo sát chất lượng,
kết quả thu được như sau:
Đọc hay
Đọc to, rõ ràng, chưa lưu loát Đọc nhỏ, sai lỗi
Kĩ năng đọc
TL
SL
TL
TL
SL
TL
2
6,2
16
50
14
43,7
3


Về thói quen đọc sách các em chỉ đọc theo sở thích
đọc và tìm kiếm thông tin.

Ham đọc sách
Có đọc
Về thói quen
TL
SL
TL
TL
đọc sách
0
0
10
31,2

chứ chưa ham mê
Không thích đọc
SL
TL
25
68,8

Đem kết quả khảo sát học sinh (về phần đọc) so sánh với chỉ tiêu kế
hoạch đề ra, tôi rất lo lắng, trăn trở và quyết tìm các giải pháp để khắc phục
những tồn tại về phần đọc cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Phân loại nhóm đối tượng học sinh ngay từ ban đầu.
Ngay sau khi nhận lớp tôi đã quan sát, kiểm tra khảo sát thấy học sinh lớp
tôi đọc chưa tốt, mắc nhiều lỗi. Vì thế tôi đã phân loại đối tượng học sinh để lập
kế hoạch rèn đọc.
Nhìn chung các em mắc phải một số lỗi cơ bản sau:
+ Các em đọc ê, a kéo dài giọng (Lỗi 1).

+ Ngắt nghỉ hơi chưa đúng chỗ (Lỗi 2).
+ Học sinh đọc giọng đều đều, chưa biết cách nhấn giọng (Lỗi 3).
+ Học sinh phát âm sai giữa các phụ âm (ch/tr, s/x, r/d/gi), thanh hỏi/
thanh ngã, và các nguyên âm như (uôi, ươi, o) (Lỗi 4).
+ Học sinh còn đọc tiếng địa phương (Lỗi 5).
+ Một số học sinh đọc lặp lại từ do ngọng (Lỗi 6).
+ Đặc biệt các em chưa có thói quen đọc sách (Lỗi 7).
Những lỗi mà học sinh thường mắc
TT

Họ và tên học sinh

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Hoàng Huy Anh
Nguyễn Khắc Gia Bảo
Phạm Thị Phương Dung

Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Đỗ Đàm
Nguyễn NgọcThành Đạt
Nguyễn Quang Đạt
Lê Văn Minh Đức
Nguyễn Quang Minh Đức
Đoàn Thế Giang
Vũ Đình Hiển
Lương Xuân Hiếu
Hoàng Kim Dung
Đỗ Đức Hùng

Lỗi Lỗi Lỗi
1
2
3

Lỗi
4

Lỗi
5

Lỗi
6

x
x
x


x
x

x

x
x
x

x
x
x

x
x

x
x

x
x

x
x
x

x

x


x
x
x

Ghi
chu

x
x
x
x
x
x
x
x
x

x

x

Lỗi
7

x

x
x

x

x
x
4


15
16
17
18

Đỗ Thị Thu Huyền
Bùi Ngọc Bảo Lâm
Quản Thị Thùy Linh
Đỗ Trúc Linh

19
20
21

Nguyễn Phạm Khánh Linh
Trần Bình Minh
Lê Sơn Nguyên

22
23
24
25

Phạm Thị Yến Nhi
Nguyễn Thị Anh Nhi

Nguyễn Thị Yến Nhi
Nguyễn Thị Quỳnh Như

26
27
28

Phạm Thị Quỳnh Như
Đặng Minh Sơn
Đỗ Duy Thái

29
30
31
32

Lê Thị Phương Thảo
Hoàng Anh Thư
Nguyễn Thị Thanh Vân
Nguyễn Công Vinh

x
x

x
x

x

x

x

x
x
x
x

x

x
x
x

x
x

x
x
x
x

x
x
x

x
x
x

x


x
x
x
x
x

x

x
x
x

x

x
x
x

x

x
x
x

2.3.2. Coi trọng công tác nghiên cứu, chuẩn bị bài.
Để có thể rèn đọc cho học sinh đạt hiệu quả tốt, bản thân tôi nghiên cứu
kĩ chương trình sách giáo khoa và các tài liệu có liên quan để xác định rõ nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho từng bài. Tôi luyện đọc từ
chính xác, ngắt nghỉ, đọc diễn cảm, chú ý "nghe" và "phát hiện " để nhận xét,

uốn nắn và hướng dẫn các em đọc đúng.
Để đọc mẫu tốt, tôi đã rèn luyện khá công phu về cả giọng đọc, kỹ thuật
đọc và năng lực cảm thụ văn học. Tìm hiểu kỹ nội dung bài văn, bài thơ thông
qua sách báo, qua mạng để cảm thụ sâu sắc nhất, tinh tế nhất. Từ đó sẽ tìm
được cách đọc hay, hấp dẫn đối với học sinh.
Tìm cách gợi mở, dẫn dắt khéo léo, phù hợp giúp học sinh tìm hiểu bài
văn, cảm thụ tốt bài văn. Để từ đó các em có khả năng đọc đúng, trôi chảy và
lưu loát (thể hiện nội dung cảm thụ bằng giọng đọc), có cơ sở để trau dồi cách
diễn đạt bằng ngôn ngữ (thể hiện những cảm xúc của bản thân bằng lời nói và
chữ viết).
2.3.3. Tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập hiệu quả, sáng tạo trong
phân môn Tập đọc.
- Giáo viên đọc mẫu chuẩn.
Việc đọc mẫu của giáo viên có ý nghĩa rất quan trọng. Từ đó các biết
được cần đọc như thế nào.
5


Đọc mẫu toàn bài nhằm giới thiệu, gây cảm xúc, tạo hứng thú cho học
sinh chú ý vào bài.
Đọc mẫu từ, cụm từ để học sinh phát âm đúng.
Đọc câu, đoạn giúp học sinh ngắt nghỉ chính xác, đọc hay.
Thấy được ý nghĩa quan trọng như vậy nên bản thân luôn luyện đọc mẫu
chính xác, hay, để gây cảm hứng cho học sinh.
- Luyện cho học sinh đọc đúng.
Đọc đúng là việc học sinh tái hiện mặt âm thanh bài học một cách chính
xác, không có lỗi. Không đọc thừa, đọc sót từng âm, vần, tiếng. Sau khi nắm bắt
từng đối tượng học sinh mắc lỗi do đâu, tôi đã xác định cụ thể các tiếng, từ, cụm
từ, câu khó để học sinh rèn luyện đọc trước.
Khi lên lớp, đầu tiên giáo viên đọc mẫu rồi cho cả lớp đọc đồng thanh,

cuối cùng các em đọc cá nhân các tiếng, từ khó này.
Khi học sinh phát âm không chuẩn đã đọc lại nhưng vẫn sai có thể nhờ
bạn hoặc cô phát âm để đọc lại, nếu cần thiết giáo viên nêu cách sửa cho học
sinh. Chẳng hạn, có những âm khó như âm “o” các em đọc “ua” thì giáo viên
cần hướng dẫn từ khẩu hình miệng như khi phát âm có âm “o” phải tròn môi,
luồng hơi đi ra tự do, không bị tắc.
Khi học sinh đọc sai các phụ âm r/d/gi cần phân biệt cách phát âm kết hợp
cả nghĩa của từ.
Ví dụ: từ “gánh hàng rong” nếu đọc thành “ gánh hàng dong” thì nghĩa
của chúng sẽ thay đổi.
+ dong: là một danh từ chỉ tên một loại củ có thể luộc ăn hoặc làm miến.
+ rong: là động từ chỉ đi lang thang đây đó, hết chỗ này đến chỗ khác,
không ở yên một chỗ.
Khi học sinh đọc sai các âm tr/ ch ; s/x tôi hướng dẫn các em đọc từng
tiếng như thế nào, lưỡi và môi, tiếng nào đọc phải cong lưỡi, tiếng nào đọc phải
tròn môi.
Với những tiếng có thanh hỏi tôi hướng dẫn các em cách phát âm: khi
phát âm hơi phát âm trong giữa khoang miệng đi từ âm vực tầm trung sau đó
xuống dấu huyền và đưa lên kết hợp với dấu sắc non. Với thanh ngã hơi phát âm
sâu trong khoang miệng đi từ âm vực tầm trung đi xuống đến hết dấu nặng và
đưa lên kết hợp với dấu sắc.
Phần đọc nối tiếp câu, tôi cho các em đọc nối tiếp nhưng theo chỉ định của
giáo viên chứ không đọc theo bàn hay dãy để tránh tình trạng các em biết câu
mình đọc, biết đoạn mình phải đọc dẫn đến học sinh không chú ý theo dõi bạn
đọc. Tôi còn yêu cầu học sinh theo dõi bạn đọc để nhận xét đúng sai rồi yêu cầu
học sinh sửa sai luôn. Từ việc nhận ra sai của bạn và nghe cách sửa mà rút kinh
nghiệm cho bản thân các em.
Công việc này rèn phát âm quả thật công phu, đòi hỏi mất nhiều thời gian
nên yêu cầu cả cô và trò phải kiên trì, cố gắng.
6



Đọc đúng không chỉ là đọc đúng âm, chữ, từ mà gồm cả tiết tấu, ngắt,
nghỉ, ngữ điệu… vì thế cần dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách
ngắt nhịp đúng trong câu. Đặc biệt với các bài thơ đã có ngắt nghỉ theo luật,
song có nhiều bài phá luật thì việc hướng dẫn ngắt nghỉ phụ thuộc vào nghĩa và
quan hệ ngữ pháp là chính.
Ví dụ:
Bài : Bận
Trời thu / bận xanh /
Sông Hồng / bận chảy /
Cái xe / bận chạy /
Lịch bận tính ngày, /
Con còn / bận bú /
Bận ngủ / bận chơi /
Bận / tập khóc cười /
Bận / nhìn ánh sáng. //
(Tiếng Việt lớp 3, tập 1, tuần 7)
Thơ phản ánh hiện thực bằng phương pháp trữ tình, còn văn xuôi phải ánh
hiện thực bằng phương thức tự sự, miêu tả (ngôn ngữ của nhân vật, ngôn ngữ
của tác giả). Mà ngôn ngữ của tác giả chính là lời dẫn chuyện, kể, tả,… Khi đọc
cần nhấn giọng vào các từ ngữ gợi tả, ngắt giọng ở các dấu câu, hạ giọng ở cuối
câu kể ... Còn ngôn ngữ nhân vật thường là ngôn ngữ đối thoại, nên phải đọc với
giọng đối thoại (ngôn ngữ nói) .
- Luyện đọc nhanh.
Đọc nhanh là phẩm chất đọc về mặt tốc độ, không đọc ê a, ngắc ngứ,
không vừa đọc vừa đánh vần. Đọc nhanh nhưng phải đảm bảo hiểu được, nghe
được có nghĩa là phải đọc đúng và âm thanh vừa phải.
Tôi đã hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh
đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo

viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có biện pháp
đọc tiếp nối trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều
chỉnh tốc độ. Tôi thường đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho
trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Nhiều lần thực hiện như thế học
sinh sẽ thi đua, cố gắng phấn đấu đọc, theo kịp những bạn đọc đạt yêu cầu.
Với một số em có thói quen đọc ê a hoặc đọc hấp tấp, liến thoắng. Tôi
kiên quyết sửa trên lớp bằng hình thức cho các em luyện đọc cá nhân nhiều lần,
có thể được đọc nhiều lần ở yêu cầu bài tập, nội dung bài tập trong các phân
môn khác.
Đối với các em năng lực đọc còn hạn chế do cấu tạo bộ máy phát âm nên
đọc không rõ tiếng như: líu giọng....Tôi đã kiên trì luyện đọc từng bước, kể cả
cho các em thực hành nhiều ở tiết kể chuyện, tập làm văn. Lúc đầu tôi luyện
đọc cho các em từng tiếng mà các em hay đọc sai, sau đó là cả câu, cả đoạn, rồi
7


cả bài. Với em đọc ngọng tôi phải trực tiếp sửa cho các em như các em viết lại
câu vừa nói hay vừa đọc để em thấy cách phát âm đó sai rồi yêu cầu đọc lại nếu
em vẫn đọc sai cô đọc mẫu để em đọc theo. Đối với các em này thì không phải
chỉ sửa trong tiết Tập đọc mà ở tất cả các môn cũng như khi giao tiếp trò chuyện
với bạn bè, thầy cô.
Khi các em đọc, tôi đã kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách đọc cho học sinh
một cách chân thành, cụ thể, kịp thời. Để động viên học sinh đọc tốt, tôi khuyến
khích các em đọc biểu lộ tình cảm riêng mang tính sáng tạo, không dập khuôn,
bắt chước giáo viên.
Đối với giờ tập đọc có thêm yêu cầu đọc thuộc lòng, tôi dành thời gian và
khuyến khích học sinh học thuộc, đọc diễn cảm tốt vài câu hoặc một hay hai
đoạn tại lớp để gây hứng thú cho việc học sinh học tiếp ở nhà, chính vì vậy mà
các bài học thuộc lòng trong chương trình cả lớp đều thuộc.
Việc kiểm tra, ôn luyện học sinh đọc thuộc, nhớ lâu, đọc tốt nhiều bài văn,

bài thơ đã học cũng là một biện pháp mà tôi thường xuyên thực hiện. Nếu giao
bài mà không kiểm tra thì rất nhiều học sinh không chịu học vì thế việc kiểm tra
là nguyên tắc của tôi, lần đầu chưa thuộc thì lần hai, lần ba đến khi nào thuộc thì
mới thôi, tuy nhiên với những học sinh nhiều lần không thuộc thì cũng có những
hình thức phạt như thông báo về gia đình…
Đối với thời gian hoạt động ngoại khoá của lớp, để thúc đẩy cho việc rèn
đọc tốt, tôi đã tổ chức cho từng nhóm, từng cá nhân thi đọc đúng, đọc hay, tổ
chức đọc đóng vai trong các bài có nhiều nhân vật.
- Luyện đọc hiểu cho học sinh.
Đọc hiểu là từ sự tiếp nhận bằng thị giác, không chú ý đến âm thanh, từ
việc hiểu nghĩa từ, hiểu nghĩa câu, hiểu nghĩa đoạn mà tổng hợp nên hiểu được
nội dung, cảm nhận cái hay cái đẹp của bài viết, nhận ra các biện pháp nghệ
thuật tinh tế được sử dụng .
Hiện nay , các em đọc thầm không ghi nhớ vì thế mà trả lời câu hỏi rất
hạn chế. Tôi đã làm các công việc như sau để khắc phục tình trạng nêu trên:
Về tìm hiểu đề tài văn bản: Dựa vào chủ điểm đầu tuần để xác định đề tài
văn bản. Thường thì tôi sẽ đưa ra các câu hỏi như: Bài văn , bài thơ nói về việc
gì? Về cái gi? Về ai ? ... Đề tài thường được thể hiện ở tên bài, tên người, tên sự
vật nên khi học sinh đọc lướt sẽ hiểu ngay.
Về tìm hiểu tên bài: Lưu ý học sinh tên bài không phải là điều ngẫu nhiên
tác giả gắn vào văn bản mà điều có lí do. Do vậy tên bài thường ngắn nhưng
chúng ta vẫn có thể hiểu được nhiều điều. Hiểu tên bài phần nào đó giúp học
sinh nắm được nội dung bài nên khi tìm hiểu bài cần hướng học sinh khai thác
tên bài bằng cách bám vào câu chữ để hiểu nội dung.
Về tìm hiểu nghĩa của từ ngữ trong bài: Khi học sinh xác định nghĩa của
một số từ ngữ quan trọng trong bài là các em đã một phần nào hiểu văn bản vì
khi đã hiểu nghĩa từ sẽ hiểu nghĩa câu, hiểu nghĩa đoạn. Trong trường hợp này
tùy từng từ mà tôi chọn các cách giải nghĩa như sau:
+ Giải nghĩa từ bằng trực quan.
8



+ Giải nghĩa từ bằng cách tách thành từng yếu tố để giải nghĩa rồi hợp
nghĩa các yếu tố đó lại. Đây là cách giải nghĩa các từ ghép gốc Hán Việt.
+ Giải nghĩa từ bằng từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa.
+ Giải nghĩa từ bằng cách so sánh, đối chiếu.
+ Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh.
Về tìm hiểu câu đoạn, ý đoạn: Từ hiểu câu đoạn, ý đoạn mà học sinh thâu
tóm thành nội dung bài.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung chính của bài : Đây là bước hoàn
tất việc nắm nội dung bài của học sinh. Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh nhớ lại
những gì đã tìm hiểu ở câu đoạn, ý đoạn tổng hợp các ý và nêu nội dung bài.
Khi tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu những bài khó tôi đưa ra hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm hoặc chia ra các câu hỏi nhỏ để các em dễ trả lời hơn.
Trong các tiết tự học tôi đưa ra các bài đọc hiểu dạng trắc nghiệm để các
em làm, đây là những bài ngoài chương trình.
Đối với buổi học 2 tôi cho học sinh làm các bài tập trong vở trắc nghiệm
để đọc hiểu tốt hơn và hiểu sâu hơn về nội dung bài đọc.
Nhờ những biện pháp trên mà đọc hiểu của các em đã nâng lên rõ rệt, các
em không còn chán và ỉ lại cho một số bạn trả lời câu hỏi mà thay vào đó cả lớp
tích cực phát biểu ý kiến và nắm được nội dung bài học.
- Luyện đọc diễn cảm:
Đọc diễn cảm là cách đọc ngắt giọng thiên về tình cảm, về sự rung động
nội tâm mà không phụ thuộc vào dấu câu, cách ngắt giọng này phụ thuộc vào
tâm hồn người đọc. Đọc diễn cảm còn là cách nhấn giọng, cách đọc đúng giọng
đọc của từng bài, từng câu, từng đoạn.
Hướng dẫn học sinh nên đọc nhấn giọng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Các kiểu câu ta hướng dẫn học sinh đọc như sau: Câu kể, ở cuối câu có
dấu chấm khi đọc thường xuống giọng ở cuối câu. Câu kể có dấu chấm lửng ở
cuối câu khi đọc phải kéo dài giọng. Câu hỏi, ở cuối câu có dấu chấm hỏi,

thường khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu. Một số câu hỏi ở cuối câu có kết
thúc (à, ạ, ư, thế à). Ví dụ: Dạo này bà có khỏe không ạ? Thì sẽ đọc với giọng
yếu, hơi thấp. Câu cảm, câu cầu khiến, ở cuối câu có dấu chấn than khi đọc cần
phải lên giọng ở cuối câu.
Đối với những bài văn xuôi, khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc
biệt (câu hỏi, câu cảm) để hướng dẫn học sinh đọc. Giáo viên còn phải chú trọng
cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc biệt phải
biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu câu nhưng đó là chỗ tách ý.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Tiếng đàn”, (Tiếng việt 3 - tập 2 tuần 24).
“Khi ắc- sê vừa khẽ chạm vào những sợi dây đàn / thì như có phép lạ,/
những âm thanh trong trẻo vút bay lên giữa yên lặng của gian phòng.// Vầng
tràn cô bé hơi tái đi / nhưng gò má ửng hồng,/ đôi mắt sẫm màu hơn,/ làn mi
rậm cong dài khẽ rung động ”. Đây là đoạn tả âm thanh tiếng đàn, sự lan tỏa
của âm thanh đó ra không gian xung quanh, cần đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm
rãi, giàu cảm xúc ; ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, cụm từ; nhấn giọng ở từ
9


in nghiêng đậm tả tiếng đàn và cảm xúc, cử chỉ của cô bé.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Các em nhỏ và cụ già” (Tiếng việt 3 - tập 1).
“ Cụ ngừng lại, rồi nghẹn ngào nói tiếp:
- Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông/ nằm viện mấy tháng nay rồi. Bà
ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt/ để đến bệnh viện.
Ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được, nhưng ông
cũng thấy lòng nhẹ hơn.
Đám trẻ lặng đi. Các em nhìn cụ già đầy thương cảm"
Ở đoạn văn này, tôi cho học sinh đọc thể hiện ngắt giọng bằng nội tâm và
cảm xúc của riêng mình. Cách ngắt giọng, nhấn giọng của các em có khác nhau
nhưng đều thể hiện niềm thông cảm, chia sẻ cùng ông cụ khi vợ ông bị ốm.
Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh

cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. Các bài thơ thuộc thể thơ 4 chữ thường
ngắt 2/2 hoặc 1/4. Đối với thể thơ lục bát thường ngắt nhịp theo nhịp chẵn
2/4(2/2/2; 4/2); 4/4(2/2/2/2/; 2/2/4; 4/2/2). Nhưng khi những dòng thơ thể hiện
điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng khác thường, bất định
thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 1/3, 3/3, 3/5.
Với những bài thơ tự do, không theo luật thì trước hết phải hướng dẫn học
sinh ngắt nghỉ đúng theo nghĩa. Ngoài ra cần chú ý giọng đọc của từng bài .
Ví dụ: Khi đọc bài “Chu ở bên Bác Hô”, hai khổ thơ đầu, cần đọc với
giọng ngây thơ, hồn nhiên, thể hiện sự băn khoăn, thắc mắc rất đáng yêu của bé
Nga. Đoạn cuối đọc với nhịp chậm, trầm lắng, thể hiện sự xúc động nghẹn ngào
của bố mẹ bé Nga khi nhớ đến người đã hi sinh.
Tiếng Việt có kho ngữ điệu phong phú và đa dạng. Tôi đã vận dụng điều
đó vào đọc đúng, đọc hay bài văn, bài thơ. Đó là sắc thái giọng đọc (Vui buồn,
trang trọng, dịu dàng, hồn nhiên,vv). Đó là tốc độ đọc, cách ngắt giọng, độ
mạnh, độ dài của giọng khi đọc.
Để thể hiện đọc diễn cảm tốt tôi còn hướng dẫn học sinh dùng nét mặt,
ánh mắt, nụ cười và các yếu tố phi ngôn ngữ tác động đến người nghe.
Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh khi đọc diễn cảm tôi luôn chú ý và
có cách thức cụ thể đối với từng em:
- Những học sinh rụt rè nhút nhát, tôi động viên, khuyến khích không gắt
gỏng để các em luống cuống và chán nản.
- Những học sinh nghịch ngợm hay làm việc riêng, không chú ý đến tiết
học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp.
- Những học sinh đọc chưa đạt, ngoài việc rèn trên lớp còn ra yêu cầu và
hướng dẫn đọc ở nhà. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện yêu cầu của cô.
Ngoài ra trong tiết dạy Tập đọc, tôi luôn tạo không khí lớp vui tươi, thoải
mái để học sinh có hứng thú với bài học, có tâm trạng đợi chờ và chú ý khi nghe
giáo viên đọc. Tôi còn chú ý kỹ năng đọc thầm có chất lượng ở học sinh, giao
nhiệm vụ đọc và nêu câu hỏi định hướng, hoặc có biện pháp kiểm tra đánh giá
cụ thể. Tránh tiến hành qua loa, chiếu lệ.


10


2.3.4. Tạo thói quen đọc sách cho học sinh
Đọc sách giúp phát triển khả năng đọc nhanh và tư duy nhanh cho học
sinh: Lợi ích đầu tiên của việc đọc sách là giúp các em tiếp xúc với con chữ
nhiều hơn. Dù loại sách gì đi chăng nữa cùng giúp các em rèn luyện khả năng
đọc nhanh, tư duy nhanh và lối suy nghĩ nhanh hơn.
Đọc các thể loại sách như: tự nhiên, văn học, tự nhiên, du lịch,… giúp học
sinh tiếp cận các kiến thức mà nhà trường không có thời gian giảng dạy. Đọc
sách giúp cho các em có cái nhìn rộng hơn về thế giới xung quanh, đặc biệt học
cách đối nhân xử thế, cách xác định giá trị sống, lối sống tích cực, có khát khao
sáng tạo.
Đọc có vai trò như vậy nhưng hiện nay ở khu vực nông thôn, hầu như các
em không có thói quen đọc sách, không thích đọc sách. Các em không hề biết gì
về tình hình xã hội đang thay đổi hàng ngày, kiến thức thực tế bị hạn chế, kiến
thức xã hội thì không có là bao. Để các em có thói quen đọc sách thì cần có một
quá trình và có sự tác động nhiều phía. Ở lớp, cô giáo sắp xếp thời gian đọc sách
cho học sinh nghe từ đó các em thấy ý nghĩa của đọc sách; giới thiệu các loại
sách cho học sinh tìm đọc; giáo viên đăng kí với thư viện nhà trường số lượng
và thời gian đọc sách cho các em mỗi tuần. Khi học sinh đọc giáo viên khuyến
khích các em chia sẽ thông tin đọc được với mọi người. Giáo viên khuyên phụ
huynh mua sách cho con em đọc . Xây dựng thói quen đọc phải được bắt đầu từ
tuổi ấu thơ, ở nhiều nước người ta bắt đầu thực hiện từ tuổi trước khi đến
trường, do các bậc cha mẹ thực hiện. Trong suốt quá trình học tập, mỗi cá nhân
phát hiện ra sở thích đọc của chính họ để phát huy sở trường và hạn chế những
sở đoản.
Thói quen và kỹ năng đọc mang tính chất đồng loạt, còn sở thích đọc lại
phụ thuộc hoàn toàn vào từng cá nhân cụ thể (trình độ giáo dục và riêng tư cá

nhân), ví dụ: có người thích đọc thơ, có người thích đọc tiểu thuyết, có người
thích đọc sách nghiên cứu, có người thích đọc sách phổ biên khoa học kỹ thuật,
văn hoá nghệ thuật ... Yếu tố này tạo ra sự đa dạng, phong phú, giàu mầu sắc
cho nền văn hoá đọc trong xã hội. Tuy nhiên tôi luôn định hướng cho các em
đọc cái gì, không nên đọc cái gì. Định hướng cho phụ huynh nên mua gì cho con
đọc để thói quen đọc sách trở thành nếp sống trong sinh hoạt hàng ngày.
Nếu một người có thói quen đọc, nhưng thiếu kỹ năng đọc, hiệu quả đọc
không cao, thậm chí không có hiệu quả, chỉ mất thời gian vô ích. Nếu nắm vững
kỹ năng đọc, nhưng không tạo được thói quen đọc, cũng chẳng thu được kiến
thức là bao, thiếu những kiến thức cần thiết cho cuộc sống của mình. Chính vì
vậy tôi luôn quan tâm hỏi han các em để các em được chia sẻ những vấn đề khi
đọc sách.
Khi các em đọc sách tôi khuyên các em không chỉ đề cập đến những vấn
đề cho môn Tiếng Việt mà trong các môn học khác các em cũng phải tìm hiểu
như môn Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức, HĐNGLL…Ví dụ: Tôi cho học sinh tìm
đọc các cuốn “ Bách khoa tri thức” để các em hiểu hơn về hình dáng, đặc tính,
nơi sống cũng như giá trị của từng loài. Đặc biệt là động thực vật quý hiếm
trong nước cũng như trên thế giới dể từ đó các em có ý thức bảo vệ động, thực
11


vật hơn.
Được tìm hiểu thế giới xung quanh các em rất thích, chính vì thích tìm
hiểu nên thói quen đọc sách đã từ từ đi vào con người các em như một món ăn
tinh thần không thể thiếu được.
Kiến thức các em đọc được phải tạo điều kiện cho các em trao đổi cho
nhau.
Để kiểm tra kiến thức của các em, để các em có điều kiện thể hiện sự hiểu
biết của mình tôi động viên các em chuẩn bị ở nhà trước dưới sự hướng dẫn của
cô giáo và trong các tiết học tôi đưa ra các câu hỏi mở rộng.

Có lúc tôi đưa ra các tình huống trong cuộc sống yêu cầu các em đưa ra
các giải pháp để giải quyết như: Nấu các món ăn, mẹo vặt, đuối nước, xâm hại
trẻ em, tham gia giao thông,..
Trong các tiết sinh hoạt hay 15 phút đầu giờ đưa ra các tình huống trong
cuộc sống để học sinh tranh luận, đưa ra cách giải quyết của bản thân.
Hay các em tìm hiểu về An toàn giao thông trong xã, huyện, tỉnh...
Nguyên nhân và cách phòng tránh, giải quyết tình huống có tai nạn xảy ra...
Tóm lại: Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh không phải chỉ là rèn đọc
một bài cụ thể trong chương trình mà cần rèn cho các em thói quen đọc, sở thích
đọc và kỹ năng đọc. Chúng ta cần xây dựng một xã hội ham đọc, để đáp ứng với
xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức và một xã hội phát triển bền vững, có thể
xứng ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
2.4. Kết quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động dạy Tập đọc lớp 3A:
Qua quá trình giảng dạy, áp dụng những biện pháp rèn đọc như đã nêu
trên đến giữa học kì hai, năm học 2017- 2018 tôi tiến hành khảo sát và có kết
quả như sau:
Về kĩ năng đọc: Các em đọc to, rõ ràng tự tin hơn. Các em đọc ít sai hơn,
ngắt nghỉ đúng, biết nhận giọng các từ gợi cảm, gợi hình. Cụ thể như sau:
Thời điểm
Đọc hay
Đọc to, rõ ràng Đọc nhỏ, sai lỗi

năng
đọc

TL

SL


TL

TL

SL

TL

Đầu năm
Cuối học kì I

2
5

6,2
15,6

16
17

50
53,1

14
10

43,8
31,3

Giữa học kì II


8

25

20

62,5

4

12,5

Về thói quen đọc sách : các em đã ham đọc sách, tìm hiểu thông tin qua
đài, ti vi, báo... Các em đã thích được vào thư viện đọc, các em còn đề nghị thư
viện mở thường xuyên để các em được đọc nhiều hơn. Một số em đã trao đổi
sách với nhau các em đọc được. Các em đã biết đọc có chủ định, có mục đích vì
thế mà kiến thức cũng tiến bộ rõ rệt.
Ham đọc Đọc chưa thường xuyên Không thích đọc
TL
SL
TL
TL
SL
TL
12


Về thói quen đọc
7

21,9
21
65,6
4
12,5
sách
Kết quả khảo sát khiến tôi rất phấn khởi. Thực sự tôi thấy trong các giờ
Tập đọc học sinh say mê học hơn, lớp học sôi nổi hơn, kỹ năng đọc được nâng
cao rõ rệt. Các em không còn đọc nhỏ, đọc ngắc ngứ nữa. Đặc biệt đã phần nào
tạo được thói quen đọc sách cho các em.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
3. 1. Kết luận:
Người giáo viên có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng
học Tập đọc của học sinh. Họ phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ và
vốn kinh nghiệm dạy học. Mặt khác, họ phải là người có lòng yêu nghề mến trẻ,
vừa dạy văn hoá , vừa gần gũi, chăm sóc theo dõi diễn biến tâm lý của học sinh
để giúp các em tiến bộ về mọi mặt .
Người giáo viên phải thực sự chịu khó, công bằng và mẫu mực, không
ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm ra những phương pháp tối ưu để áp dụng trong
giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Giáo viên cần nắm vững đối tượng, tâm sinh lí của trẻ để có biện pháp
phù hợp, tích cực trong hướng dẫn, dìu dắt các em.
Luôn là người tổ chức, hướng dẫn tạo điều kiện phát huy vai trò chủ động
sáng tạo của học sinh.
Luôn khuyến khích lòng ham mê đọc sách, báo giúp các em nắm bắt
thông tin theo kịp sự phát triển của thời đại thông tin hiện nay.
Giáo viên dạy Tập đọc tốt như giúp thêm một phương tiện để các em
khám phá cái hay, đẹp của văn chương, của cuộc sống, giúp các em gìn giữ sự
trong sáng của tiếng Việt.
Trường học là nơi có khả năng phát triển thói quyen đọc sách tốt nhất cho

các em.
3.2. Kiến nghị:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện kinh nghiệm kết quả đạt được khả
quan như trên, tôi xin đưa ra một số đề xuất như sau:
Mỗi giáo viên cần luôn đề cao vai trò, trách nhiệm của mình với nhiệm vụ
được giao.
Những kinh nghiệm hay cần được nhân rộng,tạo điều kiện để giáo viên
học hỏi, góp ý cho nhau cùng nhau hoàn thiện mình hơn.
Thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực với phương châm lấy người
học làm trung tâm, trong đó đề cao tính tự học, tự nghiên cứu, từng bước đưa
nhiệm vụ phải đọc tài liệu tham khảo để củng cố, bổ sung, mở rộng kiến thức
của sách giáo khoa từ đó hình thành thói quen đọc cho các em.
Phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động để nâng cao

13


nhận thức cũng như xây dựng định hướng đọc lành mạnh cho cộng đồng, đặc
biệt là học sinh.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 9 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của ngườkhác.

Âu Thị Nhàn

14




×