Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả lớp 4,5 ở trường tiểu học đông quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.84 KB, 21 trang )

I .MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông nói chung, ở trường tiểu học nói
riêng có một vị trí vô cùng quan trọng. Môn học này là cơ sở, là nền tảng giúp
học sinh học tốt các môn học khác. Tiếng Việt vừa là một khoa học, vừa là công
cụ, phương tiện giúp HS lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và phát triển
tư duy. Việc dạy học môn Tiếng Việt ở nhà trường tiểu học với tư cách là dạy
tiếng mẹ đẻ luôn là vấn đề được quan tâm chú ý. Mỗi phân môn, mỗi tiết học,
mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục đích phát triển của lời nói. Như vậy
phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung có vai trò quan
trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết.
Ở Tiểu học, phân môn Tập làm văn trong đó văn miêu tả chiếm khá nhiều
thời lượng trong các thể loại Tập làm văn (ở lớp 4 dạy 30 tiết, lớp 5 dạy 26 tiết).
Văn miêu tả được chia thành các kiểu bài khác nhau, căn cứ vào đối tượng miêu
tả. Các kiểu bài miêu tả ở lớp 4,5 bao gồm: tả đồ vật, tả cây cối, tả cảnh, tả người.
Tất cả các chủ đề đều rất gần gũi nhưng khó so với các em vì khả năng trình bày,
diễn đạt vấn đề thông qua nói và viết đối với các em là rất khó khăn, lúng túng.
Các em e ngại, sợ phải trình bày, diễn giải một vấn đề nào đó mà thầy cô và bạn
bè yêu cầu. Nhiều em rất sợ khi nhắc đến học Tập làm văn. Bản thân các em cũng
gặp rất nhiều khó khăn trong việc cảm nhận cái hay, cái đẹp trong các bài văn, bài
thơ được học.
Thực tế ở một số trường tiểu học vùng nông thôn nói chung và ở trường tiểu
học Đông Quang nói riêng vẫn còn không ít giáo viên và học sinh chưa nhận thức
hết tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn, nhất là văn miêu tả. Chính vì vậy
chất lượng các giờ Tập làm văn và các bài viết văn miêu tả của học sinh còn
nhiều hạn chế. Nhiều giáo viên chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các em hoàn thành
những nội dung yêu cầu của bài tập dựa vào gợi ý sách giáo khoa và sách giáo
viên. Một số chưa thực sự quan tâm và phát huy hết năng lực của học sinh, cũng
như giúp đỡ các em rèn giũa câu văn, ý văn. Còn học sinh các em chỉ dừng lại ở
mức độ trả lời, liệt kê chi tiết các bộ phận của sự vật hoặc các hình ảnh theo gợi ý
của thầy cô một cách máy móc, khuôn mẫu. Mặt khác đa số học sinh lớp 4,5 vốn


từ ngữ của các em còn rất nghèo nàn. Việc diễn đạt câu văn, ý văn còn nhiều hạn
chế. Khi làm các bài văn miêu tả vì đa phần các em viết theo lối liệt kê nên câu
văn hết sức khô khan. Thậm chí có những em khi làm văn miêu tả không biết
phải bắt đầu từ đâu, không biết phải tả gì, tả như thế nào. Vì vậy chất lượng bài
làm của các em học sinh thấp, nhiều bài viết hình ảnh miêu tả hết sức ngô nghê.
Là một Hiệu trưởng nhà trường, tôi luôn trăn trở với câu hỏi : Làm thế nào để
nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả ở lớp 4,5. Chính vì vậy tôi chọn đề
1


tài “Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu
tả lớp 4,5 ở trường Tiểu học Đông Quang”
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả lớp 4,5 ở
trường Tiểu học Đông Quang.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài hướng vào nghiên cứu các vấn đề có nội dung nâng cao chất lượng
dạy và học văn miêu tả lớp 4,5 ở trường Tiểu học Đông Quang, huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp..
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá
- Phương pháp xử lí số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Miêu tả là lấy nét vẽ hay câu văn để biểu hiện hình ảnh của sự vật giúp
người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy. Văn miêu tả mang tính
thông báo thẩm mĩ, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình ảnh của sự
vật thông qua những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc

thẩm mĩ của người viết.
Với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 4,5 việc hình thành và phát triển
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng, được thể hiện ở tất cả các môn
học và nổi bật nhất là môn Tiếng Việt. Do đó, việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học
góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho
các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Chính
những văn bản viết các em có được từ môn Tập làm văn đã thể hiện những hiểu
biết thực tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em được học ở môn Tiếng
Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác.
Mục tiêu của việc dạy Tập làm văn ở lớp 4,5 là cung cấp cho học sinh biết
lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có đủ ba phần. Lời văn
trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc, biết nói, biết viết câu có sử dụng các
biện pháp nghệ thuật, biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt,
trình bày.
Các hoạt động dạy học phân môn Tập làm văn rất gần gũi với cuộc sống
thực, do đó các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết được vận dụng, rèn luyện và nâng cao
các tri thức Tiếng Việt được kiểm nghiệm trong thực tiễn giúp học sinh hiểu rõ
hơn, sâu hơn, góp phần khơi dậy, nuôi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt
cho các em.
2


2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VĂN MIÊU TẢ LỚP 4,5.
Thực trạng chỉ đạo dạy học văn miêu tả lớp 4,5 ở trường Tiểu học Đông
Quang
Đa số giáo viên điều tận tâm trong công tác giảng dạy, chăm lo đến việc học
tập của học sinh nhưng vẫn còn một số hạn chế: Đó là còn một bộ phận giáo viên
coi nhẹ tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn. Qua thực tế chỉ đạo chuyên
môn ở trường, tôi nhận thấy phần lớn các đồng chí giáo viên đã nhận thức được
tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn nói chung và văn miêu tả lớp 4,5 nói

riêng. Giáo viên đã có những hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú và cuốn hút
học sinh. Tất cả các tiết tập làm văn đều được dạy đúng qui trình, đúng mục tiêu
bài dạy. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những giáo viên chưa nhận thức được
hết tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn. Các tiết dạy chưa được đào sâu
suy nghĩ để tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp. Đặc biệt tiết trả bài không
được chú trọng mà chỉ làm qua loa. Vì vậy các em không biết được mình viết
được chỗ nào, lỗi chỗ nào, mắc lỗi gì để rút kinh nghiệm. Chính cách dạy này đã
làm hạn chế khả năng viết văn miêu tả của học sinh.
Việc đầu tư nghiên cứu phương pháp dạy học phân môn này chưa được
chú trọng. Một bộ phận nhỏ giáo viên trong trường chưa mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học, còn sử dụng phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp
với phân môn làm cho một số HS nhàm chán không tích cực trong giờ học. Giáo
viên chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích cực
và những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học, chưa chú ý đến
việc thể hiện sự kết nối tương tác mang tính cá nhân cao giữa thày và trò, chưa
tạo điều kiện cho HS có thể hợp tác học tập với nhau
Giáo viên khi dạy văn miêu tả vẫn còn nặng về hướng dẫn chung chung rồi
học sinh tự làm bài. Cho học sinh sử dụng văn mẫu nhưng không định hướng,
hướng dẫn học sinh cách sử dụng sao cho hiệu quả. Một số giáo viên chưa chú
trọng tới tiết trả bài cho học sinh
Năm học 2016- 2017, tôi đã dự 12 tiết tập làm văn có kèm theo một số tiết
khảo sát chất lượng. Tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn Tập làm văn còn có
những vấn đề sau: Các tiết học thường kéo dài quá thời gian qui định. Nhiều học
sinh còn mơ hồ về văn miêu tả. Bên cạnh đó kĩ năng làm văn của các em còn hạn
chế như: chưa biết quan sát, miêu tả còn chung chung chưa thể hiện được đặc
điểm nổi bật của từng chủ đề mình định tả. Chưa biết sử dụng những từ ngữ gợi
tả và các thủ pháp nghệ thuật trong bài văn, chưa biết thể hiện cảm xúc của mình
khi miêu tả. Vốn từ ngữ để diễn đạt của các em còn nghèo.
Kiến thức thực tế của các em còn thiếu, không chịu quan sát thế giới xung
quanh như ruộng đồng, cây cỏ, đồ vật, con vật và các hoạt động diễn ra hàng

ngày.
3


Các em thiếu tập trung trong giờ học, ngại học hoặc không coi trọng, không
thích học văn. Nhiều em phụ thuộc vào văn mẫu do thường xuyên sao chép văn
mẫu. Các em không quan tâm tới đọc sách truyện hoặc chỉ đọc truyện tranh Đô rê - mon, Cô - nan…. Một số HS lười học, chán học không tập trung trong giờ
học .Sự tương tác trong học tập giữa trò với thầy, giữa trò với trò còn chưa tốt
Tôi đã tiến hành cho khảo sát vào giữa kì 1:
Khối lớp

Số HS

Lớp 4
Lớp 5

55
56

Điểm 9-10

0
0

Điểm 7-8

11
12

Điểm 5-6


Điểm dưới 5

26
32

18
12

Ghi chú

3. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Đứng trước thực trạng trên bản thân tôi đưa ra một số biện pháp chỉ đạo
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học miêu tả ở lớp 4,5 sau:
3.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy
Tập làm văn:
Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn
miêu tả sinh động? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương
trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến
thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định
đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến
thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững
những vấn đề sau :
a. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4,5: Cả năm mỗi lớp có 62 tiết
trong đó Tập làm văn miêu tả lớp 4 là 30 tiết, lớp 5 là 26 tiết tả cảnh và tả người,
17 tiết ôn tập văn miêu tả (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu
vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành
nhân cách cho học sinh.
b. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu

và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
- Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
c. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai
loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy
từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung
cho học sinh HTT, HT và CHT.

4


3.2 Giáo viên rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập 1,
trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp
người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, qua dự
giờ, Hội giảng tôi luôn chú trọng chỉ đạo cho giáo viên khi dạy văn miêu tả, giáo
viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
Tả từ xa đến gần “ Nhìn từ xa, khung cảnh trường hiện ra như một khu vườn
cổ tích đầy màu sắc, chứa bao điều lí thú kì diệu. Cánh cổng trường như một
người lính canh gác khoác trên mình chiếc áo màu đen, trên ngực đeo tấm bảng:
“ Trường Tiểu học Đông Quang” như muốn khoe với mọi người tớ là ai. Qua
cổng trường bước vào khoảng sân rộng bằng bê tông. Những thảm cỏ xen lẫn
những con đường bê tông thẳng tắp trông thật mát mắt. Sừng sững giữa sân

trường là cột cờ cao vời vợi, lá cờ đỏ sao vàng tung bay như muốn nhắc nhở các
em bao điều” ( Bài viết tả ngôi trường của em Nguyễn Thị Vân - Lớp 4B)
Ví dụ 2:
Tả từ ngoài vào trong “ Bản đồ có dạng hình chữ nhật, khung của nó được
làm bằng nhựa. Bốn rìa ngoài được các nhà thiết kế làm thành những thanh nhựa
màu đen chắc chắn. Giữa các thanh nhựa đó có kẻ những đường nền thẳng băng
màu trắng và xanh trông rất đẹp. Bản đồ được đặt chễm chệ trên tường nhờ mấy
chiếc đinh được bẻ cong lại để giữ bản đồ đứng trên tường mà không bị ngã. Ở
giữa khing người ta lồng vào đó tấm giấy có vẽ bản đồ thu nhỏ rồi dán keo để nó
dính chặt. Dưới bản đồ có phần chú thích giúp các em hiểu về đất nước Việt
Nam”. ( Bài viết tả một đồ dùng học tập trong lớp của em Phạm Mai Anh- Lớp
4B)
b. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả
cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ:
“Mưa tạnh dần, tạnh dần, tạnh dần rồi tạnh hẳn. Những đám mây đen biến
mất thay vào đó là những đám mây trắng dần hiện ra. Ông mặt trời xuất hiện
chiếu xuống mặt đất những tia sáng ấm áp, sưởi ấm muôn loài” ( Bài viết tả cơn
mưa của em Lê Ngọc Như Quỳnh- Lớp 5B)
5


c. Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của
đối tượng.

Ví dụ: “ Mái tóc mẹ dài, lúc nào cũng được búi cao. Mái tóc ấy xơ xác vì phải
làm việc vất vả. Gương mặt mẹ bầu bầu phúc hậu. Trên khuôn mặt ấy, dấu ấn
thời gian bắt đầu hằn lên những nếp nhăn nho nhỏ. Nhưng có lẽ thời gian không
thể xóa nhòa những nét dịu dàng, phúc hậu nơi người mẹ của tôi. Đôi mắt mẹ đẹp
lắm! Đôi mắt ấy còn biết nói đấy các bạn ạ. Những khi mẹ buồn, đôi mắt chùng
xuống. Tôi thương mẹ lắm.” ( Bài viết tả người mẹ của em Lê Minh Hằng- Lớp
5A)
Học sinh đã quan sát và tập trung tả mái tóc, khuôn mặt rồi đến đôi mắt.
Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...)
để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3: Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả
đã quan sát bằng các giác quan như sau:
Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận mưa
đầu mùa.
Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của
chào mào.
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn là một việc làm
cần thiết và quan trọng. Điều kiện cơ bản và cũng là phương pháp cơ bản để làm tốt
bài văn miêu tả là phải biết quan sát và chọn lọc những chi tiết quan sát được. Mọi
kết quả quan sát được thể hiện trong bài miêu tả. Nếu quan sát tinh vi, thấu đáo bài
viết sẽ đặc sắc, hấp dẫn. Quan sát hời hợt, phiến diện bài viết sẽ khô khan, nông cạn.
Do vậy, giáo viên phải tạo điều kiện cho các em đến tận nơi quan sát đối tượng được
miêu tả, coi việc tổ chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả là một
công việc thuộc nguyên tắc dạy học làm văn miêu tả. Giáo viên phải dạy tốt tiết
quan sát tìm ý. Trong tiết học đó, học sinh phải tập quan sát bằng nhiều giác quan
khác nhau. Tuy vậy, giáo viên cũng cần hướng dẫn các em quan sát, phát huy động
vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại. Muốn vậy, giáo viên

phải nghiên cứu trước chương trình để có kế hoạch như hướng dẫn học sinh quan
sát trực tiếp đối tượng cần miêu tả. Việc quan sát cũng có khi tiến hành trên lớp,
cũng có khi tiến hành ngoài lớp (trước khi đến lớp). Để quan sát có chất lượng, giáo
6


viên cần hướng dẫn các em quan sát theo trình tự nhất định (từ chung tới riêng, từ
trong ra ngoài, từ xa tới gần hay ngược lại) và quan sát bằng nhiều giác quan rồi ghi
chép lại những chi tiết đặc sắc, nổi bật theo phần gợi ý của sách giáo khoa, nhờ đó
mà bài văn của các em tả đúng trọng tâm, sinh động, mới mẻ hơn.
Ví dụ : Khi dạy đến bài: Luyện tập quan sát cây cối. (Bài tập 2- SGK)
Đề bài : Quan sát một cây mà em thích trong khu vực trường em (hoặc nơi
em ở) và ghi lại những gì em quan sát được.
Trước khi dạy bài này, giáo viên cần dặn học sinh chuẩn bị quan sát trước
một cây cụ thể em thích trong khu vực trường hoặc nơi các em ở. (Ví dụ: cây ăn
quả, cây bóng mát, cây cảnh…). Nếu có điều kiện, trước giờ học, giáo viên tổ
chức cho cả lớp cùng quan sát một số cây cụ thể ở khu vực trường học.
Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát kĩ cây chọn tả bằng
nhiều giác quan theo một trình tự hợp lí. Mỗi học sinh chọn cây mình sẽ tả là cây
gì ? Cây đang trong thời kì nào? Xung quanh cây là cây gì hay có những cảnh vật
nào làm tôn lên vẻ đẹp của cây? Học sinh ghi chép lại những gì quan sát được
vào vở nháp và sắp xếp những điều quan sát được theo một trình tự hợp lí để
được một dàn ý chi tiết và trình bày trước lớp. Sau đó, học sinh dựa vào dàn ý chi
tiết để viết
bài văn miêu tả gồm 3 phần.
* Dưới đây là ví dụ về dàn ý chi tiết yêu cầu mỗi học sinh cần đạt được.
Mở bài:
- Cây bàng ở sân trường em rất to, là món quà hội phụ huynh trồng tặng
nhân ngày thành lập trường.
Thân bài:

- Hình dáng: Cây cao đến tầng hai, như một chiếc dù khổng lồ.
+ Rễ cây: nhô lên khỏi mặt đất như những con rắn đang bò.
+ Thân cây: tròn, màu nâu xỉn, sù xì như da cóc.
+ Tán lá: xanh um, mát rượi, che kín một khoảng sân trường. Mỗi khi có làn
gió nhẹ thổi qua, chúng rung rinh như chào đón.
+ Những chùm hoa li ti màu trắng xen lẫn giữa đám lá xanh.
+ Những chú chim sâu lích rích trong vòm lá...
+ Những quả bàng chín vàng lấp ló trong kẽ lá…
- Giờ ra chơi chúng em rất thích ngồi dưới gốc cây đọc báo, tán chuyện và
chơi những trò chơi thú vị…..
Kết bài:
- Em rất thích ngồi dưới gốc bàng ngắm nhìn trời xanh qua kẽ lá hay lắng
nghe lũ chim trêu ghẹo nhau. Cây bàng gắn liền với tuổi học trò của chúng em
nên…..
7


Như vậy, sau khi hướng dẫn học sinh quan sát kĩ đối tượng cần miêu tả, giáo
viên cần yêu cầu học sinh ghi chép lại những đặc điểm nổi bật, trọng tâm. Từ đó,
hướng dẫn học sinh lựa chọn tìm ý, sắp xếp, bố cục xây dựng thành một dàn bài
chi tiết. Từ dàn bài chi tiết, học sinh sử dụng ngôn ngữ, phát triển ý để xây dựng
thành từng đoạn văn và cả bài văn hoàn chỉnh.
Tóm lại: Quan sát, tìm ý, xây dựng đoạn là việc làm hết sức cần thiết cho
việc dạy thể loại văn miêu tả. Nếu thực hiện tốt khâu này thì học sinh viết bài văn
sẽ tốt hơn. Do vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách quan sát đối
tượng theo trình tự hợp lí với những đặc điểm nổi bật trọng tâm cũng như khuyến
khích học sinh linh hoạt, sáng tạo để có cách diễn đạt phù hợp với đối tượng.
3.3. Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng
đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường

ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu
cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Như vậy: Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu
hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung
chung, đại khái, sơ sài
3.4. Giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt có nghệ thuật
3.4.1 Hướng dẫn học sinh tập diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh
Đối với phần này, diễn đạt câu văn có hình ảnh rất phù hợp với thể loại văn
miêu tả. Trước hết, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu một số đoạn văn
mẫu hoặc những đoạn viết hay của học sinh để nhận xét về cách miêu tả, cách sử
dụng các biện pháp nghệ thuật.Từ đó, sẽ dễ dàng cho việc hướng dẫn các em
8


diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như:

so sánh, nhân hoá... trong bài làm.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nhận xét của mình về những câu văn trên
như bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Các biện pháp đó có tác dụng gì?
Học sinh so sánh những câu văn trên với những câu văn khác không sử dụng các
biện pháp nghệ thuật xem cách miêu tả nào hay hơn, sinh động và hấp dẫn hơn?
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ
thuật, các em thường được trau dồi qua tiết: Luyện tập xây dựng đoạn văn, luyện
tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả. Luyện tập miêu tả các bộ
phận của cây cối. Lập dàn ý cho bài văn miêu tả. Luyện tập tả ngoại hình, tả hoạt
động trong bài văn tả người…Qua những tiết Tập làm văn này, học sinh được thể
hiện cách diễn đạt của mình và học tập bạn, học sinh được luyện tập cách viết mở
bài, kết bài và luyện tập xây dựng đoạn văn. Qua đó, học sinh tập vận dụng một
số biện pháp nghệ thuật đã học vào việc diễn tả nội dung.
Ví dụ, khi viết văn, học sinh vận dụng sáng tạo những từ láy, từ chỉ màu sắc,
âm thanh, từ biểu cảm, biện pháp so sánh, nhân hoá... Những từ ngữ này là thế
mạnh đặc trưng của Tiếng Việt, là phương tiện miêu tả rất hiệu quả. Giáo viên
cần khai thác giá trị của lớp ngôn từ nghệ thuật này để hướng dẫn học sinh sử
dụng cái hay, cái đẹp, cái bóng bẩy, giàu tính gợi tả và hình ảnh gợi cảm của tiếng
Việt. Trong bài văn của các em ta đã gặp cách dùng từ như: ngọn cây cao vút,
bông hồng mỉm cười,... hay những câu văn học sinh sử dụng các biện pháp nghệ
thuật khi tả về hoa phượng “Khi chưa muốn khoe vẻ đẹp của mình, hoa e lệ ẩn
mình trong lớp đài hoa xanh mỡ màng”. Hay có những câu học sinh tả hoa mai
vàng: “Mỗi cơn gió thoảng qua, những cánh hoa rơi như những con bướm vàng
lượn bay trước khi rơi xuống đất”.
Như vậy, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả rất quan
trọng. Sử dụng so sánh tu từ sẽ giúp các em thể hiện kín đáo mà sâu sắc tình cảm,
cảm xúc, thái độ, và sự đánh giá về đối tượng; làm cho đối tượng trở nên đẹp đẽ,
sinh động, cụ thể, hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý và dễ gợi liên tưởng bất ngờ độc đáo
cho người đọc, người nghe. Cũng như so sánh, nhân hoá được sử dụng trong
miêu tả rất hữu hiệu vì nó là con đường ngắn nhất đưa sự trừu tượng, khô khan

đến với nhận thức của con người.
Như vậy: Ở mỗi tiết Tập làm văn miêu tả, giáo viên phải tuỳ thuộc vào yêu
cầu bài tập để đưa ra những câu hỏi và bài tập phù hợp, gợi mở để học sinh dễ
dàng sử dụng các biện pháp nghệ thuật đã học, giúp cho cách diễn đạt của các
em sinh động hơn.
3.4.2 Luyện cho học sinh xây dựng mở bài, kết bài
Giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ: Nếu viết mở bài hay, bài văn sẽ cuốn hút
người nghe, người đọc. Kết bài hay, hấp dẫn sẽ để lại trong lòng người đọc ấn
9


tượng nhớ mãi, khó quên. Do vậy, phần mở bài và kết bài trong bài văn là rất
quan trọng.
Phần mở bài:
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết phần mở bài theo cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Có thể mở bài bằng một câu hoặc bằng một đoạn văn nhưng
không được phép tách rời nội dung đã xây dựng được. Dù mở bài bằng cách nào
thì cũng phải đạt được yêu cầu là giới thiệu được đối tượng định tả. Tuỳ nghệ
thuật vào bài của từng em, giáo viên không nên gò bó, áp đặt. Học sinh mở bài
bằng những cách khác nhau nhưng vẫn đảm bảo nội dung một cách tự nhiên với
sự nhận thức và tình cảm của chính mình.
Để học sinh hiểu và viết tốt phần mở bài thì giáo viên cần hướng dẫn học
sinh hiểu rõ sự khác nhau giữa hai cách mở bài này. Cụ thể: Mở bài trực tiếp là
giới thiệu, đi thẳng ngay vào vấn đề, đối tượng mình cần tả. Còn mở bài gián tiếp
là nói hoặc giới thiệu về chuyện khác có liên quan rồi mới dẫn vào giới thiệu đối
tượng cần tả .
Ví dụ 1: Khi học sinh tả cây trong vườn mà em yêu thích, học sinh có thể
mở bài theo những cách sau: “ Bên cạnh bờ ao nhà em, một hàng xoan đang mùa
hoa nở, soi vẻ đẹp rực rỡ của mình trên mặt nước”. (Mở bài trực tiếp)
Hoặc: “ Mười năm trước đây, ông em đã trồng một hàng xoan bên bờ ao. Giờ

là tháng ba, những cây xoan ấy đã lớn và đang khoe những chùm hoa đẹp nhất
của mình.” (Mở bài gián tiếp)
Qua hai cách mở bài trên, giáo viên cần cho học sinh nhận xét cách mở bài
nào hay hơn, sâu hơn. Từ đó, giáo viên khuyến khích học sinh viết mở bài theo
cách gián tiếp để phần mở bài hay hơn, sâu hơn, hấp dẫn người đọc. (Giáo viên
cần lưu ý khi dạy học sinh khá, giỏi)
- Phần kết bài:
Giống như mở bài, kết bài có thể bằng nhiều cách, có thể kết bài mở rộng
hoặc kết bài không mở rộng. Giáo viên hướng cho học sinh nên chọn cách nào
phù hợp với mở bài và thân bài thì bài văn mới đúng trọng tâm, mới hay.
Để học sinh hiểu và viết tốt hơn hai cách kết bài này, giáo viên cũng cần làm
rõ cho học sinh hiểu thế nào là kết bài mở rộng hoặc kết bài không mở rộng? Kết
bài mở rộng: Nêu ý nghĩa kết hợp đưa ra lời bình luận cũng như tình cảm của
người viết đối với đối tượng đang tả. Kết bài không mở rộng: Có thể nêu ích lợi
hoặc tình cảm của người tả đối với đối tượng tả, không bình luận gì thêm.
Ví dụ: học sinh viết phần kết bài cho bài văn tả cây bóng mát ở sân trường như
sau: “ Em rất thích cây phượng ở sân trường. Dù đi đâu xa em vẫn nhớ về nó.”
(Kết bài không mở rộng)
Hoặc “ Rồi cũng sẽ đến ngày chúng em phải xa mái trường tiểu học thân yêu,
xa cây phượng già với bao kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò. Em sẽ không bao
10


giờ quên cây phượng, quên những giờ phút chúng em đã cùng nhau ngồi ôn bài,
ngồi hóng mát và trò chuyện. Vì vậy, dù đi đâu xa em vẫn luôn nhớ về cây như
nhớ về những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò”.(Kết bài mở rộng)
Tóm lại: Với hai cách kết bài trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thảo luận
và nêu nhận xét xem cách kết bài nào của bạn hay hơn? Hay hơn chỗ nào? Vì
sao lại hay? Từ đó, giáo viên nên khuyến khích nhiều học sinh học tập cách kết
bài mở

rộng để bài văn có chiều sâu hơn.
3.5. Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện viết câu văn ngắn gọn, biết sử dụng
các dấu câu và bố cục bài văn rõ ràng.
Thực trạng cho thấy, nhiều học sinh chưa biết sử dụng đúng dấu câu trong bài
văn. Có những bài văn học sinh không hề sử dụng dấu câu, chỗ nào thích viết hoa là
các em tự do viết hoa. Để khắc phục tình trạng này, ngay khi luyện viết từng đoạn,
giáo viên cần giúp học sinh hiểu, biết cách ngắt các ý diễn đạt bằng các dấu câu như
dấu phẩy, dấu chấm. Trong các tiết làm văn đầu tiên, việc hướng dẫn sử dụng dấu
câu đòi hỏi giáo viên phải thật sự kiên trì, tận tình, công phu để tập thói quen cho
học sinh. Cụ thể là: Cho học sinh đọc đoạn văn mình viết, nêu chỗ dùng dấu câu,
nếu dấu câu dùng chưa đúng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai vì
sao lại chưa đúng và cách sửa lại như thế nào cho phù hợp. Hoặc nếu chưa có dấu
câu nào thì yêu cầu học sinh học sinh đọc kĩ lại từng câu, xem từng câu diễn đạt nội
dung gì, ý gì, từ đó có cách sử dụng dấu câu phù hợp. Ở phần này, giáo viên tập
trung vào những học sinh thường sử dụng sai dấu câu. Qua việc hướng dẫn những
học sinh thường sử dụng dấu câu sai, những học sinh khác cũng tự soát bài và rút
kinh nghiệm cho bản thân trong mỗi bài viết.
Bên cạnh đó, giáo viên cần giúp học sinh biết viết câu văn ngắn gọn. Giúp
học sinh viết câu văn ngắn gọn nhưng không có nghĩa là chắt lọc cốt sao viết cho
đúng ý mà còn phải biết diễn đạt câu văn sao cho sinh động, gợi hình ảnh, âm
thanh. Ví dụ :Một học sinh viết khi tả về những tán lá của cây đa “Trên các tán
lá xanh, các loài chim đang thi nhau hót.” sẽ không hay bằng câu “Trên tán lá
xanh cao vòi vọi ấy, lũ chim sáo, chào mào, chìa vôi… kéo về hàng đàn, hàng lũ,
tha hồ thi nhau ca hát những làn điệu dân ca phong phú”. Vì vậy, khi luyện cho
học sinh viết từng đoạn văn, đặc biệt là viết các đoạn ở thân bài, giáo viên hướng
dẫn học sinh diễn đạt câu văn rõ ràng, mạnh lạc, sinh động nhưng lại phải giàu
hình ảnh bằng cách sử dụng hợp lý các từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, từ
ghép.... có thể mở rộng nòng cốt câu nhưng lời lẽ phải rõ ràng, không lủng củng,
trùng lặp. Trong các tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, giáo viên nên cho học sinh
viết nháp, gọi một số học sinh trình bày, cả lớp và giáo viên cùng sửa cách dùng

từ, cách diễn đạt, đưa ra các phương án diễn đạt hay để học sinh học tập.. Sau đó
học sinh mới viết lại đoạn văn vào vở. Với những câu văn học sinh viết dài dòng
11


mà không sáng ý, giáo viên nên cho học sinh nêu ý cần thông báo là gì rồi tập
cho học sinh lựa chọn từ ngữ, sắp xếp câu để viết ngắn gọn mà vẫn đảm bảo nội
dung.
Ví dụ có học sinh viết phần kết bài khi tả về cây bóng mát “Cây bàng là
người bạn thân của em vì cây bàng có nhiều ích lợi. Em rất thích cây bàng. Cây
bàng như cái ô che mưa che nắng. Quả của cây bàng để ăn . Lá cây bàng để gói
xôi. Vì vậy, cây bàng là người bạn thân của em”
Giáo viên cần chỉ ra để học sinh thấy rõ viết như vậy là hơi kể lể và lặp lại
nhiều lần từ “cây bàng”, lặp lại câu “cây bàng là người bạn thân của em” và cách
sắp xếp câu chưa hợp lí, còn lộn xộn…Do đó, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh viết lại như sau:
“Em rất yêu cây bàng ở trường em. Cây bàng có rất nhiều ích lợi. Nó không
những là cái ô che nắng, che mưa cho chúng em trong những giờ chơi thú vị, lá
bàng còn dùng để gói xôi, cành để làm chất đốt, quả bàng ăn chan chát, bùi bùi,
thơm thơm. Cây bàng là người bạn gắn bó với những kỷ niệm vui buồn của tuổi
học trò của chúng em...”
Việc lựa chọn, sử dụng phù hợp các từ ngữ trong mỗi câu văn là một kỹ
năng
khó đòi hỏi học sinh phải thực hành viết nhiều mới có được. Có thể do tâm lý
phải viết nhiều, học sinh sẽ ngại viết, ngại làm bài. Do đó, giáo viên thường
xuyên động viên, khuyến khích giúp các em dần dần say mê với việc học làm
văn. Đặc biệt giáo viên cần giúp các em bố cục bài viết rõ 3 phần. Hết mỗi
phần mở bài, thân bài, kết bài phải xuống dòng. Trong phần thân bài có thể
có nhiều đoạn văn, mỗi đoạn văn nêu một nội dung nhất định. Ví dụ có đoạn
tả bao quát, tả từng bộ phận của cây, hoặc tả cây theo từng mùa, từng thời kì

phát triển của cây…Giáo viên lưu ý học sinh cần thể hiện rõ nội dung của
từng phần và khi viết hết mỗi đoạn cần phải xuống dòng.
Tóm lại: Hướng dẫn học sinh luyện viết câu văn ngắn gọn, biết sử dụng
các dấu câu và bố cục bài văn rõ ràng trong bài văn là việc làm thường xuyên
không những ở phân môn Tập làm văn mà các môn học khác nữa như phân môn
LTVC, Tập đọc, Chính tả vv… Việc làm này đồi hỏi giáo viên phải tìm tòi, trăn
trở để mỗi giờ lên lớp các em được trang bị vốn từ và cách viết câu văn đủ ý, có
cảm xúc
3.6. Giáo viên hướng dẫn học sinh nâng cao năng lực viết văn có cảm xúc
thông qua các môn học.
Cũng như tất cả các môn học, môn Tiếng Việt góp phần giáo dục thẩm mỹ
cho học sinh. Thông qua các bài tập đọc, học thuộc lòng,( các tiết ôn luyện buổi
chiều) giáo viên giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ văn.
Thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt
12


Qua bài tập đọc thông qua phần đọc hiểu giáo viên giúp các em tự cảm nhận
được vẻ đẹp đoạn văn bài thơ văn, nhập vai vào nhân vật từ đó sẽ trau dồi cho
các em khả năng viết văn hay. Chính vì thế trong các tiết học tập đọc, giáo viên
phải giúp học sinh cảm nhận được nội dung ý nghĩa và nghệ thuật của mỗi bài
thơ, tìm hiểu bài, biết hoá thân vào nội dung các câu chuyện, và nắm được những
gì gửi gắm trong bài thơ, bài văn đó. Từ đó, tâm hồn các em được “chất dồn”
những lời hay, ý đẹp, những cảm xúc và những hiểu biết trẻ thơ góp phần làm
cho các bài văn bay bổng hơn, dễ đi vào lòng người hơn.
Để trau dồi năng khiếu viết văn văn học ở học sinh lớp 4,5 cần giúp học
sinh nắm vững kiến thức sử dụng vốn từ. Đọc và hiểu được nghệ thuật của tác
giả khi dùng từ ngữ, các biện pháp tu từ trong câu
Ví dụ:
Đọc đoạn văn tả cảnh Sa Pa “ Món quà tặngdiệu kì thiên nhiên dành cho đất

nước ta”( Tiếng Việt 4, tập 2)- chắc các em HS sẽ chú ý đến cách đặt câu rất hay
của nhà văn Nguyễn Phan Hách: “ Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh
khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành
đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn
màu đen nhung hiếm quý”.
Nếu thiếu đi những trạng ngữ gây ấn tượng về thời gian( thoắt cái),không
dung cách đảo bổ ngữ ( lác đác), đảo vị ngữ( trắng long lanh) thì những câu văn
trên sẽ không thể làm cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, huyền ảo
của thắng cảnh Sa Pa.
Ngoài những kiến thức về ngữ âm, từ ngữ, ngữ pháp, qua các giờ Tập đọc,
Kể chuyện, Tập làm văn ở lớp 4, 5 ( tiết ôn tập buổi chiều) người giáo viên cần
cho học sinh làm quen và cảm nhận bước đầu về một số khái niệm như: hình
ảnh, chi tiết, bố cục…khi tìm hiểu một văn bản trên lớp, để tìm hiểu nội dung, ý
nghĩa của bài văn, bài thơ tốt hơn GV cần hướng dẫn về một số biện pháp : so
sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ…Để làm được bài văn đạt kết quả tốt GV cần
hướng dẫn HS thực hiện những việc sau:
- Đọc kỹ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập( phải trả lời được điều gì? Cần
nêu bật được ý gì?...)
- Đọc và tìm hiểu về câu thơ, câu văn hoặc đoạn trích được nêu trong đề bài.
- Viết đoạn văn về cảm thụ văn học hướng vào yêu cầu của đề bài.
- Hiểu được về cách viết văn có cảm xúc, biết sử dụng vốn từ phù hợp và có giá
trị, và viết những câu văn giàu hình ảnh .
Tóm lại: Giúp học sinh nâng cao năng lực viết văn có cảm xúc. Là khâu
không thể thiếu được trong quá trình dạy tập làm văn, bởi vì một bài văn hay đạt
điểm cao ngoài phần bố cục bài văn phải có cảm xúc, hình ảnh sinh động,vốn từ
13


phong phú và câu văn phải có hồn trông phân môn tập làm văn và các môn học
khác.

3.7. Giáo viên hướng dẫn học sinh phát huy tính tích cực của các đối tượng
học sinh trong giờ học
Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý tới tất cả
mọi đối tượng học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần phải phân định theo nhiều mức
độ (hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành) để có cách tổ chức dạy, học
phù hợp để phát huy, khích lệ tất cả mọi học sinh trong học tập.
Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh thì chủ công là người thầy.
Mỗi giờ dạy, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở, định hướng
để mọi đối tượng học sinh trong lớp đều có thể trả lời được, đáp ứng được yêu
cầu của giáo viên và phải động viên kịp thời khi học sinh có tiến bộ, đặc biệt là
học sinh đã hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Giáo viên cũng cần chú ý
hơn khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh có năng khiếu, nên khuyến khích các
em mạnh dạn, tự nhiên hơn trong cách viết. Muốn vậy, giáo viên nên tổ chức và
giành nhiều thời gian hơn cho học sinh (vào buổi học thứ 2 trong ngày) được
thực hành viết đoạn văn nhiều lần, sau mỗi lần, giáo viên giúp đỡ các em chỉnh
sửa để có được những đoạn văn, bài văn hay và hoàn chỉnh. Với những em viết
văn còn nhiều lỗi chính tả thì đây cũng là thời gian cho phép các em chú ý để rèn
luyện cả về chính tả. Tùy theo từng học sinh giáo viên có thể tự đánh giá và phân
chia các đối tượng để tổ chức luyện tập viết văn cho phù hợp. Chẳng hạn:
Học sinh hoàn thành tốt: Yêu cầu các em viết nâng cao, viết theo nhiều
phong cách khác nhau, hoàn chỉnh một bài văn miệng để các bạn khác học tập.
Học sinh hoàn thành: Rèn viết đúng, dùng từ đặt câu phù hợp, có thể thêm
một số yêu cầu hơi nâng cao một chút.
Học sinh chưa hoàn thành: Luyện viết đúng bố cục, biết dùng từ đặt câu, sử
dụng dấu câu, tập diễn đạt, dùng từ phù hợp, khắc phục các lỗi chính tả, ngữ
pháp..v.v...
Ngoài thời gian học trên lớp, giáo viên hướng dẫn thêm học sinh cách học
tập làm văn ở nhà đặc biệt là động viên các em kiên trì, chịu khó viết đi viết lại
một đoạn văn, một bài văn nếu thấy chưa ưng ý. Cần cho các em làm nháp bất kỳ
đoạn văn ngắn hay dài, có thể viết nháp từng đoạn hoặc viết nháp cả bài, chỉnh

sửa trước khi viết bài chính thức.
Tóm lại, trong giờ Tập làm văn, nếu giáo viên biết tổ chức các hoạt động
phát huy được tính tích cực của học sinh (theo từng đối tượng) thì tất cả mọi đối
tượng học sinh sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn để bày tỏ suy nghĩ của mình thông
qua bài viết. Cũng như tự học sinh có thể rút ra những kiến thức cần ghi nhớ để
vận dụng vào thực hành nói – viết văn ngày một tốt hơn.
14


3.8. Giáo viên hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng viết văn cho học sinh trong
tiết trả bài
Chấm chữa bài là một công việc thường xuyên của giáo viên, công việc này
rất cần thiết đối với phân môn Tập làm văn. Vì nếu chấm chữa bài thường xuyên,
giáo viên sẽ nắm được lực học của từng em, từng đối tượng về cách viết văn. Từ
đó, giáo viên nắm được những phần mà học sinh đã làm được, cũng như phát
hiện và nắm được các lỗi sai mà học sinh thường mắc phải trong bài văn như lỗi
chính tả, lỗi về cách dùng từ, ngữ pháp, về cách diễn đạt câu, đoạn và cấu tạo của
bài văn. Để từ đó, giáo viên có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng hướng dẫn các em
biết cách viết ngày càng hay hơn.
Để làm tốt phần này, giáo viên cần phải chú ý để dạy tốt tiết Tập làm văn trả
bài viết. Trong tiết trả bài các em tự đánh giá được bài viết của mình, nhận xét bài
của bạn, thấy được ưu điểm, hạn chế trong bài làm của mình, của bạn, biết sửa
lỗi, viết đoạn văn hay hơn.
Quy trình tiết dạy trả bài như sau:
a/ Củng cố kiến thức đã học ( nếu có)
b/ Dạy bài mới:
- Giới thiệu bài: Giáo viên nêu mục đích yêu cầu của tiết học.
+ Nhận xét chung ưu điểm, hạn chế về kết quả bài viết của cả lớp (hạn
chế không nêu tên học sinh)
+ Nhận xét chung và hướng dẫn học sinh sửa một số lỗi điển hình (giáo

viên viết trước đề bài và một số lỗi điển hình ở bảng lớp, bảng phụ).
+ Hướng dẫn học sinh chữa một số lỗi điển hình :
. Về bố cục.
. Về ý (nội dung).
. Cách diễn đạt (lỗi dùng từ, viết câu, chính tả).
- Trả bài và hướng dẫn học sinh chữa bài.
- Học tập những đoạn văn hay, bài hay (chỉ chỗ hay).
- Viết lại một đoạn văn trong bài làm. (viết lại, trình bày)
c/ Củng cố: Nhận xét tiết học, tuyên dương; dặn viết lại bài (đối với học sinh viết
chưa tốt – Giáo viên có kiểm tra sau khi học sinh viết lại).
Để thực hiện tốt tiết trả bài, giáo viên phải chuẩn bị tốt các việc như sau :
Chấm bài viết của học sinh thật kĩ, phát hiện và ghi lại những ưu điểm, hạn
chế phổ biến của bài văn : bài hay, đoạn hay, câu hay, ý sáng tạo, từ hay, bố cục
chặt chẽ; dùng từ chưa chính xác, lặp từ, lặp ý, câu chưa hoàn chỉnh (thiếu thành
phần, chưa rõ nghĩa), lỗi chính tả.
Ghi nhận xét cụ thể của giáo viên vào bài của học sinh.
Giáo viên chọn đoạn, bài văn tiêu biểu của lớp có thể chọn thêm bài của năm
trước cho các em tham khảo.
15


Chuẩn bị câu hỏi gợi mở (dẫn dắt học sinh tự phát hiện, nhận thức được sai
sót trong bài viết của mình, của bạn), giáo viên sử dụng phương pháp nêu vấn đề
kết hợp giảng giải để dạy tiết trả bài.
Ví dụ khi dạy tiết học trả bài văn miêu tả đồ vật ( tuần 26 - Lớp 5) . Sau khi
chấm bài xong, giáo viên cần nêu nhận xét chung về bài làm của học sinh. Nhận
xét những ưu điểm mà học sinh đã làm được và những tồn tại học sinh còn mắc
phải. Giáo viên phát bài cho học sinh, yêu cầu các em đọc lại lời phê của giáo
viên và cho học sinh đổi bài trong nhóm đôi để tìm ra những lỗi sai ở trong bài
như sai về chính tả, cách dùng từ, đặt câu, chuyển ý, chuyển đoạn, sử dụng các

hình ảnh chưa phù hợp... Sau đó, học sinh tự nêu lỗi sai trong bài và tự tìm cách
để sửa lỗi. Cuối cùng, học sinh cả lớp cùng sửa lỗi (theo mẫu dưới đây)
Loại lỗi
Các lỗi trong bài
Sửa lại từng loại
Chính tả
……………………….
………………………….
Dùng từ
……………………….
………………………….
Viết câu
………………………
…………………………..
Ngoài ra học sinh có thể học tập cách viết của bạn để viết lại một đoạn văn
khác hay hơn. (như viết lại phần thân bài, mở bài theo cách gián tiếp và kết bài
theo cách mở rộng).
Bước tiếp theo, giáo viên cho HS đạt điểm cao đọc bài văn của mình, cả lớp
cùng nghe và học tập cách viết của bạn, lớp có thể hỏi bạn 1 vài câu hỏi để bạn
giải thích và truyền cho 1 số kinh nghiệm về cách viết văn hay
* Sau đây là 1 số ví dụ : Bài viết đạt yêu cầu ( đoạn văn viết về một mùa trong
năm)
Ví dụ 1: Mùa hè bắt đầu từ tháng tư. Mặt trời mùa hè đỏ rực. Ánh nắng chói
chang khiến cho nhiều người khó chịu. Cây cối trong vườn tươi tốt. Nghỉ hè
chúng em được vui chơi thoải mái. Được bố mẹ cho về quê. Em rất thích mùa hè.
Cần cho các em thấy rằng đoạn văn này viết mộc mạc, chân thực song câu
văn chưa giàu hình ảnh, cách dùng từ cũng chưa sinh động. Vì thế người GV cần
phải hướng dẫn các em về lựa chọn từ ngữ đặc trưng, sử dụng câu văn giàu hình
ảnh thì đoạn văn sẽ có cảm xúc hơn rất nhiều
* Ví dụ 2: Những bài viết chân thực, có nét độc đáo, biết dùng từ gợi tả , gợi

cảm.
Trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa đều có một vẻ đẹp riêng
nhưng em thích nhất là mùa hè. Mùa hè bắt từ tháng tư. Mặt trời mùa hè đỏ rực
như một quả cầu lửa. Ánh nắng chói chang, gay gắt làm cho tiết trời oi nồng và
khó chịu. Nhưng không gian thật náo nhiệt bởi tiếng ve sầu kêu râm ran. Cây cối
trong vườn thật tươi tốt. Cây nào cũng cho nhiều hoa thơm, quả ngọt. Cây xoài
16


sai trĩu quả , những quả xoài chín vàng thơm lựng. Nghỉ hè, em thường được bố
mẹ cho về quê thăm ông bà, được vui chơi thoải mái không còn bận rộn với sách
vở thật là thú vị. Chính những điều đó làm cho em rất yêu thích mùa hè..
Hay trong khi làm văn học sinh đã dùng từ chưa đúng làm câu văn khô
khan và đôi khi còn sai nghĩa, người giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh sửa
lại
Ví dụ 3: Sửa lại những từ ngữ dùng sai trong đoạn văn sau: “Dáng người
mẹ đậm đà, da đen lay láy vì dãi dầu mưa nắng. Khuôn mặt mẹ đầy đặn và có
phúc. Dưới cặp lông mày thanh thản đôi mắt của mẹ tôi mở to thao láo. Đôi mắt
ấy đối với tôi thật gần gũi và sáng sủa biết bao”.
Học sinh đã sửa lại để câu văn hay hơn như: “ Mẹ có dáng người đậm đà
nhưng ăn mặc lúc nào cũng gọn gàng tươm tất. Da đen sạm vì dãi dầu mưa nắng.
Khuôn mặt mẹ đầy đặn và phúc hậu. Đôi mắt mở to tròn đen láy ẩn dưới cặp lông
mày thanh thanh. Đôi mắt ấy luôn nhìn chúng em với vẻ trìu mến thân thương ,
đối với tôi nó thật gần gũi và thân thiết biết bao”.
Tóm lại: Tiết trả bài cũng không kém phần quan trọng. Vì đây là dịp để mỗi
học sinh có điều kiện nhìn lại bài của mình một cách rõ hơn. Để từ đó, học sinh
biết được bài viết của mình còn phần nào chưa được để biết cách khắc phục
cũng như có cơ hội để học tập cách viết của bạn, để bài viết của mình ngày càng
hoàn thiện và tiến bộ hơn.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIỀN

Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và
học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học Tập làm văn (văn miêu tả). Các
giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn.
Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn, việc
viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết
miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn
đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi
cảm; bước đầu biết sử dụng hình ảnh khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em
không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa. Thông qua việc dự giờ thăm lớp
thường xuyên, quan sát trực tiếp hoạt động dạy và học trên lớp cho thấy kết quả
học tập phân môn Tập làm văn lớp 4,5 nói chung và văn miêu tả nói riêng được
thể hiện ở chỗ:
Các em nói, viết được những đoạn văn, bài văn đúng với yêu cầu của đề bài.
Các em say mê, ham thích đọc và nghe các tác phẩm văn học, mong muốn học
các diễn đạt chuẩn mực, tinh tế các tác phẩm văn học vận dụng vào việc bày tỏ ý
nghĩ và tình cảm của mình trong bài văn thật tự nhiên và có cảm xúc. Nhờ vậy
17


m cht lng phõn mụn Tp lm vn cng nh mụn Ting Vit ó c nõng
lờn.
. Sau cỏc thi im kho sỏt cht lng kt qu phõn mụn Tp lm vn ca 55
hc sinh lp 4 v 56 hc sinh lp 5 nm hc 2016 - 2017 nh sau:
Kt qu kho sỏt v kh nng vit Tp lm vn
* Lp 4
Thi im
im 9-10 im 7-8 im 5-6 im di 5 Ghi chỳ
Gia K1
0
11

26
18
Cui K1
3
17
25
10
Gia K2
8
25
17
5
Cui Kỡ 2
11
32
12
0
* Lp 5
Thi im
im 9-10 im 7-8 im 5-6 im di 5 Ghi chỳ
Gia K1
0
12
32
12
Cui K1
5
18
22
11

Gia K2
9
24
17
6
Cui Kỡ 2
15
27
14
0
Sau mt nm hc ch o GV lp 4, 5 thc hin mt s bin phỏp dy hc
TLV nờu trờn, tụi nhn thy cht lng ging dy mụn Ting Vit núi chung,
phõn mụn Tp lm vn núi riờng ca nh trng ó cú mt s tin b rừ rt, ú l
nim vui s ng viờn cho nhng ngi trc tip ng lp v nhng ngi lm
cụng tỏc ch o nh chỳng tụi.
III. KT LUN, KIN NGH
.1. Kt lun
Sau thi gian u t nghiờn cu v ỏp dng nhng bin phỏp dy hc nh
trờn, hc sinh lp 4,5 ca trng ó cú chuyn bin i lờn v cht lng phõn
mụn Tp lm vn núi riờng v mụn Ting Vit núi chung tụi rỳt ra 1 s bi hc
sau:
- giỳp hc sinh lp 4,5 lm c bi vn miờu t sinh ng, ỳng kiu
bi, ũi hi giỏo viờn phi dnh nhiu thi gian, cụng sc nghiờn cu son ging,
cú lũng nhit tỡnh vi hc sinh v tõm huyt vi ngh nghip. Thy cụ giỏo ó
mit mi, tn tu thỡ vic mong mun cú nhiu hc sinh hc tt mụn Ting Vit
c bit l nng khiu vit vn s khụng cũn l khú. Tp lm vn ỳng l phõn
mụn cú tớnh cht tng hp v sỏng to cao. Vỡ th dy hc sinh hc tt mụn vn
l cn s u t ca c thy v trũ
- GV chú ý mở rộng vốn từ cho HS rèn kĩ năng sử dụng từ cho
HS ở tất cả các môn học, để dùng từ hay phải hớng dẫn HS luôn

18


luôn có sự liên tởng sự vật với nhau so sánh hiện tợng này với hiện
tợng khác ,sự vật này với sự vật khác để lựa chọn từ ngữ phù hợp
mới diễn đạt rõ ý tởng của mình. GV cần chú trọng việc sử
dụng từ khi nói ,viết của HS.
- Tựy i tng hc sinh cng cn cú s vn dng mt cỏch khộo lộo, sỏng
to ca giỏo viờn. Tụi ngh rng ni dung ti ny khụng cú nhiu im mi, ú
ch l cỏi tõm s say mờ ngh nghip ca giỏo viờn, s tn tu vi hc sinh, s
ch o, qun lớ v ging dy nghiờm tỳc thỡ chc chn s gt hỏi c thnh
cụng.
- Nõng cao hn na nhn thc cho GV v tm quan trng ca phõn mụn Tp
lm vn v i mi phng phỏp dy hc phõn mụn Tp lm vn. Ch o sỏt sao
hn na n vic dy v hc phõn mụn qua cỏc bui sinh hot chuyờn qua d
gi thm lp, qua dy thc nghim, i chng chuyờn . Ch o lm v s
dng dựng dy hc trong GV v HS nht l khõu s dng, khai thỏc trit
tỏc dng ca dựng dy hc.
- Vic ch o cn xuyờn sut t u n cui nm hc. Tng cng bi
dng chuyờn mụn nghip v, tớch ly nghip v cho giỏo viờn. c bit bi
dng vn ngụn ng dy Tp lm vn núi chung, vn miờu t núi riờng thụng
qua d gi ng nghip, cỏc bui SHCM .
2. Kin ngh xut
dy hc cú hiu qu Tp lm vn Tiu hc ( nht l vn miờu t lp
4, 5 ) tụi xin cú 1 vi kin ngh sau:
1. Tng cng cỏc bi tp c cung cp cho hc sinh kin thc vit vn
miờu t.
2. i vi nh trng: Cn nõng cao cht lng chuyờn mụn, m cỏc
chuyờn v vn miờu t, nhm rỳt kinh nghim chung ng thi nõng cao cht
lng, hiu qu ging dy phõn mụn Tp lm vn núi chung v kiu bi vn miờu

t núi riờng.
3. i vi cỏc ng chớ giỏo viờn núi chung v giỏo viờn dy lp 4, 5 núi
riờng: Thy, cụ giỏo cn phi u t hn na v phng phỏp v hỡnh thc cho
mi gi hc Tp lm vn (tng th loi, tng kiu bi c th ) tng bc giỳp
cỏc em nm vng kin thc, ch ng núi lờn nhng suy ngh hn nhiờn ca
mỡnh; núi ỳng, núi hay, lm giu thờm vn t ng v gi gỡn s trong sỏng ca
Ting Vit .
Trờn õy l mt s kinh nghim ca tụi trong vic: Ch o nhm nõng cao
cht lng dy v hc vn miờu t lp 4,5.Trong quỏ trỡnh thc hin ti chc
chn cũn nhiu thiu sút. Rt mong s úng gúp ý kin ca Hi ng Khoa hc,
ca cỏc ng nghip, ti ca tụi c hon thin hn v tụi cú th thc
hin nhim v ch o qun lớ ging dy ngy mt tt hn.
19


Tôi xin trân trọng cảm ơn !

20


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Đông Quang, ngày 30 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Dương Thị Tú


21



×