Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy tập làm văn lớp 5 môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
Tên nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Các SKKN hoặc cá giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
6
16
18
18


18
20

1. MỞ ĐẦU:
1.1.Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết,Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục
quốc dân, chất lượng giáo dục nói chung phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo
ở bậc học Tiểu học. Mục tiêu Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên các bậc học trên. Trong
1


các môn học ở bậc Tiểu học thì môn Tiếng Việt chiếm một vị trí rất quan trọng
nó không chỉ được thể hiện ở thời lượng của môn học trong chương trình
bậc học mà nó còn thể hiện ở nội dung, mục tiêu của chương trình. Nó giúp các
em chiếm lĩnh được tri thức, hình thành trong các em các kĩ năng cơ bản nhất
Nghe - Nói- Đọc- Viết và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, thông qua
việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy để từ đó
các em có cơ hội học tập các môn học khác cũng như vận dụng những hiểu biết
của mình vào cuộc sống, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách của học sinh. Thông qua môn học mà hình thành nên con
người mới với vốn kiến thức, với trình độ văn hóa, có năng lực kết hợp những
tinh hoa văn hóa dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Thực tiễn đã chứng
minh điều đó. Do đó việc quan tâm, bồi dưỡng để các em có kiến thức, kĩ năng
và qua đó bồi dưỡng tình cảm cho các em là việc không thể thiếu. Phân môn Tập
làm văn trong chương trình Tiếng Việt hội tụ đầy đủ kiến thức, kĩ năng của
nhiều phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Nó phản ánh tương đối đầy
đủ kết quả học tập các phân môn khác, môn học khác, vốn hiểu biết, kĩ năng và

đặc biệt nó thể hiện tình cảm, nhân cách của các em qua bài tập làm văn. Bên
cạnh đó phân môn còn cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng
Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hoá, văn
học Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng, học sinh
được trang bị những kiến thức cơ bản và tối cần thiết giúp các em hoà nhập với
cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Cùng với môn Toán
và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm
văn sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu,
nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong
đó phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt (Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện ).
Chính vì thế, việc dạy và học Tập làm văn đặc biệt là thể loại văn miêu tả là vấn
đề luôn luôn cần có sự đổi mới. Không thể cứ áp dụng mãi phương pháp, kĩ
thuật, ứng dụng cũ, “ giáo án cũ” vào dạy học mà lại mong có chất lượng thực
sự được mà song song với việc kế thừa cái cũ, cái vốn có cần phải phải có sự
sáng tạo, vận dụng những phương pháp, những kĩ thuật dạy học để nâng cao
chất lượng dạy và học phân môn tập làm văn . Để viết được một bài văn miêu tả
hoàn chỉnh, học sinh cần có rất nhiều kĩ năng cần thiết: xác định các yêu cầu của
tiêu đề, quan sát để tìm ý tưởng, phác thảo, viết đoạn văn, liên kết đoạn với
nhau… Thu thập và sắp xếp ý tưởng là những kỹ năng quan trọng và không dễ
dàng đối với hầu hết học sinh. Nếu không biết cách lập dàn ý, bài văn của các
em sẽ trở nên lộn xộn, thiếu ý, lặp ý…Đặc biệt hơn nữa là qua thực tế nhiều năm
giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh không hứng thú học phân môn Tập làm
2


văn. Vậy làm sao để học sinh hứng thú học tập đối với phân môn này và đặc biệt

là nâng cao chất lượng học văn miêu tả cho học sinh lớp 5? Đây là vấn đề tôi
luôn trăn trở để tìm ra lời giải đáp. Sau năm năm tham gia chương trình SEQAP,
bản thân tôi được tiếp cận với nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
trong đó có kĩ thuật sơ đồ tư duy, sơ đồ tư duy được sử dụng như một công cụ
dùng để tập hợp và triển khai ý một cách hiệu quả. Tôi đã tìm hiểu và cảm thấy
thật sự mình đã tìm ra chìa khóa giải quyết vấn đề mà bản thân và các đồng
nghiệp đặt ra. Sơ đồ tư duy giúp gì cho học sinh trong môn Tập làm văn ? Qua
việc giảng dạy, ứng dụng Sơ đồ tư duy vào môn học, bản thân tôi thấy được vai
trò rất lớn của Sơ đồ tư duy trong việc lập dàn ý cho bài văn miêu tả.
Từ những lí do khách quan và chủ quan trên, để khắc phục những hạn chế
trong việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
trong nhà trường. Với tinh thần học hỏi, dám nghĩ dám làm vươn lên trong đổi
mới sáng tạo, tôi chọn đề tài “Vận dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học văn miêu tả
lớp 5”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Chỉ ra cách sử dụng Sơ đồ tư duy, vận dụng Sơ đồ tư duy vào việc lập
dàn ý trong dạy học văn miêu tả lớp 5.
- Đề xuất cách ứng dụng Sơ đồ tư duy vào việc lập dàn ý trong dạy học
văn miêu tả lớp 5, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học văn miêu tả lớp 5 nói riêng
và Tập làm văn nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng của việc dạy học lập dàn ý văn miêu tả lớp 5.
- Cách ứng dụng Sơ đồ tư duy vào việc lập dàn ý trong dạy học văn miêu
tả lớp 5, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học văn miêu tả lớp 5 nói riêng và Tập
làm văn nói chung.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn, quan sát.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp thực nghiệm,...
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận:
*Khái niệm: Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là
hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa
một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. [2,3]
Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như
bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác
nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề
nhưng mỗi người có thể“thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo một cách

3


riêng, do đó việc lập Sơ đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của
mỗi người.[2;3]
* Cấu trúc : Cấu trúc của một Sơ đồ tư duy gồm có: Phần Chủ đề (nội
dung chính); Các nhánh chính (triển khai cho chủ đề); Nhánh phụ (triển khai
nhánh chính); Phần Minh họa (kí hiệu, biểu tượng, tranh ảnh… kèm theo để làm
cho sơ đồ thêm sinh động, dễ hình dung, liên tưởng).[2,3]

Hình 1: Cấu trúc của một sơ đồ tư duy.
* Căn cứ của việc vận dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Văn miêu tả:
Căn cứ trước tiên là mục tiêu của Chương trình Tiểu học sau năm 2000
đối với việc dạy học thể loại Văn miêu tả: Không dạy riêng từng đối tượng miêu
tả mà chủ yếu dạy HS biết cách tả thông qua hình thành các kĩ năng bộ phận. Vì
thế, việc cung cấp cho học sinh một công cụ để giúp các em hệ thống và rèn
luyện các kĩ năng bộ phận này là vô cùng cần thiết.
Căn cứ tiếp theo là sự phù hợp giữa Sơ đồ tư duy và yêu cầu, nội dung và

phương pháp dạy học Văn miêu tả. Điều này thể hiện rõ qua các bước xây dựng
một Sơ đồ tư duy, từ khâu xác định chủ đề chính, sau đó mở rộng, triển khai
mạng lưới ý tưởng đến diễn đạt thành lời. Quá trình này cũng chú trọng đến yêu
cầu về tính mạch lạc, logic và mang dấu ấn cá nhân.
Căn cứ sau cùng có thể đề cập đến là yếu tố tâm lí của học sinh tiểu học
với đặc điểm tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và trực quan cụ thể, tuy có
chuyển dần từ tính cụ thể sang trừu tượng khái quát nhưng còn ở mức độ sơ
đẳng. Vì thế, sơ đồ tư duy với ưu thế về cách thể hiện trực quan sẽ giúp học sinh
dễ nắm bắt nội dung trọng tâm, tạo cho học sinh sự hứng thú nên sẽ là điều kiện
mở ra những liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo về đối tượng miêu tả.
* Đôi nét về thể loại Văn miêu tả trong Chương trình Tiếng Việt lớp 5 :
Thể loại Văn miêu tả trong chương trình Tiếng Việt lớp 5 bao gồm 33 tiết
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ở
trang
này:
Khái niệm,
trúc tác giả
khảo TLTK
[3]; miêu
đoạn còn tả
lại do
giả tựthể
viết ra.
dành choPhầnviệc
rèncấuluyện
kĩthamnăng
viếtsố [2],
văn
ởtáchai
loại tả cảnh và tả

người.[1] Trong hai thể loại này, đối tượng miêu tả phong phú, sinh động nhưng
rất gần gũi với đời sống hằng ngày của các em, chẳng hạn: tả một buổi trong
ngày, tả một hiện tượng tự nhiên, tả trường học, tả cảnh địa phương em; hay tả
thầy, cô giáo, người thân,...Thông qua các bài học, học sinh được trang bị những
4


kiến thức và kĩ năng cần thiết để viết được một bài văn tả cảnh, bao gồm: cấu
trúc của bài văn tả cảnh; kĩ năng quan sát, lập dàn ý; viết đoạn văn trong bài văn
miêu tả, liên kết đoạn văn và hoàn chỉnh bài văn. Ngoài ra, môn Tập làm văn lớp
5 cũng gợi ra cho học sinh các kĩ năng thay đổi góc quan sát theo không gian và
thời điểm quan sát theo thời gian để tạo ra những phát hiện mới mẻ hay thay đổi
vai người miêu tả để có những cảm nhận sáng tạo.
Quan điểm của dạy học
Tập làm văn lớp 5 trong chương trình tiểu học áp dụng từ năm 2000 là không
dạy riêng từng đối tượng miêu tả như trong chương trình Cải cách Giáo dục mà
chủ yếu là rèn luyện cho học sinh nhận biết cách tả thông qua dạy các kĩ năng
quan sát, tìm và sắp xếp ý trong quan sát, biết triển khai mỗi ý để nói và viết
thành đoạn, biết cách sắp xếp ý để viết thành bài. Trên cơ sở này, bài viết đưa ra
gợi ý về quy trình hướng dẫn học sinh khai thác các chức năng của sơ đồ tư duy
để lập dàn ý cho một bài văn miêu tả cụ thể trong chương trình Tập làm văn lớp
5.
2.2. Thực trạng:
* Đối với giáo viên:
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc hoạch định chương trình,
chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa, chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc dạy Tập làm văn.
- Việc dạy học theo phương pháp cũ bấy lâu nay đã làm cho việc xử lí
các tình huống của một số giáo viên trở nên cứng nhắc, thiếu linh hoạt, giáo viên
chưa biết cách nêu vấn đề để khơi gợi, kích thích học sinh nói năng,…

-Việc sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới áp
dụng phương pháp dạy học tích cực, tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, dạy
học nêu vấn đề, trò chơi học tập,.. nhiều lúc chưa hài hoà, thiếu sáng tạo nên tiết
học nhiều khi chưa sinh động, hiệu quả giáo dục chưa đạt được như mong muốn.
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc dạy văn theo
phương pháp mới mà thường chỉ áp đặt máy móc theo chủ ý của người lớn, bắt
trẻ nhỏ làm theo, dẫn đến tình trạng trong lớp có 33 em thì có tới khoảng 20- 25
em cùng tả chung một con mèo hay một cây bàng…. không phát huy được sự
sáng tạo, không vượt qua được “Chuẩn”.
- Trong môn Tiếng Việt Tiểu học rất chú trọng đến việc sử dụng đồ dùng
dạy học, nhưng trên thực tế trong giờ Tập làm văn có giáo viên rất ngại sử dụng
đồ dùng dạy học hoặc sử dụng chỉ mang tính hình thức.
- Một thực trạng khác cũng phải kể đến đó là tâm lí ngại dạy Tiếng Việt
nói
chung và Tập làm văn nói riêng của giáo viên nên học sinh chưa thấy được
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ở trang này: Đoạn “ Thể loại Văn miêu tả... tả người” tác giả tham khảo TLTK số 1.
cái hay, cái đẹp mà phân môn đem lại.
- Cá biệt còn có giáo viên chưa nắm vững nguyên tắc định hướng xây
dựng chương trình Tập làm văn, chưa nắm được cơ bản điểm khác nhau giữa
sách giáo khoa cũ và sách giáo khoa mới, chủ quan dạy theo lối mòn, chưa chú ý
rèn kĩ năng nói, viết theo yêu cầu.
- Các tiết lập làm văn “khởi động” chuẩn bị cho tiết viết văn đó là tiết
lập dàn ý cho bài văn thường bị xem nhẹ bởi tính chủ quan cá nhân giáo viên vì
5


chính giáo viên, học sinh luôn có suy nghĩ đối tượng các em sẽ viết, sẽ tả sắp tới
sẽ viết, sẽ tả về đối tượng gần gũi, đơn giản, không cần chuẩn bị, chú ý nhiều
cũng viết được.
*Đối với học sinh:

Ở Tiểu học, lần đầu tiên học sinh được học viết văn miêu tả. Các em
gặp nhiều khó khăn cả về tri thức, phương pháp hiểu biết và cảm xúc về đối
tượng miêu tả. Các em lấy đâu ra hiểu biết về cây đang ra hoa, ra quả, về anh
công nhân đang xây nhà, thày cô đang giảng dạy trên lớp, bố, mẹ chuẩn bị bữa
ăn hay chăm sóc con cái,..... Nếu không được quan sát hầu như các em sẽ không
có gì hồi tưởng về các đối tượng miêu tả nếu liền ngay trước tiết làm bài văn các
em không được đến tận nơi xem xét, nhận xét. Ngoài ra, miêu tả theo đầu bài
cho sẵn liệu các em có cảm xúc để làm bài không ? Những khó khăn về nội
dung càng được nhân lên do các em chưa nắm được phương pháp quan sát, bố
cục bài miêu tả, sử dụng ngôn ngữ miêu tả. Vì vậy, cần xem xét các bài miêu tả
ở bậc Tiểu học là những bài tập ban đầu luyện các kĩ năng miêu tả. Có như vậy
việc đánh giá mới phản ánh đúng yêu cầu của chương trình và có tác dụng đối
với học sinh.
Hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho học sinh, giúp cho học sinh
có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Nhưng những cuốn sách tham khảo của
phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh nên khi
làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép y
nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em
không phong phú mà thường đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Một thực tế nữa
đó là học sinh lớp 5 tuy các em đó được tiếp xúc và thực hành các bài tập làm
văn ở lớp 2 và lớp 3 và đặc biệt chương trình Tập làm văn lớp 4 thể loại miêu tả
xong các em vẫn viết văn theo kiểu công thức cứng nhắc, câu văn chỉ dừng ở
mức độ có đủ chủ ngữ, vị ngữ rất ít những câu văn có sử dụng các biện pháp
nghệ thuật, bài văn thiếu sinh động, hấp dẫn. Thực tế cho thấy, khá nhiều học
sinh Tiểu học ham thích học văn và có khả năng viết văn nhưng thực tế việc dạy
văn cho các em chưa đạt kết quả cao như mong muốn. Rất nhiều các bài văn
được viết theo một dàn ý giống nhau, rất máy móc, rất thiếu cảm xúc và thiếu
tính chân thực, cả giáo viên và học sinh nhiều khi còn lệ thuộc vào bài văn
mẫu. Khi học văn miêu tả, học sinh hiểu về văn miêu tả còn chưa sâu, nghèo
nàn, tư duy hình tượng chưa rõ nét, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học và

làm văn.
Với thực trạng trên, ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành điều tra khảo sát 33
học sinh lớp 5A trường Tiểu học Quảng Phong phân môn Tập làm văn, kết quả
như sau:
Tổng
số học
sinh
33

Hoàn thành tốt
Số
Tỉ lệ
lượng
8
25

Hoàn thành
Số
Tỉ lệ
lượng
15
45

Chưa hoàn thành
Số
Tỉ lệ
lượng
10
30


Ghi
chú

6


2.3. Các giải pháp thực hiện:
Từ các thực trạng và nguyên nhân trên, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp
sau:
* Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy
Tập làm văn:
Giáo viên tổ chức dạy như thế nào để học sinh viết được những bài văn
miêu tả rõ bố cục, đúng yêu cầu của đề bài. Điều cơ bản là người dạy phải nắm
vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù
hợp để dẫn dắt học sinh nắm được kiến thức . biết học sinh cần gì, chưa biết
những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến
thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo.
* Giúp học sinh hiểu rõ thể loại văn miêu tả :
Để hiểu về văn miêu tả, trước hết tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu rõ thế
nào là văn miêu tả?
Văn miêu tả: sử dụng từ ngữ, câu văn để mô tả hình ảnh, hoạt động, đặc
điểm nổi bật của sự vật (đồ vật, cây cối, con vật. phong cảnh...) làm cho người
đọc hình dung được sự vật đang được miêu tả. Tuy nhiên hình ảnh, đối tượng do
văn miêu tả tạo nên không phải là bức ảnh chụp lại, sao chép một cách vụng về
mà nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà
người viết đã thu lượm được khi quan sát cuốc sống. Văn miêu tả mang tính
thông báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết, văn miêu tả có tính rung
động, tính hình tượng. Mỗi bài văn miêu tả của học sinh là kết quả của sự sáng
tạo, nó được coi như là một sáng tác có giá trị nghệ thuật. Vì vậy, nó phải tuân
theo những quy định để làm ra một tác phẩm nghệ thuật.[7]

Yêu cầu chung của một bài Tập làm văn miêu tả:
- Trình bày bài viết theo đúng dàn ý văn miêu tả.
- Nếu được hình ảnh bao quát và đặc điểm nổi bật của đối tượng được
miêu tả.
- Nêu được hoạt động, sắc thái tình cảm của đối tượng được tả.
- Nêu được nhận xét, tình cảm của học sinh đối với đối tượng đang được
miêu tả.
- Liên hệ được thực tế, bài học, tầm quan trọng, ích lợi của đối tượng
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------được
miêu
tả trong
đờirõsống
con
người.

trang này:
Phần “Giúp
học sinh hiểu
về thể loại
Văn miêu
tả” tác giả tham khảo TLTK số [7] đoạn còn lại do tác giả tự viết ra.
- Sử dụng từ ngữ, hình ảnh chuẩn xác (có so sánh, nhân hóa...).
- Viết câu văn đúng, gãy gọn. mạch lạc, súc tích.
- Viết đúng chính tả, ngắt câu và sử dụng dấu câu đúng.
- Trình bày bài viết sạch đẹp, đúng quy định.
* Để viết được một bài văn miêu tả hoàn chỉnh, học sinh cần có rất nhiều
kĩ năng như :
Xác định đúng yêu cầu của đề bài ; quan sát, tìm ý miêu tả ; lập dàn
ý ; viết đoạn văn, viết bài, trình bày ý định miêu tả ; chỉnh sửa hoàn thiện bài
viết,... Trong các kĩ năng trên, lập dàn ý là khâu vô cùng quan trọng và không dễ

7


đối với học sinh. Sơ đồ tư duy là một công cụ có thể sử dụng để tập hợp và triển
khai một cách hiệu quả. Những ứng dụng Sơ đồ tư duy của vào dạy học Tập làm
văn cho học sinh Tiểu học bước đầu đã có hiệu quả rõ rệt. Sơ đồ tư duy được
xem là một phương tiện trực quan đơn giản có ưu điểm trong việc giúp sản sinh,
hình dung cũng như cấu trúc và phân loại các ý tưởng. Trong dạy học, công cụ
này có thể được sử dụng để biến những ý tưởng và suy nghĩ rời rạc, tản mạn
thành sơ đồ có cấu trúc và hình ảnh rõ ràng. Hơn nữa , nó giúp học sinh liên kết
và gợi nhớ lại những kinh nghiệm đã có, làm cho ý tưởng của các em thêm
phần phong phú, sáng tạo. Việc dạy học sinh ứng dụng Sơ đồ tư duy vào lập dàn
ý cho bài văn miêu tả được thực hiện qua:
* Hướng dẫn học sinh vẽ Sơ đồ tư duy trong văn miêu tả[4;5]
- Trước khi giúp học sinh Sơ đồ tư duy vận dụng vào việc lập dàn ý cho
bài văn miêu tả nhất thiết giáo viên phải giúp học sinh hiểu về Sơ đồ tư duy, biết
cách vẽ Sơ đồ tư duy, ứng dụng trong môn học, các dạng bài mà giáo viên định
sẽ ứng dụng Sơ đồ tư duy. Công việc này là rất quan trọng, giáo viên cần thực
hiện một cách nghiêm túc, có sự chuẩn bị kĩ, dự trù tốt những tình huống xảy ra
khi hướng dẫn học sinh.Giáo viên giúp học sinh thấy được các công việc sau :
+ Chuẩn bị
- Vật dụng : Tờ giấy trắng với kích thước phù hợp mục đích dạy học của
giáo viên, bài học của học sinh, hộp bút sáp nhiều màu.
- Xác định yêu cầu của đề, các từ khóa để làm chủ đề cho Sơ đồ.
- Tập hợp ý, tranh, ảnh liên quan đến chủ đề. Công việc này cả gióa viên
và học sinh đều cần phải chuẩn bị (giáo viên để dạy, đưa ra khi chốt bài, nhấn
mạnh, tổng kết còn đối với học sinh để thực hiện vào Sơ đồ tư duy của mình).
+ Tiến hành:
- Giáo viên mô tả, giúp học sinh mô tả chủ đề của Sơ đồ bằng một từ, cụm
từ ngắn gọn (có thể là từ khóa trong đề bài) hoặc có thể mô tả chủ đề bằng hình

ảnh và đặt hình ảnh ở vị trí phù hợp sao cho nổi bật nhất về màu sắc, kích thước,

- Đặt và trả lời các câu hỏi liên quan đến chủ đề (sử dụng phương pháp
động não).
Những câu hỏi này tự học sinh đặt ra và trả lời khi hoàn thiện hoặc do giáo
viên đặt ra để giúp đỡ cho học sinh khi các em vẽ. Chú ý, giáo viên có thể hỗ trợ
cho
học sinh ở bước này bằng cách xây dựng hệ thống câu hỏi gợi ý mang tính
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ở trang này: Phần Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy tác giả tham khảo TLTK số [4], [5]; đoạn còn lại do tác giả tự viết ra.
tập trung, tránh tình trạng học sinh nêu các ý chung chung, tản mạn, không nổi
bật đặc trưng đối tượng miêu tả.
- Từ chủ đề, giáo viên vẽ hoặc hướng dẫn để học sinh vẽ những nhánh
đậm (nhánh chính) và gắn từ, cụm từ khóa (hay hình ảnh) trên nhánh. Có thể
thêm tranh ảnh minh họa cho sinh động tùy theo mạch liên tưởng, tưởng tượng.
- Từ nhánh chính, mở ra các nhánh phụ với kích thước nhỏ hơn và tiến
hành tương tự. Gắn kết ý bằng cách đánh dấu mũi tên hoặc đánh số thứ tự trước
sau. Chú ý, những nhánh chính và nhánh phụ nên vẽ các đường cong để tạo sự

8


mềm mại cho sơ đồ đường cong, sự phân bậc phải được thể hiện bằng màu sắc
khác nhau.
+ Hoàn thiện
- Bổ sung hình ảnh, màu sắc cần thiết cho đẹp, sinh động, bắt mắt, tạo
hứng thú.
- Kiểm tra lại từ khóa (hình ảnh chủ đạo).
- Kiểm tra lại tổng thể Sơ đồ xem có cân đối và hợp lí chưa.
+ Thể hiện
Từ Sơ đồ tư duy mà học sinh đã hoàn thành, học sinh phải :

- Diễn đạt bằng ý lời nói.
- Diễn đạt ý bằng cách viết câu, đoạn, bài.
* Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh vẽ Sơ đồ tư duy:[4;5]
- Để đảm bảo cho yêu cầu xác lập trọng tâm miêu tả, màu sắc và kích
thước của các nhánh (chính, phụ) phải thể hiện điểm nhấn của các trọng tâm
miêu tả ; thể hiện sự liên kết giữa các ý khác bậc và cùng bậc; màu sắc còn có
thể dùng thể hiện cảm xúc, đặc trưng của đối tượng miêu tả.
- Sơ đồ tư duy thường trình bày theo chiều ngang, mỗi dòng chỉ có một từ
ngữ khóa (hoặc tranh, ảnh) được đặt trên vạch liên kết và nhánh chính được nối
với chủ đề bằng nét đậm ; sơ đồ là một hệ thống mở, không giới hạn những liên
tưởng độc đáo về đối tượng miêu tả, bất kì từ ngữ nào trong sơ đồ cũng có thể
mở rộng ý thành một chùm các liên kết. Đây là những yêu cầu để đảm bảo tính
mạch lạc và độc đáo của của Sơ đồ tư duy.
- Để kích thích những liên tưởng thú vị, giáo viên có thể xây dựng hệ
thống câu hỏi nhằm khắc phục rào cản tư duy. Hướng dẫn học sinh dùng biện
pháp so sánh, nhân hóa trong quá trình liên tưởng, diễn đạt.
- Đây là việc làm rất cần thiết bởi trước khi ứng dụng Sơ đồ tư duy nhất
thiết học sinh phải hiểu về Sơ đồ tư duy, biết cách vẽ rồi mới đến ứng dụng nó
vào công việc lập dàn ý cho bài văn.
*Sử dụng sơ đồ tư duy trong từng kiểu bài:
+ Kiểu bài tả cảnh:
Tiết 1: Học sinh nhận biết cấu tạo của bài văn miêu tả và bước đầu làm quen
với SĐTD.
Bài minh họa. Cấu tạo của bài văn tả cảnh
(Tiếng Việt 5, tập 1, trang 12)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ở trang này: Phần Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy tác giả tham khảo TLTK số [4], [5]; đoạn còn lại do tác
Mục
giả tự viết
ra. tiêu: HS hiểu được dàn ý của bài văn tả cảnh gồm 3 phần:
* Mở bài (Giới thiệu bao quát cảnh sẽ tả.)

* Thân bài (Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời
gian),
* Kết bài (Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.)
Cách tiến hành: Dùng sơ đồ tư duy khái quát kiến thức về cấu tạo bài văn tả
cảnh.
Bước 1: Hình thành kiến thức

9


Giáo viên cho học sinh phân tích hai ngữ liệu mẫu:
Hoạt động nhóm đôi: Bài “Hoàng hôn trên sông Hương” (Theo Hoàng Phủ
Ngọc Tường) để rút ra được cấu tạo 3 phần của bài văn tả cảnh, chức năng của
từng phần và trình tự miêu tả cảnh theo thời gian;
Hoạt động cá nhân: Đọc lại bài Tập đọc “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”
(Theo Tô Hoài) củng cố cấu tạo 3 phần của bài văn tả cảnh, chức năng của
từng phần và trình tự miêu tả theo không gian.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được cấu trúc của bài văn tả
cảnh và thể hiện kiến thức bằng sơ đồ tư duy.
Chuẩn bị
 Dụng cụ: giấy trắng A4, bút màu.
 Phương hướng: Xác định chủ đề chính của sơ đồ là “Cấu tạo bài văn tả
cảnh”.
Học sinh tiến hành làm việc theo nhóm 4:
Học sinh lập sơ đồ tư duy với câu hỏi gợi ý của giáo viên:
 Bài văn tả cảnh được cấu tạo bởi những phần nào? (Bậc 1)
 Trong từng phần, các em nên trình bày những nội dung gì? (Bậc 2)
Trong từng nội dung, các em có thể triển khai ý chi tiết nào? (học sinh căn cứ
vào hai ngữ liệu mẫu đã tiếp xúc để triển khai bậc này) (Bậc 3)
 Giáo viên lưu ý các em về màu sắc, tính phân bậc của sơ đồ, dùng mũi

tên chỉ sự gắn kết ý này với ý kia, hoặc đánh số thứ tự, vẽ các đường bao quát
gom ý.
Đại diện của các nhóm học sinh lên thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm
mình đã thiết lập.
Hình 2: Đại diện của các nhóm
học sinh lên thuyết minh về sơ đồ
tư duy mà nhóm mình đã thiết
lập.
Học sinh nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về cấu
tạo bài văn tả cảnh. Giáo viên là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ
tư duy.
Giáo viên tổng hợp ý từ sơ đồ tư duy của các nhóm để hoàn thiện sơ đồ mà
giáo viên đã chuẩn bị cơ bản trên màn hình trình chiếu cho cả lớp (Hình 2).
Mời học sinh lên trình bày một lần nữa về cấu tạo của bài văn tả cảnh.

10


Hình 3: Ứng
dụng sơ đồ tư
duy để tóm tắt
cấu tạo của bài
văn tả cảnh

Tiết 2: Ứng dụng Sơ đồ tư duy để phân tích cấu tạo của một bài văn miêu tả
cụ thể
Bài minh họa. Luyện tập tả cảnh (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 14)
Mục tiêu: Học sinh biết vận dụng sơ đồ tư duy để phân tích cấu tạo một bài
văn tả cảnh cụ thể.
Cách tiến hành:

Bước 1: Củng cố lại cấu tạo bài văn tả cảnh (hoạt động cá nhân)
 Dựa vào sơ đồ tư duy đã thành lập, giáo viên mời học sinh nhắc lại cấu
tạo bài văn tả cảnh;
 HS đọc lại ngữ liệu: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tô Hoài).
Bước 2: GV hướng dẫn học sinh minh họa cấu tạo bài văn “Quang cảnh
làng mạc ngày mùa” bằng Sơ đồ tư duy
Chuẩn bị
Dụng cụ: giấy trắng A4, bút màu, tranh ảnh.
Phương hướng: Xác định chủ đề chính của sơ đồ là “Quang cảnh làng mạc
ngày mùa”.
HS tiến hành theo nhóm 4
Học sinh lập Sơ đồ tư duy theo gợi ý của giáo viên:
 Tác giả miêu tả cảnh làng mạc ngày mùa theo trình tự nào? (Định hướng
hoạc sinh phân bố các nhánh chính).
 Tác giả chọn miêu tả những phần nào của cảnh? (Bậc 1).
 Trong từng phần của cảnh, tác giả đã chọn lọc những cảnh, những vật nào
để tả? Tác giả dùng các giác quan nào để quan sát từng cảnh vật đó? (Bậc 2).
 Tác giả miêu tả những cảnh, những vật thông qua các từ ngữ nào? (Bậc
3).
 Các em dùng những hình ảnh nào để minh họa cho các từ ngữ miêu tả đó?
Đại diện của các nhóm học sinh lên thuyết minh về Sơ đồ tư duy mà nhóm
mình đã thiết lập.
Học sinh nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện Sơ đồ tư duy về cấu
tạo bài văn tả cảnh. Giáo viên là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh Sơ đồ
tư duy.
Giáo viên tổng kết ý của các nhóm, gợi ý mở rộng thêm và hoàn thiện Sơ
đồ tư duy (Giáo viên đã chuẩn bị cơ bản trên màn hình trình chiếu) (Hình 4),
mời học sinh lên trình bày một lần nữa về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
11



Hình 4: Ứng dụng Sơ đồ tư duy để phân tích cấu tạo bài văn “Quang
cảnh làng mạc ngày mùa” (Tô Hoài)[6]

Tiết 3: Ứng dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý cho bài văn miêu tả cụ thể
Bài minh họa. Luyện tập tả cảnh (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 21).
Mục tiêu: Học sinh thành thạo kĩ năng dùng Sơ đồ tư duy để lập dàn ý cho
đề bài: “Lập dàn ý bài văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong
vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)”.
* Do đối tượng học sinh của lớp tôi phụ trách là ở vùng nông thôn nên tôi
chọn đề bài : Lập dàn ý cho bài văn tả cảnh buổi sáng trên cánh đồng.
Cách tiến hành:
Bước 1: Củng cố lại cấu tạo bài văn tả cảnh (hoạt động cá nhân).
 Dựa vào Sơ đồ tư duy đã thành lập, giáo viên mời học sinh nhắc lại cấu
tạo bài văn tả cảnh;
 Học sinh đọc và phân tích đề bài. Trả lời các câu hỏi tìm hiểu đề bài: Đề
bài yêu cầu làm gì? Lập dàn ý bài văn thuộc thể loại nào? Đối tượng miêu tả
là gì?
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Bước 2: Cho học sinh quan sát một số hình ảnh về cánh đồng, định hướng
Ở trang này: Phần Sơ đồ tư duy tác giả tham khảo TLTK số [6]; đoạn còn lại do tác giả tự viết ra.
quan sát, đồng thời yêu cầu các em hồi tưởng được những hình ảnh về cánh
đồng mà các em đã thấy trong cuộc sống hằng ngày, hướng dẫn các em ghi
lại những điều đã quan sát được vào giấy nháp.
Bước 3: Chuẩn bị
Dụng cụ: giấy trắng A4, bút màu, một số tranh ảnh (Học sinh chuẩn bị trước
tuỳ thuộc vào cảnh mà các em định tả).
Phương hướng: Xác định chủ đề chính của sơ đồ có thể là “Buổi sáng trên
12



cánh đồng”.
HS tiến hành theo nhóm 6
Nhóm Học sinh lập Sơ đồ tư duy theo gợi ý của giáo viên:
 Các em định miêu tả cảnh gì và trong thời điểm nào? (Xác lập từ, ngữ
khoá)
 Các em chọn cách miêu tả theo trình tự thời gian hay tả từng phần của
cảnh? (Bậc 1 - Bố trí ý chính)
 Em dùng những giác quan nào để quan sát cảnh? Em chọn lọc những hình
ảnh, chi tiết nào để đưa vào bài? (Bậc 2)
 Mỗi hình ảnh, chi tiết các em quan sát có thể được miêu tả bằng những từ
ngữ nào? (Bậc 3)
 Những hình ảnh, chi tiết của cảnh gợi cho em những liên tưởng, tưởng
tượng gì? (Bậc 4)
- Các em có thể dùng những tranh ảnh nàođể minh họa cho các từ ngữ miêu
tả đó?
Đại diện của các nhóm học sinh lên thuyết minh về Sơ đồ tư duy mà nhóm
mình đã thiết lập.

Hình 5: Học
sinh trình bày
sơ đồ tư duy mà
nhóm đã thực
hiện.

Học sinh nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện Sơ đồ tư duy về cấu
tạo bài văn tả cảnh. Giáo viên là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ
tư duy.
Trong quá trình học sinh báo cáo, giáo viên gợi ý mở rộng thêm về ý tưởng,
từ ngữ diễn đạt. Hoàn thiện sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị cơ bản, bổ
sung ý kiến của học sinh vào sơ đồ trình chiếu, mời học sinh lên trình bày

một lần nữa về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các
bước sau:
+ Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
13


+ Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
* Kiểu bài tả người:
Khi tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng hơn. Nhìn chung mọi người
đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở đặc điểm
riêng biệt ( chỉ có ở người đó mới có). Nhiệm vụ của giáo viên tả người là giúp
cho các em thấy rằng phải tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh
hoạt động của người mình tả.
Ví dụ 1: Giúp học sinh nhận biết cấu tạo của bài văn tả người.
Bài minh họa: Cấu tạo của bài văn tả người
(Tiếng Việt 5, tập 1, trang 119 - 120)
Mục tiêu: HS hiểu được dàn ý của bài văn tả người gồm 3 phần:
* Mở bài (Giới thiệu người định tả.)
* Thân bài (Tả ngoại hình, tả tính tình, hoạt động )
* Kết bài (Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ về người được tả.)
Cách tiến hành: Dùng sơ đồ tư duy khái quát kiến thức về cấu tạo bài văn tả
người.
Bước 1: Hình thành kiến thức
GV cho HS phân tích hai ngữ liệu mẫu:
Hoạt động nhóm đôi: Bài “ Hạng A Cháng” (Theo Ma Văn Kháng) để rút ra
được cấu tạo 3 phần của bài văn người, chức năng của từng phần và trình tự
miêu tả.
Bước 2: GV hướng dẫn HS rút ra được cấu trúc của bài văn tả người và thể
hiện kiến thức bằng Sơ đồ tư duy

Chuẩn bị
 Dụng cụ: giấy trắng A4, bút màu.
 Phương hướng: Xác định chủ đề chính của sơ đồ là “Cấu tạo bài văn tả
người”.
HS tiến hành làm việc theo nhóm 6:
Học sinh lập sơ đồ tư duy với câu hỏi gợi ý của giáo viên:
 Bài văn tả người được cấu tạo bởi những phần nào? (Bậc 1)
 Trong từng phần, các em nên trình bày những nội dung gì? (Bậc 2)
Trong từng nội dung, các em có thể triển khai ý chi tiết nào? (HS căn cứ vào
hai ngữ liệu mẫu đã tiếp xúc để triển khai bậc này) (Bậc 3)
 GV lưu ý các em về màu sắc, tính phân bậc của sơ đồ, dùng mũi tên chỉ
sự gắn kết ý này với ý kia, hoặc đánh số thứ tự, vẽ các đường bao quát gom ý.
Đại diện của các nhóm học sinh lên thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm
mình đã thiết lập.

14


Hình 6: Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận.
Học sinh nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về cấu
tạo bài văn tả người. Giáo viên là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh Sơ
đồ tư duy.

Hình 7: Giáo viên giúp học
sinh hoàn chỉnh Sơ đồ tư
duy.

Mời học sinh lên trình bày một lần nữa về cấu tạo của bài văn tả người.
Tiết 2: Ứng dụng SĐTD để lập dàn ý cho bài văn tả người cụ thể
Bài minh họa. Luyện tập tả người (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 130).

Mục tiêu: Học sinh thành thạo kĩ năng dùng Sơ đồ tư duy để lập dàn ý cho
bài văn tả người mà em yêu quý
Cách tiến hành:
Bước 1: Củng cố lại cấu tạo bài văn tả người (hoạt động cá nhân).
 Dựa vào Sơ đồ tư duy đã thành lập, giáo viên mời học sinh nhắc lại cấu

15


tạo bài văn tả người.
 Học sinh đọc và phân tích đề bài. Trả lời các câu hỏi tìm hiểu đề bài: Đề
bài yêu cầu làm gì? Lập dàn ý bài văn thuộc thể loại nào? Đối tượng miêu tả
là gì?
Bước 2: Chuẩn bị
Dụng cụ: giấy trắng A4, bút màu, một số tranh ảnh (Học sinh chuẩn bị trước
tuỳ thuộc vào cảnh mà các em định tả).
Phương hướng: Xác định chủ đề chính của sơ đồ có thể là “ Tả người mà em
yêu quý”.
HS tiến hành theo nhóm 6
Nhóm Học sinh lập Sơ đồ tư duy theo gợi ý của giáo viên:
 Các em định tả ai? (Xác lập từ, ngữ khoá)
 Các em chọn tả những gì? (Bậc 1 - Bố trí ý chính)
 Em chọn lọc những hình ảnh, chi tiết nào để tả? (Bậc 2)
- Mỗi hình ảnh, chi tiết các em quan sát có thể được miêu tả bằng những từ
ngữ nào? (Bậc 3)
 Những hình ảnh, chi tiết của cảnh gợi cho em những liên tưởng, tưởng
tượng gì? (Bậc 4)

Hình 8: Học sinh thảo luận
nhóm để lập sơ đồ tư duy.


Đại diện của các nhóm học sinh lên thuyết minh về Sơ đồ tư duy mà nhóm
mình đã thiết lập.
Học sinh nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện Sơ đồ tư duy về cấu
tạo bài văn tả người. Giáo viên là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh sơ
đồ tư duy.
Trong quá trình học sinh báo cáo, giáo viên gợi ý mở rộng thêm về ý tưởng,
từ ngữ diễn đạt. Hoàn thiện sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị cơ bản, bổ
sung ý kiến của học sinh vào sơ đồ trình chiếu, mời học sinh lên trình bày
một lần nữa về cấu tạo của bài văn tả người.
16


Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các
bước sau:
+ Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
+ Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua một năm thực hiện các giải pháp nêu trên trong dạy văn miêu tả cho
học sinh lớp 5, tôi thấy học sinh rất hứng thú và yêu thích học phân môn Tập
làm văn, các em đã biết viết đúng thể loại văn, bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch
lạc những suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách trôi chảy, biết chọn những chi
tiết độc đáo, nổi bật, viết câu văn giàu hình ảnh, biết sử dụng các biện pháp
nghệ thuật so sánh, nhân hóa một cách thích hợp khi làm bài văn miêu tả. Cả
lớp đều hứng thú học tập, sử dụng thành thạo sơ đồ tư duykhi học, không lo sợ
khi đên tiết tập làm văn như xưa nữa.
Kết quả đạt được cuối năm học 2017 – 2018 của 33 học sinh lớp 5A trường
Tiểu học Quảng Phong như sau:
* Về kĩ năng dùng sơ đồ tư duy trong lập dàn ý cho đề văn miêu tả
Khả năng phân tích đề, hiểu đề bài: Thông qua câu hỏi gợi ý của giáo viên,

có 25/33 HS (75%) biết gạch chân đúng từ khoá, nêu đúng yêu cầu, thể loại
văn miêu tả cũng như gợi ý từ đề. Đây là cơ sở quan trọng để học sinh xác định
được từ ngữ khoá trung tâm của sơ đồ.
Mức độ thành thạo kĩ năng lập sơ đồ tư duy của học sinh: Qua các sơ đồ tư
duy mà học sinh thực hiện, số lượng học sinh có thể độc lập xây dựng dàn ý
cho bài văn miêu tả chiếm 54 % (18/33 học sinh), trong đó, có 88% (16/18 HS)
biết cách trình bày sơ đồ tư duy hợp lí, đẹp mắt và bước đầu có sự liên tưởng,
tưởng tượng trong các ý miêu tả. Như vậy, số lượng học sinh có thể độc lập
xây dựng sơ đồ cá nhân còn thấp (54%), các em cần làm việc nhóm để hỗ trợ
lẫn nhau mới hoàn thành……
Sơ đồ tư duy là công cụ giúp học sinh khắc sâu kiến thức: Sử dụng sơ đồ tư
duy trong khâu lập dàn ý giúp học sinh tìm tòi và khắc sâu kiến thức thông qua
suy nghĩ và hoạt động tích cực. Học sinh không bị ép học thuộc lòng và tái
hiện nguyên văn nội dung ghi nhớ. Ngược lại, các em được hướng dẫn một
cách trình tự (qua hai bước Chuẩn bị và Tiến hành) để bản thân mình tìm ra
kiến thức và diễn đạt lại kiến thức đó trên “giao diện mở” của sơ đồ tư duy.
100% học sinh có kĩ năng dựa vào sơ đồ tư duy để diễn đạt lại đúng và đầy đủ
nội dung bài học.
Sơ đồ tư duy tích cực hoá hoạt động của học sinh: Qua quan sát sự tham gia
của học sinh trong giờ học với sơ đồ tư duy, tôi nhận thấy rằng, tất cả các em
đều tham gia tích cực vào xây dựng sơ đồ. Trong nhóm, các em biết phân
công nhau tóm tắt ý, viết thành từ khoá, vẽ, trang trí… Những học sinh hằng
ngày ít phát biểu xây dựng bài có cơ hội thể hiện mình qua việc góp phần vào
công việc chung của nhóm. Nếu tổ chức theo lớp học truyền thống thì GV rất
khó lôi cuốn hết các em tham gia vào hoạt động, nhất là ở các bài học lí
thuyết.
17


Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ học làm nổi bật tính “chủ động” của học

sinh và “chủ đạo” của giáo viên: Giáo viên hướng dẫn các em bằng hệ thống
câu hỏi đã được chuẩn bị, học sinh suy nghĩ trả lời và định hướng cho mình
những nội dung trên sơ đồ. Quan trọng là học sinh biết đặt ra những câu hỏi
yêu cầu giáo viên tư vấn. Câu hỏi thường gặp nhất là về tầng bậc của các ý
trong bài, các em phân vân không biết nên xếp ý này vào bậc 2 hay bậc 3 .
Vấn đề kế tiếp của các em là về từ ngữ diễn đạt, các em có ý nhưng không biết
diễn đạt như thế nào, dùng từ ngữ ra sao cho phù hợp.
Về kĩ năng tư duy và năng lực sáng tạo của học sinh khi học với sơ đồ tư
duy:
Sơ đồ tư duy giúp học sinh bước đầu rèn luyện năng lực tư duy thông qua
các hoạt động học tập sau:
 Kĩ năng phân tích: phân tích đề, đọc và phân tích ngữ liệu;
 Kĩ năng khái quát hoá: khái quát ý của các bài ngữ liệu mẫu để xác định
các từ ngữ khoá của nhánh chính, nhánh phụ. Chẳng hạn, các em biết dùng
những từ ngữ như “Tả bao quát từ xa, Tả chi tiết khi lại gần” để xác định vị
trí của cảnh; Hay các từ ngữ “Kỉ niệm với cánh đồng, Lợi ích của cánh đồng”
để nói về tình cảm của các em với cánh đồng.
Tuy nhiên, học sinh chưa độc lập trong các thao tác này, giáo viên phải gợi
ý qua câu hỏi hướng dẫn.
Khả năng sáng tạo của học sinh chủ yếu thể hiện qua cách tập hợp từ miêu
tả cho một đối tượng nào đó. Sơ đồ tư duy giúp các em liên tưởng tốt đến vốn
từ, vốn sống mà từng em có, điều này giúp học sinh có thể bổ trợ cho nhau khi
làm việc nhóm. Ví dụ như: Nhóm 1 đã có cách dùng từ để tả “những giọt
sương”: long lanh như hạt ngọc. Trong khi nhóm 3 lại góp vào âm thanh của
giọt sương: tí tách. Nhóm 4 thì lại đặt câu hỏi cho giáo viên: “Bây giờ ở miền
quê còn nuôi trâu hay không ạ?” còn Nhóm 2 lại hỏi “Cách so sánh cánh đồng
như dải lụa có được không ạ?”.
*Chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật đáng
phấn khởi, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp, của tổ
chuyên môn trong nhà trường .

Cụ thể điểm kiểm tra phân môn Tập làm văn giữa học kì 2 như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Tổng
Ghi
số học
Số
Số
Số
chú
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
sinh
lượng
lượng
lượng
33
28
85
5
15
0
0
*Kết luận:
Trong dạy học Tập làm văn, hướng dẫn học sinh lập dàn ý là khâu quan
trọng, tạo tiền đề cho một bài văn hoàn chỉnh. Ứng dụng sơ đồ tư duy vào lập
dàn ý của bài văn miêu tả có thể được thực hiện thường xuyên trong các tiết
tập làm văn giúp học sinh thành thạo với kĩ năng này. Bên cạnh đó, để quy

18


trình sử dụng sơ đồ tư duy có tính khả thi và hiệu quả, giáo viên cần chỉ dẫn
cho học sinh theo đúng trình tự, đúng yêu cầu để không chỉ phát triển khả năng
tìm ý, triển khai ý trong môn học mà còn phát huy khả năng tưởng tượng, sáng
tạo cho các em.
Tuy nhiên, một tiết dạy có vận dụng sơ đồ tư duy thường mất nhiều thời
gian vì tuỳ thuộc vào tốc độ làm việc của học sinh. Có nhóm học sinh hoàn
thành nhanh nhưng cũng có nhóm không thể hoàn thành đúng giờ. Vì thế, khi
thành lập nhóm để xây dựng sơ đồ tư duy, giáo viên cần linh hoạt thay đổi
thành viên và đảm bảo trong nhóm học sinh có học lực khác nhau để các em hỗ
trợ nhau. Một vấn đề nữa là học sinh thường chú trọng hình thức mà làm mờ
nhạt nội dung, vì ở lứa tuổi các em, vẽ thì phải chăm chút nên mất khá nhiều
thời gian.
Học sinh chưa thành thạo kĩ năng rút ra từ ngữ khoá cũng như diễn đạt súc
tích ý trên các nhánh. Đa phần các em ghi lại khá dài dòng các ý của ngữ liệu
ban đầu làm cho sơ đồ tư duy thêm rườm rà.
Việc hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ tư duy để lập dàn ý trong bài văn
miêu tả chỉ dừng lại thao tác thủ công, trên giấy với bút màu và màu nước, tôi
chưa có điều kiện thử nghiệm trên phần mềm Mind mapping. Tuy nhiên, học
sinh đã làm quen với vi tính từ năm lớp 3 và đã có các phần mềm dành cho các
em ở lứa tuổi tiểu học nên việc hướng dẫn các em thao tác trên máy là hoàn
toàn có thể.
Việc học sinh lập được dàn ý với sơ đồ tư duy chỉ đảm bảo bài văn mình sắp
viết, có đầy đủ các phần và các ý miêu tả. Để viết bài văn hoàn chỉnh, học sinh
cần rèn luyện kĩ năng diễn đạt ý thành lời và liên kết các ý với nhau. Đây là kĩ
năng mà giáo viên cần lưu ý tiếp tục rèn luyện cho học sinh.
*Kiến nghị:
Để dạy học có hiệu quả phân môn Tập làm văn ở Tiểu học nhất là văn miêu tả

ở lớp 4và 5, tôi xin có một số đề nghị sau:
+ Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Cần khuyến khích giáo viên sử dụng kĩ
thuật “sơ đồ tư duy” trong dạy học văn miêu tả ở lớp 4, 5 trong trường, nhằm rút
kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân
môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng.
+ Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4,5: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về
phương pháp và các giải pháp cụ thể cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn
( từng thể loại, từng kiểu bài cụ thể) để từng bước giúp các em nắm vững kiến
thức, chủ động nói lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay,
làm giàu thêm vốn từ ngữ và gữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Trên đây là một số giải pháp vận dụng kĩ thuật “sơ đồ tư duy” trong dạy
học văn miêu tả ở lớp 5 nhằm giúp các em học sinh có nhiều hứng thú và nâng
cao chất lượng học sinh khi học kiểu bài này. Rất mong các bạn đồng nghiệp
cùng tham khảo, góp ý bổ sung để tôi cùng trao đổi và học hỏi nhằm nâng cao
hơn nữa kiến thức và kĩ năng sư phạm của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
19


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Lê Thị Hường

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 (tập 1 và
2), Nxb GD.
2. Tony & Barry Buzan, Lê Huy Lâm biên dịch (2008), The mind map
book - Sơ đồ tư duy, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Tony Buzan (2007), Sơ đồ tư duy trong công việc, NXB Lao động - Xã
hội.
4. Trần Đình Châu, Sử dụng sơ đồ tư duy - một biện pháp hiệu quả hỗ trợ
học sinh học tập môn Toán, Tạp chí Giáo dục, kì 2 - Tháng 9/2009.
5. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy (2009), Sử dụng sơ đồ tư duy góp
phần tích cực hoá hoạt động học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục.
6. Lê Ngọc Hóa,ứng dụng sơ đồ tư duy trong việc hướng dẫn học
sinh lớp 5 lập dàn ý các bài văn thuộc thể loại văn miêu tả, Tạp chí
khoa học – Đại học Cần Thơ.
7. Văn miêu tả - Lê Phương Nga, Nhà xuất bản Giáo dục.

21


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT QUẢNG XƯƠNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ LỚP 5


Người thực hiện: Lê Thị Hường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Phong
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

22



×