Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

DS di sản thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.9 KB, 4 trang )

* Di sản thừa kế
1.
Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo Điều 634: Di sản
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác.
Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản
thuộc sở hữu của người để lại di sản. Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại
căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối
tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác
định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước
hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Về vấn đề di sản của bao gồm nghĩa vụ hay không thì có nhiều quan điểm chung
quanh vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm cả nghĩa vụ để bảo đảm
quyền lợi chủ nợ và quan điểm này chỉ có thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và
tài sản của gia đình không tách bạch được. Cũng như nợ của gia đình và người chết
không phân biệt được. Quan điểm này không phù hợp khi hướng tới nhà nước pháp
quyền vì vô hình chung lại bảo vệ tàn tích chế độ phong kiến “nợ truyền đời truyền kiếp”.
Quan điểm thứ hai cho rằng di sản bao gồm tài sản và nghĩa vụ về tài sản trong
phạm vi di sản thừa kế. Quan điểm này không được ủng hộ nhiều bởi theo lẽ thường
không ai muốn gánh nghĩa vụ của người khác.
Quan điểm thứ ba được nhiều nhà khoa học đồng ý và cũng là quan điểm nhóm
em đồng ý nhất đó là di sản chỉ bao gồm tài sản mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản. Dựa
theo Điều 634 và Điều 681 đến Điều 685 BLDS 2005 thì ta có thể hiểu rằng trước khi
chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết để lại xong
còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của
nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiên các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản
của người chết[1].
^
2.


Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Về nguyên tắc, di sản là tài sản của người quá cố ở thời điểm mở thừa kế. Nhưng
theo thực tiễn xét xử thì tài sản thay thế di sản cũng là di sản thừa kế. Và hướng giải
quyết này tuy chưa được quy định cụ thể trong văn bản nhưng đã được áp dụng đối với
trường hợp di sản được thay thế ví dụ như di sản được thay thế bằng tiền bồi thường, tài


sản có tiền bảo hiểm hay tiền chuyển nhượng... cũng được chia như di sản. Việc thực tiễn
xét xử tài sản bị thay thế là di sản là hợp tình hợp lý không trái với quy định của pháp
luật và hướng xét xử này cũng phù hợp với pháp luật quốc tế như Điều 815-10 BLDS
Pháp[2]. Xét cho đến cùng thì tài sản thay thế cũng là phát sinh từ tài sản do người quá
cố để lại nên việc xem xét nó là di sản cũng là có căn cứ.
^
3.
Trong quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, hai tài sản tranh chấp có là di
sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trong quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, chỉ có căn nhà số 122 Nguyễn Hùng
Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng vì đến khi cố Thái Anh và cố Liêng chết thì
nhà đất chưa chuyển dịch sang tên cho ai nên đây là di sản của hai cố, thể hiện ở
đoạn: “cụ Hy là con trưởng ở với bố mẹ,... nhưng chưa được tòa án các cấp xác minh
làm rõ trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.”
Còn căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám cố Thái Anh đã cho cụ Tri trước khi qua đời
nên không phải là di sản, thể hiện ở đoạn: “Xét thấy, căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám các
bên đều thừa nhận cố Anh đã cho cụ Tri và không tranh chấp, nên tòa không xem xét là
đúng.”
^
4.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Viện kiểm sát.
Hướng xác định di sản của Viện Kiểm soát rất phù hợp, không trái với các quy

định pháp luật. Theo chúng em, vì “một tài sản đã từng thuộc sở hữu của người chết
trong một khoảng thời gian và được chuyển cho người khác trước thời điểm mở thừa kế
thì không còn là tài sản của người chết nên không là di sản[3]” nên việc Viện kiểm sát
xác định căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không là di sản là rất phù hợp với pháp luật hợp
tình và hợp lý. Bên cạnh đó hướng xác định căn nhà còn lại là di sản cũng rất hợp lý phù
hợp với pháp luật vì căn nhà này thì cố Thái Anh vẫn là chủ sở hữu theo bằng hoán điền
thổ 320 và không có tài liệu nào xác định đã chuyển sở hữu cho cụ Hy (dù cụ Hy được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu năm 1989 nhưng do đã có tranh chấp trước đó nên
còn phải xác minh làm rõ) nên việc xác định căn nhà là di sản là có căn cứ. Tuy việc xác
định này có căn cứ trên pháp luật và rõ ràng về tư liệu nhưng dù vậy vẫn không tránh
khỏi còn cứng nhắc, chưa căn cứ trên thực tiễn đời sống, nguyện vọng ý chí của người
quá cố để lại di sản và khó tránh khỏi bất công cho người con sống cùng cha mẹ là cụ Hy.
^
5.
Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, hai tài sản tranh chấp có
là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?


Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, cả hai tài sản tranh chấp đều
không là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng vì cả hai căn nhà đều đã được hai cố cho cụ
Thái Tri và Thái Thuần Hy trước khi chết, thể hiện ở đoạn: “Như vậy, căn cứ các tài liệu
trên có cơ sở xác định vợ chồng cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng... là di sản của cố
Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là không có cơ sở.”
^
6.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán là vô cùng hợp tình, hợp lý và phù hợp
về cả pháp luật lẫn thực tiễn đời sống. Việc xác định căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn được
chia cho cụ Thí Thuần Hy dù không có di chúc hy việc chuyển quyền sở hữu là hợp
tình, phù hợp với thực tiễn có căn cứ trên ý chí của người quá cố là cố Thái Anh, cố

Nguyễn Thị Liêng và cụ Thái Tri thể hiện qua đoạn cuối phần xét thấy của quyết định. Có
thể xem xét rằng cụ Hy đã được hai cố ngầm chuyển quyền sở hữu khi hai cố đã cho cố
Thái Tri nơi sinh sống nhưng với cố Hy lại không đề cập vì cố Hy chung sống với cha mẹ
cho đến khi cha mẹ mất mà không có di chúc. Nếu vậy thì quá bất công cho người con
chung sống chăm sóc cha mẹ nhưng không được cha mẹ tạo dựng tài sản khi còn sống và
phần tài sản cuối cùng cha mẹ để lại bị chia cả cho những người thừa kế khác (đã được
cha mẹ cho tài sản trước). Tuy về lý thì HĐTP không có căn cứ pháp luật và văn bản
nhưng về tình thì đây là một quyết định hoàn toàn thuyết phục công bằng và tôn trọng ý
chí của người để lại di sản[4].
^
7.
Xác định di sản của cụ Quế và cụ Minh trong tình huống nêu trên. Nêu rõ cơ
sở pháp lý khi xác định di sản của hai cụ.
Theo Điều 634 BLDS 2005 thì phần di sản của cụ Quế và cụ Minh là 2790 mét
vuông thuộc bản đồ số 10 xã Phước Long và 9520 mét vuông thuộc bản đồ số 6 xã Phước
Long.
Việc xác định di sản như vậy là vì do vào tháng 1/2006 cụ Minh đã ký giấy Cam
kết sang nhượng và đã nhận tiền với phần đất 600 mét uông của bản đồ số 10 dù đây là
tài sản riêng của cụ Cơ được thừa kế nhưng do không có tranh chấp phát sinh nên có thể
ngầm hiểu rằng cụ Cơ đã đồng ý dù bây giờ cả hai đã chết nhưng do đã nhận tiền nên
những người thừa kế phải có nghĩa vụ hoàn thành thủ tục cho người mua và chia phần di
sản là tiền này và vì “một tài sản đã từng thuộc sở hữu của người chết trong một khoảng
thời gian và được chuyển cho người khác trước thời điểm mở thừa kế thì không còn là tài
sản của người chết nên không là di sản[5]”.
Còn về phần diện tích đất 978 mét vuông đã cất nhà của bà Ánh thì theo bà là cụ
Quế đã cho bà nhưng không có văn bản chứng minh cũng không nằm trong phần di sản


bởi vì việc bà Ánh xây cất nhà mà không gặp tranh chấp hay phản đối của chính chủ đã
thể hiện ý chí nguyện vọng của cụ Quế để lại phần đất này cho bà Ánh (và vì bà Ánh

cũng đã xây cất nhà kiên cố nên nếu xét về việc đòi lại đất thì bà Ánh cũng chỉ cần đền
bù một số tiền thỏa đáng để chia di sản thay thế).



Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
quyền thừa kế của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2012, tr. 194.
[2] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam bản án và bình luận án, tr.115.
[3] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận án, tr.115.
[4] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án.
[5] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận án, tr. 115.
[1]



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×