Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Rèn kỹ năng sử dụng các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong bài văn tự sự cho học sinh lớp 8 trường THCS chu văn an nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.93 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

MỤC LỤC
STT

Nội dung

Trang
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1
Mở đầu
Đối tượng
cứu
1
SÁNG1.3.
KIẾN
KINHnghiên
NGHIỆM
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2.Thực trạng
3
RÈN
KỸ
NĂNG


SỬ
DỤNG
CÁC
YẾU
TỐ
MIÊU
TẢ VÀ
2
Nội dung
2.3. Các giải pháp thực hiện
4
BIỂU CẢM TRONG2.4.
BÀI
VĂN
SINH
Hiệu
quả TỰ SỰ CHO HỌC
10
3 LỚP
Kết luận,
kiến nghị 3.1.
Kết luận
12 SƠN
8 TRƯỜNG
THCS
CHU VĂN AN- NGA
3.2. Kiến nghị
12
Tài liệu tham khảo
14


Người thực hiện: Nguyễn Thị Bùi Huyền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Chu Văn An
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2018
0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo sư Hà Minh Đức từng khẳng định “ Văn học không chỉ là một
nguồn tri thức mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ
vũ, tiếp sức cho con người trong cuộc sống” ( Lý luận văn học, trang 50NXBGD 1997). Đúng vậy, Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí hết
sức quan trọng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông. Nó cung
cấp cho học sinh những tri thức để đánh giá các vấn đề văn học. Nó giúp học
sinh có khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. Ngoài ra, học sinh
còn được hình thành và phát triển kỹ năng tạo lập văn bản mới (đó là nhiệm vụ
của phân môn Tập làm văn). Trong phân môn làm văn, học sinh sẽ được trang bị
những kiến thức cần thiết để làm được bài văn từ đúng đến hay nhất là những
dạng bài tự sự, miêu tả, biểu cảm rất được chú trọng.
Tự sự là thể loại các em đã được học, được rèn luyện trong suốt chương
trình cấp học. Đặc trưng cơ bản của kiểu bài này là kích thích trí tưởng tượng
phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh đối với những sự việc,
hiện tượng trong đời sống, gia đình và xã hội. Qua đó bồi dưỡng cho các em
những tình cảm tốt đẹp. Nếu ở các lớp dưới tự sự được giới thiệu tách rời như là
một phương thức biểu đạt độc lập giúp các em nắm chắc đặc trưng riêng ( nhưng
trong thực tế ít có văn bản, tác phẩm nào lại chỉ dùng một phương thức biểu đạt
mà thường kết hợp đan xen hai hay nhiều phương thức khác nhau) thì với học

sinh lớp 8, việc đưa yếu tố miêu tả và biểu cảm vào bài văn tự sự là mục đích và
yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên các em vẫn tỏ ra nhiều lúng túng trong quá trình
thực hiện.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tải Rèn kỹ năng sử dụng các yếu tố miêu tả và
biểu cảm trong bài văn tự sự cho học sinh lớp 8 chắc chắn sẽ giúp các em có
được những bài văn tự sự hay, nâng cao năng lực giao tiếp, hướng đến mục tiêu
chung của chương trình ngữ văn THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu
+ Về phía giáo viên: nhằm tích lũy thêm kinh nghiệm cho bản thân trong
việc rèn kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 8.
+ Về phía học sinh: giúp các em hiểu rõ hơn vai trò của các yếu tố miêu tả,
biểu cảm trong bài văn tự sự từ đó rèn kỹ năng làm văn, kỹ năng giao tiếp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 8A, 8D - Trường THCS Chu Văn An Nga Sơn năm học
2017-2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tôi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu tài liệu dạy học môn Ngữ văn, SGK, SGV THCS; ý kiến của
các nhà quản lý giáo dục, quản lý chuyên môn; bài viết của giáo viên giỏi,
các tạp chí của ngành…
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.

1


Đối chiếu chuẩn kiến thức kỹ năng với khả năng tiếp thu, bài làm thực tế
của học sinh, từ đó tìm ra những hạn chế làm căn cứ thực hiện đề tài.
+ Phương pháp thống kê và xử lí số liệu
Thống kê kết quả bài làm của học sinh để đưa ra những giải pháp, rút ra

kết luận

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Quan điểm đổi mới trong chương trình Ngữ văn là phải kết hợp nhiều
phương pháp dạy học, tổ chức hoạt động theo hướng tích cực, phát huy năng lực
chủ động, sáng tạo ở cả người dạy lẫn người học. Tự sự ( kể chuyện) là phương
thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng
dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự giúp người kể giải thích sự
việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen, chê. ( Ngữ văn 6Tập một )
Trong văn tự sự, nếu chỉ đơn thuần kể các sự việc, kể về con người thì câu
chuyện chỉ còn là tóm tắt cốt truyện, người và việc không hiện lên cụ thể, truyện
thiếu chân thực và hấp dẫn. Miêu tả trong khi kể nhằm làm cho sự việc thêm
sinh động, màu sắc, hình dáng, diện mạo của nhân vật, hành động… như hiện ra
rõ ràng hơn, sống động hơn trước mắt người đọc.Vậy nên trong quá trình kể
thường đan xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm. Các yếu tố này giúp cho sự việc và
nhân vật được thể hiện sâu sắc, ấn tượng hơn.
2. 2. Thực trạng vấn đề:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung, phân môn
Tập làm văn nói riêng rất được quan tâm. Về cơ bản giáo viên đã nắm được
phương pháp, vận dụng sáng tạo theo đối tượng. Học sinh đã chú ý học. Tuy
nhiên, trong thực tế giảng dạy, đi sâu vào thực trạng, bản thân vẫn còn nhận thấy
một số hạn chế khi làm văn tự sự như sau:
2.2.1. Về phía giáo viên:
+ Giáo viên còn chưa đầu tư cho phân môn Tập làm văn, chưa tìm tòi những ví
dụ mẫu linh hoạt sáng tạo gắn với đời sống thực tế hàng ngày có tác dụng khắc
sâu kiến thức.

+ Giáo viên chưa thực sự chú ý đến việc phát huy tinh thần tích cực chủ động
của học sinh khi học lý thuyết làm văn tự sự theo yêu cầu kết hợp sử dụng các
yếu tố miêu tả biểu cảm trước khi tạo lập văn bản.
+Thời gian thực hành còn ít, bố trí thời lượng tiết dạy chưa thật hợp lý.
2.2.2.Về phía học sinh:
+ Chưa coi trọng bộ môn, việc soạn bài còn đối phó, qua loa, chưa chịu khó đọc
thêm tài liệu để mở rộng kiến thức.
+ Khi làm văn tự sự, các em chưa xác định được trình tự kể, chưa nắm được tình
tiết nào cần phải kể rõ ràng cụ thể, tình tiết nào nên lược thuật, cách thể hiện
nhân vật chính, nhân vật phụ thế nào?... cũng như ý nghĩa bài học sâu sắc rút ra
từ câu chuyện.
+ Câu chuyện chưa hấp dẫn người đọc do chưa vận dụng phù hợp tự nhiên các
yếu tố miêu tả, biểu cảm; chưa hiểu rõ vai trò của những yếu tố này dẫn đến bài
văn sa nhiều vào kể dài dòng, kết quả bài làm chưa cao.
* Thực tế khảo sát bài viết TLV số 1 như sau:
Đề bài: Kể về một người thân yêu của em
Thời gian làm bài: 90 phút

3


Kết quả cụ thể:
Lớp
Sĩ số Giỏi
SL
8A
30
2
8D
40

10

%
6.7
25

Khá
SL
10
20

%
33.3
50

TB
SL
16
8

%
53.3
20

Yếu
SL
2
0

%

6.7
0

Với kết quả khảo sát như trên (đặc biệt là qua thực tế bài làm của học sinh),
bản thân giáo viên không thể hài lòng. Nhiều bài viết còn sơ sài, thiếu ý, lập
luận không mạch lạc, chặt chẽ. Kỹ năng làm văn của các em còn bộc lộ nhiều
hạn chế. Phần lớn các em biết xây dựng một bài văn tự sự nhưng để đưa được
yếu tố miêu tả và biểu cảm vào bài văn thì rất ít em làm được dẫn đến kết quả
những bài văn ấn tượng với người đọc chưa nhiều.
Một số đoạn dưới đây được trích từ bài làm Tập làm văn số 1 của học sinh
Đoạn 1:
Mẹ em đẹp lắm. Em thường ở bên mẹ khi cùng mẹ nấu ăn. Những lúc thế
này em được học về tài nội trợ của mẹ. Vào những ngày mưa, mẹ và em thường
làm những món ăn vặt để gia đình quay quần bên nhau ở phòng khách cùng
thưởng thức. Nhìn thấy mẹ chăm sóc cho em bé, em lại càng thấy ngày xưa mẹ
khổ với mình thế nào
(Bài của học sinh Mai Thành Đạt- lớp 8D)
Đoạn 2:
Bạn ấy tên Mai. Chúng em học với nhau từ khi lớp 1 và đến giờ đã có tình
bạn kéo dài 7 năm. Mai là một cô gái xinh xắn. Hồi Tiểu học, Mai gầy nhất lớp
mà không hiểu sao lên cấp hai lại mũm mĩm như vậy. Cả hai đều không nhớ vì
sao lại quen nhau. Khoảng thời gian không kéo dài nhưng đủ để chúng em thân
thiết
(Bài của học sinh Trịnh Thanh Huyền – lớp 8A)
Những đoạn văn tự sự trên, nếu biết đan xen các yếu tố miêu tả biểu cảm
hợp lí thì sự việc và nhân vật sẽ hiện ra sống động hơn, rõ nét hơn; bài làm sâu
sắc, ấn tượng hơn.
Do vậy, để nâng cao chất lượng dạy học đòi hỏi giáo viên phải có những
giải pháp hợp lý.
2.3. Các giải pháp thực hiện:

2.3.1. Giúp học sinh hiểu rõ vai trò của các yếu tố miêu tả, biểu cảm
trong văn tự sự
Nói đến tự sự là nói đến cốt truyện với nhân vật và các sự kiện nối tiếp
nhau. Nếu chỉ đơn thuần là sự lắp ghép, liệt kê hành động, việc làm của nhân vật
cũng như trình tự các sự việc thì câu chuyện sẽ trở nên khô khan đơn điệu. Nhân
vật trong tác phẩm tự sự phải thật sống động với đặc điểm chân dung bên ngoài
cũng như cử chỉ, hành động, thế giới nội tâm bên trong. Đó là chưa nói tới
những tác động của thiên nhiên, của cảnh vật. Để đáp ứng tất cả những yêu cầu
đó đương nhiên phải cần đến miêu tả. Mặt khác, tự sự là kể việc đời, việc người.
Dù khách quan đến đâu nhà văn cũng không thể đứng ngoài cuộc. Ngược lại,

4


nhà văn phải thực sự sống cùng với nhân vật của mình: cùng vui buồn, khổ đau,
hạnh phúc; cùng chia sẻ với những cảnh đời, những số phận do chính mình tạo
nên. Do đó rất cần đến yếu tố biểu cảm.
 Yếu tố miêu tả trong văn tự sự
Trong văn tự sự, việc miêu tả cụ thể, chi tiết cảnh vật ( không gian, thời
gian, cảnh trí thiên nhiên…) nhân vật (khuôn mặt, hình dáng, cách ăn mặc, đi
đứng, nói năng…) không chỉ có tác dụng làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn
mà còn góp phần không nhỏ vào việc làm rõ ý nghĩa của các sự việc, thể hiện
quan điểm, thái độ của người kể chuyện.
Yếu tố miêu tả thường được thể hiện qua các từ ngữ, hình ảnh có sức gợi
lớn ( từ láy tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, nhân hóa…) Việc đưa
yếu tố miêu tả trong văn tự sự phải có chọn lọc, không được quá lạm dụng dẫn
tới lạc thể loại. Mục đích chính là qua các hình ảnh miêu tả làm cho cốt truyện
hay hơn, hấp dẫn hơn; nhân vật hiện lên cụ thể, sinh động và gây ấn tượng hơn.
 Yếu tố biểu cảm trong văn tự sự
Yếu tố biểu cảm xuất hiện khi kể giúp người viết thể hiện được rõ hơn thái

độ, tình cảm, cảm xúc mình trước sự việc, nhân vật…buộc người đọc phải trăn
trở, suy nghĩ, động lòng trước sự việc đang kể, làm cho ý nghĩa của truyện càng
thêm thấm thía và sâu sắc.
Về hình thức, yếu tố biểu cảm trong văn tự sự thường xuất hiện thông qua
những câu cảm thán, những câu hỏi tu từ.
Tóm lại, việc sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm là rất cần thiết trong văn
tự sự. Thực tế cho thấy, trong quá trình tạo lập văn bản, người ta rất chú trọng
việc phối hợp giữa các phương thức nói trên. Điều quan trọng là tùy vào mục
đích, nội dung và tính chất của văn bản mà lựa chọn phương thức nào chính,
phương thức nào chỉ có ý nghĩa bổ trợ, bổ trợ ở mức độ nào, trong trường hợp
nào… Đó là một thử thách lớn với học sinh trong quá trình tạo lập văn bản.
2.3.2. Rèn kĩ năng viết bài văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả và
biểu cảm thông qua hệ thống bài tập.
2.3.2.1 Dạng bài tập nhận biết:
Đây là bài tập hình thành kỹ năng ở mức thấp, chủ yếu dừng lại ở mức nhớ,
hiểu và áp dụng kiến thức. Mục đích của bài tập này là làm sáng tỏ hoặc củng cố
khái niệm. Học sinh sẽ được tiếp xúc với các mẫu văn bản ( có chọn lọc) từ đó
nhận biết các yếu tố miêu tả và biểu cảm, phân tích được tác dụng của nó trong
việc biểu đạt nội dung.
*Ví dụ:
Bàì tập 1: Tìm và chỉ ra các yếu tố miêu tả và các yếu tố biểu cảm
trong đoạn văn sau:
Ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn có thể
trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc níu vào cái cuống của nó trên tường.
Thế rồi, cùng với màn đêm buông xuống, gió bấc lại ào ào, trong khi mưa vẫn
đập mạnh vào cửa sổ và rơi lộp độp xuống đất từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan.

5



Khi trời vừa hửng sáng thì Giôn- xi, con người tàn nhẫn, lại ra lệnh kéo
mành lên.
Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó.
Giôn- xi nằm nhìn chiếc lá hồi lâu. Rồi cô gọi Xiu đang quấy món cháo gà
trên lò hơi đốt.
“ Em thật là một con bé hư, chị Xiu thân yêu ơi”, Giôn-xi nói, “ Có một cái
gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ
như thế nào. Muốn chết là một tội. Giờ thì chị có thể cho em xin tí cháo và chút
sữa pha ít rượu vang đỏ và- khoan- đưa cho em chiếc gương tay trước đã, rồi
xếp mấy chiếc gối lại quanh em, để em ngồi dậy xem chị nấu nướng”.
Một tiếng đồng hồ sau, cô nói: “ Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em
hi vọng sẽ vẽ được vịnh Na-plơ”.
( OHen ri- Chiếc lá cuối cùng)
Ở bài tập này, học sinh sẽ phải chỉ ra được trong đoạn truyện trên OHen- ri
đã miêu tả để tái hiện hình ảnh chiếc lá thường xuân cuối cùng dũng cảm bám
vào bức tường gạch đối diện, bất chấp cả những đợt gió bấc ào ào thổi và những
hạt mưa mạnh mẽ tuôn xuống không ngớt. Sau đó nhà văn lại sử dụng kết hợp
kể với biểu cảm, bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật Giôn- xi sau khi
nhìn thấy vẻ đẹp và sức sống kỳ diệu của chiếc lá. Cô cảm thấy mình “ Thật là
một con bé hư”, và “ muốn chết là một tội” . Cô lại tiếp tục mơ ước một ngày
nào đó sẽ vẽ được vịnh Na-plơ.
Như vậy, chính yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn truyện trên đã góp
phần diễn tả diễn biến tâm trạng Giôn-xi từ chỗ tuyệt vọng, muốn chết đễn chỗ
khao khát được tiếp tục sống để thực hiện ước mơ trở nên tự nhiên hợp lý. Và
cũng chính từ đó, ý nghĩa của câu chuyện là ca ngợi sức mạnh của nghệ thuật
chân chính và tình yêu thương con người được thể hiện rõ hơn, sâu sắc hơn.
Bài tập 2: Yêu cầu học sinh quan sát đoạn văn sau và chọn ra một
phương án trả lời đúng nhất:
Kim đồng hồ nhích dần đến con số mười hai.Mặt trời đã đứng bóng. Cái
nắng hè gay gắt đến khó chịu, lại thêm từng đợt gió Lào quạt dữ dội. Ngoài

vườn, hàng chuối dường như cũng đang rũ xuống. Tôi nhìn ra ngõ, giờ này mẹ
vẫn chưa về. Hôm nào cũng vậy, mẹ thường đi làm về rất muộn. Cơ quan thì xa,
chiếc xe đạp cũ và cái dáng gầy của mẹ phải chống chọi với nắng, với gió Lào,
vất vả lắm mới vượt qua được cả quãng đường dài. Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi
thấy cay cay nơi khóe mắt. Và trong lòng tôi chợt thổn thức: làm sao con có thể
chia sẻ nỗi nhọc nhằn của mẹ, mẹ ơi!
A.Phương thức miêu tả
B. Phương thức tự sự
C. Phương thức biểu cảm
D. Cả 3 phương thức trên
Sau khi giải quyết xong bài tập, giáo viên giúp học sinh nhận ra trong đoạn
văn trên có cả 3 phương thức kết hợp với nhau. Các em xác định phương thức
biểu đạt chính, các phương thức còn lại đóng vai trò bổ trợ.

6


Bài tập 3: Tìm các từ miêu tả tâm trạng nhân vật Dế Mèn trong đoạn
văn dưới đây:
Biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên. Trông thấy tôi, Dế Choắt khóc
thảm thiết.
Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Sao? Sao?
Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế, tôi hốt hoảng quỳ
xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:
- Nào tôi có biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hối hận lắm!
Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào
bây giờ?
Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu như thế này:
-Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi

khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm
muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy
Thế rồi,Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội
mình. Giá tôi không trêu chị Cốc thì đâu đến nỗi Choắt việc gì. Cả tôi nữa, nếu
không nhanh chân chạy vào hang thì tôi cũng chết toi rồi.
(Tô Hoài - Dế Mèn phiêu lưu ký)
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu tâm trạng ân hận của Dế Mèn được
thể hiện qua lời nói, hành động và suy nghĩ. Cần chú ý vào đoạn kết của sự việc,
Mèn thương bạn, ăn năn tội mình và suy nghĩ về tác hại việc mình làm
2.3.2.2. Dạng bài tập vận dụng
Ở dạng bài tập này, học sinh sẽ được tạo lập sản phẩm theo mẫu, theo yêu
cầu hay bài tập sửa chữa. Học sinh dựa trên cơ sở những tri thức chung và riêng
để vận dụng sáng tạo nên sản phẩm mang dấu ấn cá nhân. Sau khi hoàn thành
loại bài tập này, học sinh sẽ hình thành nhiều năng lực tổng quát. Bài tập vận
dụng sáng tạo là loại bài tập yêu cầu cao nhất về kỹ năng, khả năng thực hiện
của học sinh
a.Vận dụng mức độ thấp
*Ví dụ:
Bài tập 1:
Tôi ở nhà Binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng nhốn nháo ở
bên nhà Lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến trước tôi
đang xôn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên
giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo,
bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai
người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ
đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì
mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu.
(Nam Cao – Lão Hạc)
Những câu văn nào tả rõ nhất nỗi đau đớn của lão Hạc trước khi chết ?
Có điều thay đổi gì nếu ta bỏ những câu ấy khỏi đoạn văn?


7


Qua việc giải bài tập, các em sẽ nhận ra vai trò của những câu văn miêu tả
trong việc biểu đạt nôi dung.
Bài tập 2: Cho đoạn văn tự sự sau:
Một buổi chiều, như thường lệ, tôi xách cần câu ra bờ sông. Bỗng nhiên tôi
nhìn thấy một cậu bé trạc tuổi mình đã ngồi câu ở đó tự bao giờ. Tôi định lên
tiếng chào làm quen, nhưng vì ngại nên lại thôi. Thế là tôi lặng lẽ lùi xa một
quãng, buông câu, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt nhìn trộm cậu ta. Lóng
ngóng thế nào, tôi để tuột cả hộp mồi rơi xuống sông. Ngán ngẩm, tôi cuốn cần
câu, định ra về. Chưa kịp đứng dậy, tôi đã nhìn thấy cậu bé đứng sừng sững
ngay trước mặt. Trên tay cậu ta là một hộp mồi đầy. Cậu ta lẳng lặng san nửa
số mồi cho tôi. Thế là chúng tôi làm quen với nhau.
Hãy thêm các yếu tố miêu tả và biểu cảm để viết lại đoạn văn tự sự trên
sao cho sinh động và hấp dẫn hơn.
Học sinh bổ sung thêm yếu tố miêu tả: có thể là khung cảnh thiên nhiên
(nắng, gió, dòng sông, tiếng cá đớp mồi); hình ảnh người bạn mới (gương mặt,
nước da, mái tóc, trang phục, …). Yếu tố miêu tả này có thể được tách ra thành
các câu văn độc lập; có thể xen vào mở rộng thành phần cho những câu trần
thuật đã có sẵn. Chú ý dùng những từ ngữ, hình ảnh có sức gợi tả cao
Bổ sung yếu tố biểu cảm: thái độ ngạc nhiên khi nhìn thấy cậu bé; sự tò
mò về cậu bé lạ; nỗi bực mình khi đánh rơi hộp mồi…(Có thể sử dụng các dạng
câu hỏi, câu cảm).
Bài tập 3: Thử lược bỏ các yếu tố miêu tả trong đoạn văn dưới đây để
được một đoạn văn khác. So sánh hiệu quả mà hai đoạn văn mang lại cho
người đọc.
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en. Cây
này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa

kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá
xanh tươi và có rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong
các tủ hàng hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây…Nhưng diêm
tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên
trời.
Ở bài tập này các em có thể thảo luận nhóm để tìm ra đoạn văn đã được
lược bỏ yếu tố miêu tả:
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en. Cây
này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa
kính một nhà buôn giàu có. Em với đôi tay về phía cây…Nhưng diêm tắt. Tất cả
các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Sau đó so sánh hai đoạn văn về nội dung và giá trị gợi tả.
b.Vận dụng mức độ cao
*Ví dụ:
Bài tập 1: Tìm hiểu cách miêu tả nhân vật Dượng Hương Thư trong
đoạn trích sau:

8


Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn.
Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái co người phóng chiếc sào xuống
lòng song nghe một tiếng ”soạc”! Thép đã cắm vào sỏi. Dượng Hương ghì chặt
trên đầu sào, lấy thế trụ lại, giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao phóng sào
xuống nước. Chiếc sào của Dượng Hương dưới sức chống bị cong lại. Nước vị
cản văng bọt tứ tung, thuyền vùng vằng cứ chực trụt xuống quay đầu chạy về lại
Hòa Phước
Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt.Thuyền cố lấn lên.
Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai
hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống

như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt
thác khác hẳn Dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai
gọi cũng vâng vâng dạ dạ.
(Võ Quảng – Quê nội)
Học cách miêu tả nhân vật trong hoạt động cụ thể của đoạn truyện, em
hãy tả một người đang làm công việc vất vả.
Học sinh nhận ra yếu tố miêu tả: Dượng Hương Thư được tái hiện trong
một công việc cụ thể. Nhân vật được chọn tả hành động, đường nét trên khuôn
mặt, cơ thể,…Người kể cũng thể hiện thái độ qua các hình ảnh so sánh, qua
nhận xét. Đặc biệt, yếu tố ngoại cảnh cũng góp phần làm nổi bật tính cách nhân
vật. Học sinh có thể chọn tả người gánh hàng, người thợ xây hoặc một em nhỏ
cố sức làm việc gì đó.
Bài tập 2:
Cho đề văn: Cô bé bán diêm sau khi cùng bà về chầu Thượng đế.
Đề yêu cầu kể câu chuyện trên cơ sở một câu chuyện đã có. Bài viết đòi
hỏi người làm phải tưởng tượng theo một hướng mới; chọn ngôi kể và thứ tự kể
phù hợp; xây dựng diễn biến hợp lý; biết tạo tình huống và biết dẫn dắt câu
chuyện theo trình tự có mở đầu, có phát triển, có kết thúc. Nội dung chuyện có ý
nghĩa sâu sắc. Đặc biệt biết kết hợp miêu tả và biểu cảm một cách hợp lý trong
quá trình kể chuyện,
Bài tập 3:
Đề bài: Một việc làm đáng phê phán
Đây là bài tập vận dụng cao nhất, yêu cầu học sinh sáng tạo một câu
chuyện hoàn toàn mới nên bài làm cần phải đáp ứng được:
- Câu chuyện phải có chủ đề sâu sắc (có ý nghĩa) khiến người đọc phải suy
ngẫm. Chủ đề sâu sắc thường mang một triết lí về cuộc sống; có khi là vấn đề
mà xã hội trăn trở, bức xúc, người viết thể hiện một quan niệm, một cách giải
quyết có sức thuyết phục; có khi là một tình cảm rất đẹp mà người kể muốn gợi
lên.
- Có chủ đề tốt lại phải chọn được cốt truyện hấp dẫn, xây dựng được một

chuỗi sự việc phát triển hợp lí, tạo được trong đó những tình huống bất ngờ, chi
tiết hay thì chuyện mới không bị nhạt nhẽo.

9


- Sự việc, tình tiết phải xoay quanh nhân vật. Do đó phải thể hiện sinh động
hành động, suy nghĩ của nhân vật.
- Bởi thế, không bao giờ chỉ tự sự đơn thuần mà phải biết xen miêu tả một
cách hấp dẫn và biểu cảm một cách tự nhiên.
Như vậy, thông qua hệ thống bài tập đã được chọn lựa (những mẫu văn bản
gần gũi, thiết thực với các em) học sinh được thực hành, vận dụng theo mức độ
từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Bắt đầu là việc nhận biết được các yếu tố miêu
tả, biểu cảm, vai trò, tác dụng của các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong việc biểu
đạt nội dung đến việc tự mình sáng tạo ra những bài văn tự sự có sử dụng yếu tố
miêu tả và biểu cảm. Đó là cả một quá trình cố gắng dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Có những bài thầy cô yêu cầu các em làm độc lập nhưng có bài lại cần đến
hoạt động tương tác (thảo luận nhóm). Mục đích cuối cùng là phát huy tối đa
khả năng sáng tạo của các em, phát triển các kỹ năng, khắc phục những hạn chế
Trong quá trình hoạt động của học sinh, đòi hỏi người thầy phải chuẩn bị
công phu, lựa chọn nội dung phù hợp, tạo được hứng thú học tập, thiết kế được
những hình thức truyền tải nội dung một cách hợp lý nhất. Giáo viên đóng vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động, gợi mở, khuyến khích và hỗ trợ
việc học của học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Khi áp dụng đề tài vào thực tế dạy học bản thân tôi nhận thấy hệ thống bài
tập đã giúp các em nhận diện đúng vai trò và đưa yếu tố miêu tả biểu cảm vào
bài văn tự sự một cách hợp lý. Nó tránh được lối kể lan man dài dòng bước đầu
tạo ra những văn bản tự sự từ đúng đến hay, và nhất là giúp các em hứng thú
hơn với bộ môn Ngữ văn.

Kết quả khảo sát một số bài kiểm tra cuối HKI cho thấy việc áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học một cách rõ nét.
Đề bài: Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn
Thời gian làm bài: 90 phút
Kết quả cụ thể:
Lớp Sĩ số Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A 30
5
16.7
18
60
7
23.3
0
0
8D 40
18
45
20

50
2
5
0
0
Nhìn vào bảng kết quả, ta thấy chất lượng đã được nâng lên đáng kể. Các
em hứng thú hơn với phân môn Tập làm văn, xuất hiện nhiều bài văn tự sự kết
hợp tốt các yếu tố miêu tả và biểu cảm gây ấn tượng với người đọc.
Dưới đây là một số đoạn văn được trích từ bài làm của học sinh:
Đề 1: Cô bé bán diêm sau khi cùng bà về chầu Thượng đế.
Cô bé nắm tay bà bay về trời. Bên cạnh em là rất nhiều thiên thần bé xíu.
Mỗi thiên thần khoác một đôi cánh trắng toát, mượt mà sau lưng. Trên tay họ là
những chiếc kèn thổi chào mừng. Cô bé rất háo hức. Vừa đi, em vừa nhảy chân
sáo. Cổng Thiên đường rộng lớn, sáng lên một màu vàng lấp lánh. Nó mở ra

10


trước mắt em một vùng đất rộng mênh mông tươi đẹp có rất nhiều hoa. Ôi!
Tuyệt thật! Nước mắt chảy dài trên gò má. Lâu lắm rồi em mới được sống
những giây phút hạnh phúc như vậy.
( Trích từ bài của em Nguyễn Mai Thúy- học sinh lớp 8D)
Đề 2: Ngày trở về của người con trai lão Hạc
Tôi trở về. Cảm giác được đặt chân lại chốn quê sao thân thương đến
vậy. Cảnh vật cũng không thay đổi là bao. Từng ngõ xóm, con đường,…cứ như
xưa. Nghĩ đến cảnh gặp lại thầy, tôi bỗng thấy vui sướng rạo rực, chỉ muốn
chạy thật nhanh. Đây rồi! Căn nhà cũ kĩ, mảnh vườn vẫn còn chỉ là vạn vật
đang phủ một lớp bụi như thể đã rất lâu nó chưa từng được quan tâm đến. Tôi
cất tiếng gọi thầy, rồi con chó Vàng…vẫn không ai trả lời. Tim tôi bỗng thổn
thức. Tôi bước vào căn nhà vắng lặng và ẩm mốc, chỉ thấy di ảnh của thầy giữa

làn khói hương nghi ngút. Tôi quỳ xuống. Cầu cho tất cả điều này chỉ là một
giấc mơ, một giấc mơ…
( Trích từ bài của em Nguyễn Thị Hồng Châu- học sinh lớp 8A)
Như vậy, từ chỗ chưa có ý thức sử dụng đến việc coi yếu tố miêu tả và biểu
cảm là một thành phần không thể thiếu trong bài văn tự sự; từ việc chỉ dừng lại
viết đúng các em đã tạo ra được những bài văn hay có sức hấp dẫn người đọc.
Đó là một thành công của quá trình dạy học. Và điều đó càng chứng tỏ những
giải pháp trên là đúng đắn.

11


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Làm thế nào để làm tốt bài văn tự sự vẫn là một trong những vấn đề quan
tâm hàng đầu của giáo viên Ngữ văn.Trong quá trình tạo lập văn bản, tùy vào
mục đích nội dung và tính chất của văn bản mà người viết kết hợp các phương
thức biểu đạt với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là không thể kết hợp các phương
thức này một cách tùy ý, tùy tiện. Trong thực tế, ở các văn bản tự sự, phương
thức kể và tả kết hợp rất chặt chẽ; tả, kể và biểu cảm cũng thường gắn bó với
nhau. Tuy nhiên, các phương thức miêu tả, biểu cảm xuất hiện chẳng qua là để
làm rõ, làm phong phú thêm cho phương thức biểu đạt chính mà thôi. Vì vậy,
giáo viên phải giúp học sinh nhận biết sự kết hợp và tác động giữa các yếu tố để
từ đó nắm được cách thức vận dụng các yếu tố này một cách tốt nhất trong văn
bản tự sự.
Là một giáo viên dạy Ngữ văn, bản thân tôi luôn mong muốn học trò của
mình làm được những bài văn hay, có kỹ năng giao tiếp tốt. Đề tài mới chỉ là
bước đầu nghiên cứu vận dụng đưa hệ thống bài tập rèn kỹ năng. Sau khi hoàn
thành, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
*Đối với học sinh:

- Cần phải rèn ý thức tự giác làm bài tập, tích lũy thêm kiến thức trong thực
tế đời sống xã hội.
- Cần có quỹ thời gian để đọc sách, tìm hiểu sâu hơn nội dung bài học, làm
phong phú thêm vốn từ cho bản thân.
- Có kỹ năng làm việc nhóm, mạnh dạn trao đổi với thầy cô để tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình học
*Đối với giáo viên:
- Ý thức được trách nhiệm, nghiên cứu kỹ bài dạy; đầu tư nhiều hơn trong việc
đổi mới phương pháp, đổi mới các hình thức tổ chức và phương tiện dạy học.
Chịu khó sưu tầm, điều chỉnh hệ thống bài tập phù hợp (tùy vào mức độ học
sinh khác nhau).
- Biết phối hợp linh hoạt các hình thức luyện tập phù hợp với từng đối tượng, tạo
được hứng thú học tập cho học sinh.
Làm được những điều trên, học sinh sẽ có cơ hội thực hành nhiều hơn,
hứng thú hơn với bộ môn, rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập văn bản (không
riêng gì văn bản tự sự). Điều đó rất cần thiết cho các em sau này.
3.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nhà trường cần bổ sung thêm
nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh. Đồng thời ngành giáo dục cần
biên chế sĩ số lớp ít hơn (không quá 35 em/lớp) kết hợp với đầu tư cơ sở vật chất
đầy đủ cho các trường THCS nói chung. Có được những điều kiện tốt thầy và
trò chắc chắn sẽ dễ dàng hơn trong quá trình thực hiện, sáng tạo trong hoạt động
dạy học từ đó nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, đáp ứng yêu cầu giáo dục
trong giai đoạn mới.

12


Do nghiên cứu lần đầu chắc chắn đề tài không tránh khỏi những hạn chế,
rất mong sự góp ý của đồng nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Nga Sơn, ngày 10 tháng 04 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

Nguyễn Thị Bùi Huyền

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Văn miêu tả tuyến chọn- Nhà xuất bản Giáo dục- 2003
2.Văn biểu cảm nghị luận ( Dùng cho trung học cơ sở)- NXB Đại học
Quốc gia Hà nội- 2000
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn trung
học cơ sở ( Tập hai) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam- 2010.

14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD& ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP
LOẠI
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Bùi Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Chu Văn An Nga Sơn
TT Tên đề tài SKKN

1

2

3
4
5
6
7

8

9

Cấp đánh giá Kết quả đánh
xếp loại
giá xếp loại
Một vài cảm nhận về bài Sở GD&ĐT
thơ Thu điếu, dự kiến Thanh Hóa
C
những phương pháp
giảng dạy
Hệ thống bài tập rèn Sở GD&ĐT
luyện kỹ năng viết đoạn Thanh Hóa
C
văn có câu chốt cho học
sinh lớp 9.
Sửa lỗi dùng từ cho học PGD & ĐT
sinh lớp 7
Nga Sơn

B

Năm học đánh
giá xếp loại
2001 – 2002

2002 - 2003

2006 – 2007

Luyện viết mở bài trong PGD & ĐT
văn nghị luận
Nga Sơn

A

2008- 2009

Luyện viết mở bài trong Sở GD&ĐT
văn nghị luận
Thanh Hóa

C

2008 – 2009

Khắc phục lỗi dùng từ PGD & ĐT
cho học sinh lớp 6
Nga Sơn


B

2011 – 2012

làm PGD & ĐT
sinh Nga Sơn
Chu

B

2012- 2013

làm PGD & ĐT
sinh Nga Sơn
Chu

A

2014- 2015

làm Sở GD&ĐT
sinh Thanh Hóa
Chu

C

2014- 2015

Dạy học bài “Tập
thơ 8 chữ” cho học

lớp 9 trường THCS
Văn An – Nga Sơn
Dạy học bài “Tập
thơ 8 chữ” cho học
lớp 9 trường THCS
Văn An – Nga Sơn
Dạy học bài “Tập
thơ 8 chữ” cho học
lớp 9 trường THCS
Văn An – Nga Sơn

15


16



×