1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ năm 2006, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho những chặng đường phát
triển kinh tế, xã hội ở nước ta. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt
Nam thì WTO không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức về mọi mặt từ chính
trị, quốc phòng, văn hóa, đến kinh tế xã hội. Đặc biệt, trong thời gian gần đây,
ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang xúc tiến triển khai đưa nước ta hội nhập
với Hiệp định TTP (Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) càng đặt ra
những thử thách cao hơn cho Việt Nam trong tương lai. Thêm vào đó, là sự
phát triển mạnh mẽ như vũ bão của các phương tiện truyền thông nhờ khả
năng kết nối toàn cầu của Internet, đã xóa nhòa dần khoảng cách giữa các khu
vực, các quốc gia trên địa cầu, các công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư
nước ngoài… ngày càng một xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam.
Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia, công ty có vốn đầu tư nước
ngoài, các doanh nghiệp tư nhân nội địa… ngày càng phát triển mạnh, giúp
tạo ra các chỉ số phát triển GDP cho Việt Nam ngày một ấn tượng hơn, tạo ra
nhiều hơn nữa cơ hội việc làm cho người lao động Việt, xóa bỏ dần nạn thất
nghiệp. Tuy nhiên, trước thực trạng cả thế giới đang chuyển động, mọi ngành
nghề trong xã hội đều có xu hướng thay đổi, hiện đại và chuyên nghiệp hơn,
có nhiều ngành nghề mới xuất hiện… đòi hỏi người lao động phải có định
hướng nghề nghiệp rõ ràng, tìm hiểu sâu về nhóm ngành nghề có dự định theo
đuổi trong tương lai, chuẩn bị kĩ lưỡng về trình độ chuyên môn, sức khỏe…
mới có thể đáp ứng được.
Do đó, hơn bao giờ hết, các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho
người lao động ở nước ta hiện nay đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là
đối với nhóm học sinh trung học phổ thông (từ lớp 10 – lớp 12) – những
người chuẩn bị bước vào cánh cửa cuộc đời. Các hoạt động hướng nghiệp cho
2
học sinh trung học phổ thông không chỉ là trách nhiệm và nhiệm vụ của
trường học mà còn là công tác chung của tất cả các ban ngành liên quan, trong
đó không thể không kể tới báo chí.
Báo chí là công cụ sắc bén để tuyên truyền chủ trương, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, là nơi để các tầng lớp
nhân dân phản ánh những tâm tư, nguyện vọng chính đáng, đề xuất những
kiến nghị, giải pháp liên quan tới cuộc sống của họ. Mỗi một bài báo viết ra
có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình
cảm cũng như những hành vi ứng xử của công dân. Vì thế, trách nhiệm xã hội
của báo chí trong các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông là hết sức nặng nề và rất quan trọng, có tác động không
nhỏ tới tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Du nhập vào Việt Nam từ những năm 90 của thế kỉ XX, Quan hệ công
chúng (PR) ngày càng thể hiện rõ sứ mệnh là kênh, công cụ truyền thông hiệu
quả, xác định và truyền thông đúng thông điệp của các chiến lược gia định
sẵn theo kế hoạch. Mặt khác, trong lĩnh vực phát triển cộng đồng, truyền
thông là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình chuyển
đổi nhận thức, thay đổi hành vi của người dân và các đối tượng công chúng
mục tiêu được hướng đến. Do đó, ngày nay PR tại Việt Nam không chỉ dừng
lại ở việc giúp khối các doanh nghiệp gia tăng hiệu suất kinh doanh mà còn
giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước truyền thông và giáo dục nhận thức của
công dân hiệu quả. Đặc biệt, hiệu quả truyền thông thông điệp của các chiến
dịch sẽ hiệu quả hơn khi có sự kết hợp giữa PR và báo chí.
Nắm vững được nhiệm vụ và vai trò của mình trong việc tuyên truyền
đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, cũng như sức mạnh của PR
trong các chiến dịch truyền thông, các cơ quan báo chí Việt Nam đã tổ chức
triển khai nhiều hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông và đã đạt được những hiệu quả nhất định (cả online và offline). Tuy
nhiên do nhiều nguyên nhân, các kế hoạch truyền thông của các cơ quan báo
3
chí Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, các hoạt động truyền thông
trong chiến dịch chưa được thực hiện chuyên nghiệp, và đầu tư đúng mức,
dẫn tới tình trạng kết quả thu được vẫn còn hạn chế, chưa được như mong đợi.
Do đó, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài “Tổ chức
hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT của các cơ quan
báo chí Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành
Quan hệ công chúng nhằm nghiên cứu việc ứng dụng PR trong các hoạt động
truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông của các cơ quan
báo chí Việt Nam hiện nay. Đồng thời, thông qua đó, tác giả đưa ra một số
giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Truyền thông là vấn đề từ lâu đã thu hút được các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước với nhiều công trình lớn. Tuy nhiên, cho đến nay, tại Việt Nam
các công trình nghiên cứu về các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông nói riêng vẫn còn rất hạn chế. Tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến một vài công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách “PR kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp” (2007)
do tác giả TS. Đinh Thị Thúy Hằng chủ biên đã giới thiệu khái quát về PR:
khái niệm, lịch sử phát triển, các hoạt động chuyên nghiệp của PR, các mối
quan hệ của PR với truyền thông, những chiến lược trong PR chuyên nghiệp.
Trong một bài viết của tác giả Nguyễn Minh Nguyệt đăng trên Tạp chí
Thông tin khoa học – Xã hội – số 12/2008 - “Truyền thông phát triển – Một
hướng đi mới cho báo chí ở các nước đang phát triển”, đã trình bày các ý
tưởng cơ bản về truyền thông phát triển, lợi ích của truyền thông phát triển
đối với các quốc gia đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng và làm thế
nào để áp dụng một cách hiệu quả truyền thông phát triển tại Việt Nam. Tuy
nhiên, nội dung bài viết chỉ mang tính gợi mở cho những nghiên cứu lý thuyết
4
và ứng dụng thực tế trong nước, chưa đi sâu nghiên cứu tìm ra giải pháp đẩy
mạnh hoạt động truyền thông phát triển cho việc định hướng, hướng nghiệp
cho học sinh trung học phổ thông.
Theo nội dung cuốn sách PR lí lận và ứng dụng (2008) của tác giả TS.
Đinh Thị Thúy Hằng chủ biên đã bao quát toàn bộ các ứng dụng của PR giúp
nhà hoạt động PR phân tích, nắm bắt và giải quyết các vấn đề cốt lõi của lĩnh
vực này, như các kĩ năng tác nghiệp cụ thể, các chiến lược quản lý khủng
hoảng, quá trình và phương pháp xây dựng các mối quan hệ với công chúng,
các vấn đề pháp luật có liên quan… Trên cơ sở đó, các nhà hoạt động PR sẽ
đưa ra chiến lược và mục tiêu kế hoạch truyền thông phù hợp với tổ chức.
Cuốn sách Ngành PR tại Việt Nam (2008) do Tác giả TS. Đinh Thị Thúy
Hằng chủ biên đã giới thiệu tổng quan ngành PR tại Việt Nam, PR – công cụ
quản lý truyền thông của tổ chức nhà nước, mô hình sử dụng PR – công cụ
quản lý. Nhiều thông tin thú vị được cung cấp như: về thu nhập, công việc, độ
tuổi của người làm PR tại Việt Nam, mô hình theo dõi báo chí của một số cơ
quan nhà nước, xu hướng hoạt động PR tại Việt Nam, những vấn đề thực tiễn
trong hoạt động PR.
Thông qua cuốn sách “PR theo kiểu Mỹ” (2012) của Robert L.
Dilenschneider, những người quan tâm đến truyền thông và PR được tiếp cận
với những “tuyệt chiêu” trong nghề của các chuyên gia Quan hệ công chúng
Mỹ. Tác giả đã đề cập khá chi tiết những thay đổi của hoạt động PR ở Mỹ
trong thời kì bùng nổ Internet và các phương tiện truyền thông mới hiện nay.
Qua hàng loạt ví dụ minh hoạt thực tiễn, Dilenschneider đã cho thấy sức
mạnh của truyền thông trong việc quảng bá hình ảnh thương hiệu doanh
nghiệp, tổ chức trong thời kì bùng nổ các kênh truyền thông mới hiện nay
(mạng xã hội, website, truyền hình online…)
Trong cuốn “Truyền thông – Lý thuyết và kĩ năng cơ bản” (2012) do
PGD.TS Nguyễn Văn Dững (chủ biên) và TS. Đỗ Thị Thu Hằng biên soạn,
các tác giả đã đưa ra một hệ thống các khái niệm về truyền thông, các yếu tố
5
cơ bản của truyền thông, mô hình truyền thông và phân loại truyền thông một
cách chi tiết. Trong đó, các tác giả phân tích cụ thể loại hình truyền thông có
chủ đích với các dạng phổ biến thông tin – giáo dục – truyền thông, truyền
thông vận động, truyền thông – vận động thông tin xã hội và truyền thông
thay đổi hành vi. Công trình có riêng chương 6: “Chu trình truyền thông” giới
thiệu cụ thể các bình diện cần nghiên cứu về đối tượng truyền thông để có
được những đánh giá chi tiết và tổng thể về thực trạng nhận thức, thái độ,
hành vi; thói quen, sở thích tiếp nhận các sản phẩm truyền thông cũng như
nhân khẩu học – xã hội của đối tượng.
Trong cuốn “Sổ tay phóng viên báo chí với trẻ em” của tác giả Nguyễn
Văn Dững (chủ biên) cũng đã cung cấp cho các phóng viên báo chí làm việc
với trẻ em những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ báo chí và những vấn đề liên
quan đến trẻ em, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm và kĩ năng trong hoạt động
nghiệp vụ báo chí với trẻ em của những nhà hoạt động xã hội, của các chuyên
gia nghiên cứu báo chí trẻ em. Tuy nhiên, cuốn sổ tay mới chỉ hướng dẫn cách
tiếp cận với trẻ em nói chung cho các phóng viên, chưa đề cập đến các hoạt
động truyền thông cho chủ đề định hướng nghề nghiệp với nhóm đối tượng
học sinh trung học phổ thông trên các kênh báo chí.
Cuốn sách “Nhà báo với trẻ em – kiến thức và kĩ năng” của TS. Nguyễn
Ngọc Oanh, là một tài liệu hướng dẫn về kĩ năng tiếp cận và giải quyết các
vấn đề trẻ em dựa trên quyền lợi và đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em giúp
các nhà báo, những người làm truyền thông hoàn thiện, nâng cao kĩ năng, góp
phần hiệu quả vào việc nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo chí
với nhóm công chúng trẻ em hiện nay.
Các công trình này tập trung nghiên cứu các hoạt động PR và vai trò của
PR với các cơ quan tổ chức nói chung, hoặc chỉ có một số ít các công trình đề
cập tới kĩ năng tiếp cận và làm việc với trẻ em của các nhà báo và chưa có
công trình nào đề cập tới việc ứng dụng PR trong hoạt động truyền thông
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông Việt Nam cụ thể. Kế thừa và
6
phát triển những nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên, luận văn Thạc sỹ “Tổ
chức hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT của các cơ
quan báo chí ở Việt Nam hiện nay” hướng đến việc đánh giá thực trạng ứng
dụng PR trong công tác truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam. Đồng thời đề xuất một số giải
pháp nâng cao hiệu quả cho các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp khắc phục ứng dụng PR để nâng cao hiệu quả truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam
trong thời gian tới.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, tác giả tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động truyền thông
hướng nghiệp cho học sinh THPT.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng các hoạt động truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại các báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong và
Lao Động.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm ứng dụng hiệu quả các hoạt
động PR để nâng cao hiệu quả truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu việc ứng dụng các hoạt động truyền
thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông (lớp 10 – lớp 12) tại
Hà Nội của các cơ quan báo chí: Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Lao Động.
7
b. Phạm vi nghiên cứu
Các hoạt động hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông (lớp 10 – lớp 12) tại Hà Nội của các cơ quan báo chí: Tuổi Trẻ,
Tiền Phong và Lao Động trong thời gian từ tháng 06/2015 đến tháng 06/2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, luận văn được
nghiên cứu và phát triển dựa trên cơ sở hệ thống lý thuyết về truyền thông, PR
với cơ quan báo chí.
b. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đề tài sử dụng các tài liệu nghiên
cứu về PR, PR chính phủ, PR với các cơ quan báo chí nói chung và PR trong
hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông và
các tài liệu nghiên cứu trước đây về vấn đề này nói riêng. Tác giả luận văn
cũng đi sâu phân tích các phân tích các hoạt động PR cụ thể từ đó tìm ra các
thông điệp chính của từng hoạt động, phát hiện những khó khăn, tồn tại trong
quá trình triển khai hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông của các cơ quan báo chí: Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Lao Động.
Từ đó, bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng
PR vào hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam (Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Lao Động)
trong thời gian tới.
-
Phương pháp thống kê: Tác giả luận văn sử dụng phương pháp
thống kê nhằm mục đích thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính toán
từng chỉ số liên quan tới đánh giá thực trạng hoạt động truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam
hiện nay (cụ thể là các báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Lao Động), từ đó đưa ra
8
những nhận định đánh giá và giải pháp nâng cao hiệu quả cho các hoạt động
truyền thông hướng nghiệp trong tương lai.
-
Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu: Phương pháp được tác
giả áp dụng trong việc phân tích các số liệu thu thập được từ các tài liệu sẵn
có và các số liệu do cá nhân tác giả trực tiếp khảo sát, từ đó so sánh đối chiếu
tìm ra những ưu, nhược điểm trong cách thức triển khai cũng như lập kế
hoạch các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông tại các cơ quan báo chí Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Anket: Tác giả sử dụng bảng hỏi
Anket để điều tra đối tượng khảo sát với dung lượng mẫu khảo sát là 500
phiếu điều tra. Các đối tượng tham gia khảo sát có độ tuổi từ 16 – 65 tuổi (học
sinh đang học theo học tại các trường trung học phổ thông và cha mẹ - công
chúng mục tiêu của các kế hoạch truyền thông hướng nghiệp), là những công
dân đang sinh sống tại khu vực Hà Nội. Các câu hỏi tập trung khảo sát nhận
thức của công chúng đối với các hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông của các cơ quan báo chí Tuổi Trẻ, Tiền Phong
và Lao Động. Từ đó, tác giả tìm ra tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động PR
đối với hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông của các cơ quan báo chí đã khảo sát.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Được áp dụng với các đối tượng lãnh
đạo, cán bộ nhân viên tại các báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Lao Động; các học
sinh trung học phổ thông tại Hà Nội, nhằm xác định cơ cấu tổ chức, tìm ra
hướng truyền thông hiệu quả và các kênh truyền thông phù hợp với hoạt động
truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông của các cơ quan
báo chí Việt Nam.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhỏ bé vào việc bổ sung
những vấn đề lý luận, phương pháp luận và thực tiễn trong hoạt động truyền
9
thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông của các cơ quan báo
chí.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và tác nghiệp thực tiễn về vấn đề xây dựng các hoạt động
truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông của các cơ quan
báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
có kết cấu 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
Chương II: Thực trạng tổ chức hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông của các cơ quan báo chí được khảo sát
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại
các cơ quan báo chí Việt Nam hiện nay
10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN THÔNG HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái niệm truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông
1.1.1.Hướng nghiệp
Khái niệm “hướng nghiệp” (career guidance) đã được truyền bá rộng rãi
sau Hội nghị Quốc tế 1921 ở Barcelona. Phòng hướng nghiệp đầu tiên được
thành lập ở Boston (Hoa Kỳ) từ năm 1908. Từ năm 1916, những cơ quan
chuyên môn về hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh, Ý và
nhiều nước khác trên thế giới. Khái niệm hướng nghiệp được đông đảo các
học giả quan tâm nghiên cứu.
Vào cuối những năm 20 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu khoa học ở
Tây Âu đã cho rằng: Hướng nghiệp là một hoạt động giúp đỡ thanh thiếu niên
tự chọn nghề sao cho phù hợp giữa năng lực cá nhân và yêu cầu nghề, có tính
đến nhu cầu phát triển đất nước.
Theo John Stewart, khái niệm hướng nghiệp được hiểu theo nghĩa phát
triển nghề nghiệp, quá trình đó trang bị cho chính mình hiểu biết về khát
vọng, giá trị, năng lực của mình; khai thác các cơ hội học tập, đào tạo nghề
nghiệp có thể được; xây dựng chiến lược gắn kết năng lực, kiến thức của
mình với đòi hỏi công việc.
Theo K.K.Platonop: “Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tâm
lý – giáo dục, y học, nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thông qua
việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu của xã hội, vừa
phù hợp với hứng thú năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên
sự thống nhất giữa quyền lợi của xã hội với quyền lợi của cá nhân”. Cũng từ
định nghĩa trên K.K.Platonop đưa ra sơ đồ tam giác hướng nghiệp với ba
cạnh: 1- Đặc điểm, yêu cầu của các ngành/nghề trong xã hội; 2- Nhu cầu nhân
11
lực của thị trường lao động; 3- Đặc điểm tâm lý và sinh lý của cá nhân. Sự kết
hợp khác nhau của các khía cạnh này tạo nên các hoạt động khác nhau trong
hướng nghiệp.
Hình 1.1 Sơ đồ tam giác hướng nghiệp và các hình thức hướng nghiệp
Trong hoạt động định hướng nghề, giáo viên cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về thế giới nghề và đặc điểm, yêu cầu của những nghề học
sinh định chọn. Đồng thời giới thiệu những ngành nghề mà xã hội và địa
phương đang có nhu cầu nhân lực hàng năm. Từ đó, họ sinh lựa chọn được
những nghề để học và đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Hoạt động tư vấn nghề, thông qua các hoạt động học tập, hoạt động
ngoại khóa, học nghề làm cho học sinh bộc lộ năng lực, sở trường, năng khiếu
về một ngành nghề nào đó. Và căn cứ vào yêu cầu của các ngành nghề trong
xã hội để tìm ra được sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân. Sự
phù hợp đó giúp cho học sinh có thể chọn nghề phù hợp với bản thân mình.
Trong hoạt động tuyển chọn nghề, giáo viên cung cấp các thông tin về
nhu cầu nhân lực của thị trường lao động và giúp học sinh tự nhận ra những
hứng thú, năng lực về thể chất và tinh thần, tính cách phù hợp với từng nghề
12
nghiệp cụ thể. Sự phù hợp của hai “cạnh” này nhằm giải tỏa những lo lắng
của học sinh khi chọn một nghề nào đó khi học xong lại không xin được việc.
Sự hợp nhất của ba hoạt động này giúp cho học sinh trong hoạt động
hướng nghiệp có thể chọn được một nghề nào vừa phù hợp với khả năng và
nghề đó đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Như vậy, từ việc phân tích những quan niệm ở trên, theo tác giả luận văn
hướng nghiệp được hiểu là một hệ thống các biện pháp tác động của xã hội
(gia đình, nhà trường, xã hội) thông qua nhiều hình thức khác nhau, đến với
nhận thức, thái độ và hành vi lựa chọn nghề của cá nhân. Kết quả của hoạt
động hướng nghiệp là làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi chọn nghề
của đối tượng theo chiều hướng phù hợp giữa sự lựa chọn của cá nhân với các
yêu cầu của nghề được lựa chọn. Qua đó, đảm bảo lợi ích tối đa của cá nhân
và xã hội, khai thác và sử dụng triệt để khả năng, tiềm năng và ưu thế của cá
nhân khi hành nghề trong suốt cuộc đời và đảm bảo sự khai thác hợp lý nguồn
nhân lực trong sự phát triển kinh tế của xã hội. Ngoài ra, cũng có thể hiểu,
hướng nghiệp là công tác chủ yếu hướng tới việc định hướng chọn nghề trong
tương lai của thanh niên, giúp cá nhân nhận ra giá trị của nghề và tìm thấy
hạnh phúc khi tận tâm cống hiến tinh thần và sức lực cho nghề đó.
1.1.2.Truyền thông hướng nghiệp
Truyền thông hướng nghiệp là các hoạt động sử dụng các kênh truyền
thông (bao gồm các kênh truyền thông truyền thống và các phương tiện
truyền thông mới) triển khai thông điệp của các chiến dịch, kế hoạch hoạt
động giáo dục – tư vấn hướng nghiệp cho công chúng mục tiêu, cụ thể là
những đối tượng có nhu cầu về việc làm trong xã hội.
Mục đích cuối cùng của các hoạt động truyền thông hướng nghiệp là
giúp người lao động lựa chọn được ngành, nghề phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của bản thân và nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Để trợ giúp
học sinh trung học phổ thông đạt được mục tiêu đó, thì hoạt động tư vấn phải
bắt đầu từ người được tư vấn. Người được tư vấn (học sinh THPT) đến với
13
nhà tư vấn vì họ đang gặp khó khăn để lựa chọn một nghề. Có thể, họ chưa có
hiểu biết gì nhiều về bản thân, về nghề nghiệp hay thị trường lao động; hoặc
họ có hiểu biết chút ít nhưng chưa đúng và đầy đủ; hoặc họ đang gặp mâu
thuẫn giữa năng lực và hứng thú, giữa cái bản thân muốn nhưng gia đình
không cho phép, giữa nghề họ hứng thú nhưng lại khó xin việc… Từ đó, có
nhiều quan điểm khác nhau về truyền thông hướng nghiệp cho học sinh từ các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Theo Frank Parsons: Truyền thông hướng nghiệp là việc trợ giúp một cá
nhân lựa chọn nghề, với công thức 3 phần: 1- Bạn phải có sự hiểu biết rõ ràng
về bản thân bạn, năng khiếu, năng lực, hứng thú, khả năng xoay sở, những
hạn chế và những phẩm chất khác; 2- Kiến thức về những yêu cầu, điều kiện
thành công, thuận lợi hay không thuận lợi, cơ hội và những hoàn cảnh khác
nhau trong công việc; 3- Lập luận sâu sắc về mối quan hệ giữa những đặc
điểm của hai nhóm trên trong thực tế. [8]
Những người theo “Lý thuyết phát triển” như Ginzberg, Axelrad, Herma
(1951); Ginsburg (1972), Zunker (2002) cho rằng: Truyền thông hướng
nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động tư vấn liên quan với chọn nghề cả
cuộc đời của một người. Trong tiến trình tư vấn hướng nghiệp, tất cả các khía
cạnh của những nhu cầu cá nhân (bao gồm gia đình, công việc và thời gian
rảnh rỗi) được xem như là toàn bộ các phần của kế hoạch và quyết định chọn
nghề. [8]
Theo Dick Bolles hiểu một cách đơn giản: Truyền thông hướng nghiệp là
những gì liên quan đến thị trường lao động, với những gì thuộc về cá nhân và
đồng thời mối quan hệ giữa thị trường lao động và nhu cầu cá nhân. Truyền
thông hướng nghiệp là nỗ lực của nhà tư vấn để chia sẻ với thân chủ về những
“công cụ” đó là sự hiểu biết, kiến thức, thông tin. Và “lập kế hoạch công
việc/cuộc sống” bằng cách giúp họ ứng dụng những công cụ đó trong lĩnh vực
công việc và cuộc sống hàng ngày. [8]
14
Một số tác giả Việt Nam đồng ý với quan niệm của F.Parson và
K.K.Platonop khi cho rằng, các hoạt động truyền thông hướng nghiệp phải
chú ý đến ba yếu tố: đặc điểm nghề, đặc điểm tâm lý cá nhân và nhu cầu nhân
lực của thị trường lao động. Chẳng hạn như theo GS.TS Tâm lý học hướng
nghiệp Phạm Tất Dong: Các hoạt động tư vấn hướng nghiệp là hệ thống
những biện pháp tâm lý – giáo dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất
và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu các năng lực đó với những yêu cầu
do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của
địa phương và xã hội, trên cơ sở đó có những lời khuyên về nghề có căn cứ
khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn
nghề. [9]
Như vậy, từ tất cả các định nghĩa về truyền thông hướng nghiệp được
nêu ở trên, tác giả luận văn cho rằng: Truyền thông hướng nghiệp là các hoạt
động sử dụng các kênh truyền thông, truyền tải các thông điệp giáo dục – tư
vấn hướng nghiệp nhằm giúp cho các cá nhân nâng cao nhận thức về đặc
điểm nghề, nhu cầu xã hội đối với nghề, hiểu biết về đặc điểm tâm lý, bản
thân để lựa chọn nghề phù hợp. Trong định nghĩa này, truyền thông hướng
nghiệp có những đặc điểm cụ thể: 1- Mục đích của truyền thông hướng
nghiệp là giúp cá nhân nâng cao nhận thức để tự chọn được nghề phù hợp
nhất với bản thân; 2- Giữa người tư vấn và người được tư vấn hướng nghiệp
có mối quan hệ tương tác, tin cậy; 3- Nội dung hoạt động tư vấn hướng
nghiệp nhằm nâng cao nhận thức về đặc điểm, nhu cầu xã hội đối với nghề và
hiểu biết đặc điểm tâm lý của bản thân để lựa chọn nghề phù hợp.
Do nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến có nhiều cách phân loại các hoạt
động truyền thông hướng nghiệp. Nếu căn cứ vào nội dung, hoạt động truyền
thông hướng nghiệp gồm có 4 nhóm: 1- Truyền tải thông tin hướng dẫn:
Nhằm giới thiệu với học sinh về họa đồ nghề nghiệp, đặc điểm nghề định
chọn. Ở đây, người cán bộ tư vấn sẽ giới thiệu về những yêu cầu do nghề đối
với những phẩm chất cá nhân của con người, đồng thời chỉ ra con đường để
15
đạt được nghề nghiệp và triển vọng nâng cao tay nghề; 2- Truyền tải thông tin
tư vấn chẩn đoán: Đo đạc những tâm lý, cá nhân nhằm bộ lộ hứng thú, thiên
hướng, năng lực và những phẩm chất nghề nghiệp chuyên biệt của con người
trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc nhân cách con người một cách toàn diện.
Mục đích của tư vấn chẩn đoán là xác định trong những lĩnh vực hoạt động
nào con người có thể lao động thành công nhất, tức là đem lại lợi ích tối đa
cho xã hội, đồng thời đưa lại niềm vui, sự hài lòng cho bản thân người lao
động; 3- Truyền tải thông tin tư vấn y học: nhằm bộc lộ sự phù hợp giữa trạng
thái sức khỏe của con người với yêu cầu của nghề mà con người lựa chọn.
Nếu như con người mắc một trong những chứng bệnh thuộc loại chống chỉ
định của nghề thì người cán bộ tư vấn sẽ khuyên nên chọn một nghề khác gần
gũi với thiên hướng và hứng thú, đồng thời phù hợp với trạng thái sức khỏe
của người đó; 4- Truyền tải thông tin tư vấn hiệu chỉnh: được tiến hành trong
trường hợp ý định nghề nghiệp của con người không phù hwpj với khả năng
và năng lực thực tế của họ.
Nếu căn cứ vào mức độ chuyên nghiệp của hoạt động truyền thông tư
vấn hướng nghiệp được chia làm hai loại: 1- Truyền thông tư vấn hướng
nghiệp sơ bộ: Loại tư vấn này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì
không đòi hỏi phải có thiết bị, các phương tiện kỹ thuật. Chẩn đoán những
phẩm chất nhân cách của học sinh cũng không cần đòi hỏi phải có đội ngũ
chuyên gia tư vấn tay nghề ao, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực tâm – sinh lý,
giáo dục học, y học, kinh tế học. Nhà tư vấn có thể là giáo viên chủ nhiệm
hay bộ môn, cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một
số trường hoặc địa phương, nhu cầu nhân lực, về năng lực của học sinh, từ đó
cho lời khuyên học sinh có thể học nghề gì, ở đâu; 2- Truyền thông tư vấn
hướng nghiệp chuyên sâu: Loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến hành
trên cơ sở khoa học thực sự, đảm bảo độ chính xác cáo nhờ một số máy móc
hiện đại. Nhà tư vấn là những chuyên gia tư vấn được đào tạo một cách bài
bản, có kiến thức về tâm lý học phát triển, tâm lý học lao động, tâm lý học trẻ
16
có tật, kiến thức về thế giới nghề nghiệp, về yêu cầu của các nghề, về đặc
điểm nhân cách (hứng thú, khuynh hướng, động cơ, năng lực nghề nghiệp)
của học sinh và nhu cầu phát triển nhân lực của các ngành nghề kinh tế quốc
dân và địa phương. Nhà tư vấn có phương pháp và kĩ năng tư vấn, có những
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đảm bảo hành nghề có hiệu quả.
Căn cứ vào số lượng người tham gia có thể phân chia như sau: 1- Truyền
thông tư vấn hướng nghiệp cá nhân: là quá trình tương tác tích cực giữa nhân
viên tư vấn và học sinh đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn nghề; 2Truyền thông tư vấn hướng nghiệp nhóm: là quá trình tư vấn một bên là nhà
tư vấn với một nhóm. Nhóm người được tư vấn có thể từ hai người trở trên,
họ có thể là học sinh, phụ huynh hoặc giáo viên; 3- Truyền thông tư vấn
hướng nghiệp cộng đồng: là quá trình sử dụng các phương tiện truyền thông
tư vấn một bên là nhà tư vấn với cộng đồng nhằm tăng cường kiến thức và
nhận thức của cộng đồng, thay đổi thái độ và hành vi từ chỗ bất lợi đến chỗ có
lợi cho cộng đồng, thúc đẩy động cơ cho đối tượng có hành động bảo vệ cộng
đồng.
Tóm lại: Sự phân chia các loại hình truyền thông tư vấn hướng nghiệp
chỉ có tính tương đối, bởi lẽ dù là tư vấn cá nhân hay tư vấn nhóm, thì đó đều
là quá trình tương tác tích cực giữa nhà tư vấn có kiến thức về thế giới nghề
nghiệp, đặc điểm của từng nghề, kiến thức về tâm lý học sinh và nhu cầu nhân
lực của thị trường lao động. Nhà tư vấn phải có kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp
và tuân thủ theo cá giá trị đạo đức nghề nghiệp. Trong quá trình đó, nhà tư
vấn phải làm các công việc như cung cấp thông tin, chẩn đoán tâm lý, sinh lý,
trao đổi giải đáp và giải tỏa thắc mắc, khó khăn của học sinh trong quá trình
tìm hiểu và quyết định chọn một nghề để học và làm việc.
1.1.3.Truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT
Truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT là một khái niệm khá
mới mẻ ở Việt Nam. Các nghiên cứu về khái niệm này chưa nhiều. Tác giả
17
luận văn tổng hợp một số quan điểm về tư vấn hướng nghiệp cho học sinh để
làm rõ nội hàm của nó:
Nhóm tác giả Đoàn Chi, Phạm Tất Dong, Nguyễn Thế Trường trong
công trình nghiên cứu “Sinh hoạt hướng nghiệp 11” cho rằng: “Tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh là hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo dục nhằm
đánh giá toàn bộ năng lực, thể chất và trí tuệ của học sinh, đối chiếu các năng
lực đó với những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc
đến nhu cần nhân lực của địa phương và xã hội, trên cơ sở đó cho các em
những lời khuyên về chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp
may rủi, thiếu chín chắn khi chọn nghề”. [9] Mục đích của công tác tư vấn
hướng nghiệp là giúp học sinh “tìm ra chính mình”, chú ý tới những nhân tố
chủ quan và khách quan khi chọn nghề, tạo điều kiện cho các em phát huy tối
đa năng khiếu, năng lực của cá nhân trong thời gian học nghề cũng như trong
bước đường hoạt động nghề trong tương lai.
Theo tác giả Đặng Danh Ánh: “Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống các
biện pháp tâm lý – giáo dục – y học nhằm phát hiện và đánh giá toàn diện
năng lực của thanh thiếu niên với mục đích giúp họ chọn nghề trên cơ sở khoa
học”. [10] Kết quả của tư vấn hướng nghiệp là giới thiệu cho học sinh chọn
được nghề phù hợp với nguyện vọng, năng lực của cá nhân và nhu cầu nhân
lực của các thành phần kinh tế.
Từ những định nghĩa nêu trên cho thấy, các tác giả đã nhấn mạnh đến ba
khía cạnh: đặc điểm, yêu cầu nghề; thị trường lao động; đặc điểm tâm lý cá
nhân. Tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh tìm ra được sự phù hợp của 3 khía
cạnh ở trên. Từ những điều đã nêu trên có thể hiểu các hoạt động truyền thông
tư vấn hướng nghiệp cho học sinh THPT là các hoạt động truyền thông bằng
nhiều hình thức tư vấn thông qua hệ thống các kênh truyền thông khác nhau
(trong đó không thể không kể đến báo chí) giúp học sinh nâng cao nhận thức
về nghề, đặc điểm nghề định chọn, hiểu biết về tâm lý bản thân và nhu cầu xã
hội về nghề, từ đó tìm ra nghề phù hợp. Công chúng mục tiêu của hoạt động
18
truyền thông hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông là các học sinh
từ lớp 10 – 12 trên cả nước và các bậc phụ huynh – những người có ảnh
hưởng, tác động trực tiếp tới quyết định lựa chọn nghề của học sinh trong
tương lai. Từ đây, tác giả luận văn đề xuất khái niệm truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh THPT như sau:
“Truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT là hoạt động triển khai
các chương trình, kế hoạch tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trên các
phương tiện truyền thông, nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về nghề, về
nhu cầu xã hội đối với nghề. Ngoài ra, các hoạt động truyền thông hướng
nghiệp còn giúp các học sinh THPT hiểu rõ hơn về sở thích, mong muốn, khát
vọng của bản thân từ đó lựa chọn được nghề phù hợp với cá nhân và nhu cầu
của xã hội.”
Trong khái niệm này, truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT có
những đặc điểm cụ thể sau:
-
Mục đích của các hoạt động truyền thông hướng nghiệp là nâng cao
hiểu biết của học sinh về nghề, nhu cầu xã hội với nghề và tìm ra năng lực của
bản thân thích hợp với ngành nghề nào. Trên cơ sở học sinh có hiểu biết đúng,
đủ, chính xác về “ba cạnh” trình bày ở trên, học sinh sẽ có hành vi tự quyết
định lựa chọn được nghề phù hợp với đặc điểm tâm lý của bản thân và nhu
cầu của xã hội.
-
Các hoạt động truyền thông tư vấn hướng nghiệp giúp các học sinh
THPT nâng cao nhận thức cá nhân về thế giới nghề nói chung và tìm hiểu về
đặc điểm, yêu cầu của nghề sẽ chọn.
-
Thông qua hệ thống các phương tiện truyền thông, các học sinh
THPT sẽ có cái nhìn tổng quan về nghề; thấu hiểu rõ hơn về tâm lý cá nhân,
xét xem mình thực sự hứng thú với nghề nào, năng lực và tính cách cá nhân
phù hợp với nghề nào trong xã hội.
-
Các nhà truyền thông tư vấn – giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
THPT có thể sử dụng đồng thời nhiều kênh khác nhau (các kênh truyền thống:
19
báo chí, radio, truyền hình, hội thảo…; các phương tiện truyền thông mới:
mạng xã hội, báo điện tử, website…) để phát huy tối đa hiệu quả tư vấn
hướng nghiệp, trong đó báo chí là một trong những kênh đóng vai trò chủ
chốt.
-
Đặc biệt, hiện nay nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sức
mạnh phát triển của Internet toàn cầu, học sinh THPT có thể thông qua các
kênh truyền thông để trao đổi trực tiếp với các nhà tư vấn, giúp hiểu rõ hơn về
mong muốn của bản thân, yêu cầu và nhu cầu nghề của xã hội từ đó lựa chọn
ngành nghề tương lai phù hợp nhất.
1.2.Chức năng của hoạt động truyền thông hướng nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông
Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời với thế giới nghề nghiệp phong
phú, học sinh THPT cần chọn cho mình một nghề nào cho phù hợp với năng
lực bản thân - một điều rất khó, vượt ra ngoài khả năng của các em. Do đó,
công tác truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT đóng vai trò quan
trọng, giúp các em định hướng và lựa chọn nghề nghiệp tương lai phù hợp với
năng lực, tính cách của học sinh và phù hợp với yêu cầu của xã hội chính là
công việc trong trường dạy nghề, của xã hội và gia đình, trong đó nhà trường
đóng vai trò hết sức quan trọng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đã nhấn mạnh: "Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh
trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương".
Công tác truyền thông hướng nghiệp cho học sinh THPT là một trong
những hoạt động quan trọng nhằm định hướng về mặt nghề nghiệp cho thanh
niên từ 16 – 18 tuổi. Các hoạt động truyền thông hướng nghiệp giúp các học
sinh THPT:
- Tự nhận thức và đánh giá được bản thân
Tự đánh giá được bản thân tức là tự đánh giá năng lực, sở thích, kĩ năng,
việc làm yêu thích của từng cá nhân. Nhận thức về bản thân rất cần thiết để
20
đưa ra được quyết định lựa chọn làm việc phù hợp giống như kiến thức cần
thiết để đưa ra lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân. Cá nhân cũng có
thể áp dụng năng lực, sở thích, kĩ năng và công việc yêu thích của bản thân để
cân nhắc việc lựa chọn từ công việc bình thường đến công việc đặc biệt hơn.
Theo Donald Super: Mỗi người có khả năng và tính cách, nhu cầu, giá trị, sở
thích, đặc điểm và quan niệm bản thân khác nhau. Mỗi đặc điểm, mỗi tính
cách tương ứng với nghề nghiệp khác nhau. Có nhiều loại khả năng, đặc điểm
tính cách và những đặc tính khác mà mỗi người cần phải coi đó là điều kiện
tiên quyết cho thành công của nhiều nghề. [13]
- Tìm hiểu về ngành nghề, hệ thống trường đào tạo, nhu cầu thị trường
lao động trong và ngoài nước
Thứ nhất, tìm hiểu về ngành nghề: Điều quan trọng quá trình lựa chọn
nghề đúng là học sinh THPT cần phải hiểu rõ về nghề mình lựa chọn. Hiểu
những đặc điểm của nghề, yêu cầu của nghề, chính vì lẽ đó học sinh THPT
cần biết thu thập thông tin về nghề nghiệp, biết phân tích và lựa chọn thông
tin một cách toàn diện nhất.
Thứ hai, tìm hiểu về hệ thống trường, lớp đào tạo nghề của trung ương
và địa phương, hệ thống các trường đại học, cao đẳng.
Thứ ba, tìm hiểu thông tin về ngành nghề đào tạo (nội dung các chương
trình giảng dạy).
Thứ tư, tìm hiểu về nhu cầu thị trường lao động về ngành nghề dự định
theo đuổi trong tương lai, các ngành nghề đang đứng đầu xu hướng của thị
trường lao động.
Như vậy, nhận thức về nghề là kim chỉ nam, là cơ sở thúc đẩy nhu cầu,
hứng thú và tạo ra nguyện vọng chọn nghề cho học sinh THPT. Nhận thức
đúng sẽ giúp các em có những rung cảm nghề nghiệp tích cực và chọn nghề
phù hợp. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về nghề nghiệp sẽ có tác dụng
thúc đẩy hành động chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, khả năng của mình,
hình thành tình cảm nghề nghiệp bền vững.
21
- Đưa ra quyết định chọn nghề phù hợp
Có thể nói, trợ giúp học sinh THPT chọn nghề phù hợp là nội dung quan
trọng của công tác truyền thông hướng nghiệp. Theo Eugene Joseph Martinez
(1980) [14], James P. Sampson, JR. Robert C. Readon, Gary W. Peterson,
Janet G. Lenz (2004) [15]; Mihai Jigău (2007) [16] cho rằng: Ra quyết định
chọn nghề là một loạt kết luận và hoạt động của bản thân hoặc một lựa chọn
được định giá, chọn lọc để đưa ra một quyết định đảm bảo đạt được một kết
quả nào đó, theo mong muốn của bản thân và được cam kết để hành động.
F.Parsons (1909) đã đưa ra các bước trong quá trình chọn nghề gồm có:
1- Đánh giá hiểu biết về bản thân; 2- Hiểu biết của bản thân về thế giới nghề;
3- Kết hợp giữa bản thân và thế giới nghề nghiệp. [17]
Tác giả Eugene Joseph Martinez (1980) chỉ ra rằng ra quyết định chọn
nghề được thể hiện qua 3 giai đoạn: 1- Hiểu việc quyết định chọn nghề; 2- Tự
hiểu bản thân; 3- Hiểu thông tin. [14]
UNESCO (2002) đã đưa ra 6 bước trong quá trình ra quyết định chọn
nghề: 1- Nâng cao nhận thức bản thân; 2- Liên kết sự nhận thức bản thân với
những yêu cầu nghề nghiệp; 3- Nghiên cứu, tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp; 4Ra quyết định; 5- Xác định mục tiêu; 6- Kế hoạch tìm kiếm nghề nghiệp. [18]
Khi đưa ra quyết định lựa chọn nghề nghiệp, điều quan trọng là cá nhân
phải ý thức được giá trị, năng lực, sở thích của bản thân, sự hiểu biết đúng về
bản thân là động lực kích thích sự lựa chọn nghề phù hợp. Do vậy, học sinh
THPT muốn có được những quyết định chọn nghề đúng đắn thì cần phải đối
chiếu năng lực, sở thích, tính cách, của cá nhân với những đặc điểm, yêu cầu
của ngành nghề, và với nhu cầu nhân lực của xã hội. Quan trọng và chủ yếu
nhất là kết hợp hài hòa ba yếu tố trên trong đó yếu tố đặt lên hàng đầu đối với
học sinh THPT là “Nghề đó cần cho xã hội”. [19] Theo như Trần Thế Linh
(1994): “Lựa chọn nghề nghiệp là quá trình đối chiếu so sánh những đặc điểm
yêu cầu tính chất của một nghề với điều kiện của bản thân về năng lực, nhu
cầu, nguyện vọng, sở thích để tìm cho mình một nghề nghiệp phù hợp. Việc
22
lựa chọn này đòi hỏi một sự cân nhắc, suy nghĩ nghiêm túc xuất phát từ
những điều kiện đã có của bản thân, kết hợp với việc tiếp thu kinh nghiệm của
những người đi trước”. [20]
- Trợ giúp học sinh trung học phổ thông giải tỏa những khó khăn tâm lí
trong quá trình chọn nghề
Cùng với các chức năng, nhiệm vụ nêu trên, việc trợ giúp học sinh THPT
giải tỏa tâm lí là nội dung không thể thiếu được trong công tác truyền thông
hướng nghiệp. Chính vì thế giải tỏa tâm lí cho học sinh THPT không những là
nội dung mà còn là mục tiêu của công tác truyền thông hướng nghiệp. Trong
quá trình trợ giúp học sinh THPT tự đánh giá bản thân, tìm hiểu về ngành,
nghề, về trường thi, trợ giúp học sinh lựa chọn nghề, người tư vấn phải luôn
luôn chú ý đến trạng thái tâm lí của học sinh: Băn khoăn, lo lắng, buồn bực,
chán nản…. để nhận xét và đánh giá mức độ nhận thức và giải quyết những
khó khăn trong quá trình chọn nghề của học sinh. Trạng thái tâm lí trên luôn tỉ
lệ thuận với mức độ giải quyết khó khăn của học sinh THPT. Nhờ có công tác
truyền thông hướng nghiệp, những khó khăn trong quá trình chọn nghề của
học sinh THPT dần được tháo gỡ và cùng với nó là trạng thái tâm lí dần được
cải thiện. Như vậy, việc giải tỏa tâm lí cho học sinh là hệ quả tất yếu có được
sau khi được tiếp cận và tham gia vào công tác hướng nghiệp. Để thực hiện
tốt nội dung này, đòi hỏi người thực hiện công tác hướng nghiệp phải có kĩ
năng và kinh nghiệm quan sát, phát hiện những biểu hiện tâm lí của học sinh
trong quá trình tham vấn nghề. Sau khi được tham vấn nghề, học sinh hiểu
biết hơn về bản thân, về ngành nghề và lựa chọn được ngành nghề phù hợp, từ
đó học sinh có được trạng thái tâm lí thoải mái, vui vẻ, yên tâm, tin tưởng hơn
vào bản thân và sự lựa chọn nghề của mình.
- Trợ giúp học sinh THPT giải quyết những khó khăn khác
1- Mâu thuẫn giữa bản thân và cha mẹ trong sự lựa chọn ngành nghề:
Hiện tượng học sinh bị cha mẹ, người thân trong gia đình phản đối việc chọn
nghề của các em cũng khá phổ biến. Người lớn can thiệp vào việc chọn nghề
23
của các em thường do động cơ muốn con em mình chọn những nghề mà theo
chủ quan của họ thì đó là lĩnh vực hoạt động mang lại lợi ích thiết thực.
2- Mâu thuẫn giữa chọn nghề theo sở thích và chọn nghề theo năng lực:
Bản thân học sinh THPT sẽ có mâu thuẫn này, giữa một bên là năng lực
không đủ với một bên là sở thích vượt quá so với khả năng, do vậy, các thông
tin hướng nghiệp cần phải giúp học sinh hiểu được chọn nghề theo yếu tố nào
là cần thiết.
1.3.Vai trò của báo chí trong các hoạt động truyền thông hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
Báo chí có một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Nó
vừa là một loại vũ khí sắc bén trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, vừa là một
thứ “quyền lực thứ tư” trong xã hội hiện đại.
Trong suốt chặng đường hơn 90 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng
thành, báo chí cách mạng Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trên
nhiều mặt; phát triển nhanh chóng và toàn diện, cả về số lượng và chất lượng,
đội ngũ nhà báo, hệ thống kĩ thuật nghiệp vụ… Từ Báo Thanh Niên – tờ báo
cách mạng được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo năm
1925, đến nay, cả nước đã có hơn 800 cơ quan báo in với hơn 1000 ấn phẩm,
67 đài phát thanh, truyền hình, một hãng thông tấn quốc gia, hơn 90 báo điện
tử và hàng trăm trang thông tin điện tử … [12]
Báo chí ngày càng thể hiện vai trò to lớn và thiết thực trong mọi lĩnh vực
đời sống xã hội. Quần chúng nhân dân ngày một quan tâm, gần gũi và gắn bó
mật thiết với báo chí hơn. Báo chí của chúng ta vừa là tiếng nói của Đảng và
Chính Phủ, vừa là diễn đàn rộng rãi của nhân dân, là công cụ, phương tiện và
là phương thức thúc đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội phục vụ
sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhìn chung, báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục
đích, phản ánh kịp thời những sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nổi
bật, phản ảnh đúng nguyện vọng , tâm tư, tình cảm của nhân dân. Báo chí góp
phần đắc lực trong việc xây dựng những điển hình tiên tiến trong các phong
24
trào thi đua yêu nước, đấu tranh để phòng, chống nạn tham ô, tham nhũng,
lãng phí quan liêu…
Ngày nay, báo chí không chỉ là công cụ truyền bá tư tưởng văn hóa , xã
hội mà còn trở thành một phương tiện chính của sự phát triển kinh tế. Nhờ có
thông tin báo chí mà hàng hóa đến được tay người tiêu dùng và do đó nó trở
thành một điều kiện thúc đấy phát triển kinh tế sản xuất. Với nội dung thông
tin có định hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả
năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự
vận động của hiện thực theo những chiều hướng có chủ định. Và là thước đo
nhất định về sự phát triển của một xã hội nhằm góp phần cải tạo thế giới, cải
tạo xã hội về mọi mặt.
Như vậy, giá trị thông tin của báo chí là ở chỗ nó giúp công chúng hiểu
biết rõ các hiện tượng xã hội cơ bản cần thiết cho việc định hướng và tạo dư
luận xã hội lành mạnh nhằm ủng hộ các mục tiêu phát triển chính trị, kinh tế
và xã hội. Do đó, không phải bất kì thông tin nào cũng được đưa vào tin của
các phương tiện truyền thông đại chúng mà chỉ đưa vào những thông tin chứa
đững các yếu tố phản ánh hiện thực xã hội quan trọng, mà xã hội đạt được
bằng con đường nhận thức và cải tạo thế giới, có tác dụng định hướng cho các
suy nghĩ và các hoạt động của quần chúng nhân dân nhằm đạt tới mục tiêu
phát triển các giá trị xã hội tiến bộ.
Bản chất vai trò của báo chí đã vạch rõ chức năng chính của báo chí
trong cơ cấu xã hội: khả năng tác động, hình thành dư luận xã hội. Sự phản
ánh hiện thực khách quan xã hội của báo chí phải xuất phát từ giá trị thông tin
cơ bản của nó cùng với thế giới quan khoa học và lợi ích của nó đối với xã
hội. Các sự kiện trong hiện thực xã hội tự nó tồn tại một cách khách quan,
không phụ thuộc vào quan điểm của người làm báo. Song chọn lọc các sự
kiện để phản ánh trên báo chí với tính chất, bối cảnh nơi diễn ra trong mối tác
động qua lại của sự kiện, cách trình bày các sự kiện đó đương nhiên lại chứa
đựng những yếu tố thông qua việc đánh giá sự kiện của chủ quan người làm
25
báo. Sự thật khách quan của các sự kiện để tách rời riêng lẻ không thể đảm
bảo tính chân thật của thông tin.
Thông tin trên báo chí nói chung và thông tin về vấn đề hướng nghiệp
cho học sinh THPT trên báo chí nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với
công chúng, nhất là khi vấn đề giáo dục hướng nghiệp trong các nhà trường
còn nhiều hạn chế về nội dung, chậm đổi mới về cách thức tổ chức giáo dục.
Do vậy, báo chí trở thành kênh thông tin quan trọng để thu hút độc giả. Bên
cạnh đó, báo chí với vai trò thông tin nhanh, kịp thời đã đáp ứng được nhu
cầu thông tin cần thiết của công chúng trong nhiều thời điểm khác nhau.
Nội dung thông tin về vấn đề hướng nghiệp cho học sinh THPT trên báo
chí luôn được cập nhật và thông tin chính xác, đa dạng về nhiều mặt của vấn
đề hướng nghiệp mà giáo dục hướng nghiệp trong các nhà trường chưa đáp
ứng được. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức, mở cửa và
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào diễn đàn quốc tế, tri thức Việt Nam
cần chủ động để thích ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong và ngoài nước. Vì
vậy, nhu cầu thông tin về xu hướng phát triển của các thành phần kinh tế
trong nước, cũng như những biến động của thị trường lao động quốc tế là rất
cần thiết đối với công chúng mà thông tin trong các chương trình giáo dục tại
các nhà trường không thể thỏa mãn được nhu cầu của học sinh. Do vậy, báo
chí là kênh thông tin phân tích, đánh giá, cũng như nhận định về vấn đề này
rất sâu sắc nhằm thay đổi nhận thức của công chúng về vấn đề chọn nghề
“sạch sẽ” hay “lấm lem”…
Báo chí với vai trò là diễn đàn của nhân dân, nên thông qua các chuyên
mục, diễn đàn… trên báo đã phần nào phản ánh những tâm tư, nguyện vọng
của phụ huynh và học sinh THPT về vấn đề hướng nghiệp tạo nên bức tranh
thông tin đa chiều. Đồng thời, phát huy vai trò tính khách quan của báo chí,
thông tin mang tính chất hai chiều không áp đặt, mệnh lệnh.
Thông qua các thông tin về vấn đề hướng nghiệp trên báo chí, học sinh
THPT có thể lựa chọn được những thông tin phù hợp với nhu cầu của mình.