Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

tăng trưởng kinh tế gắn với giảm nghèo ở huyện thanh thủy, tỉnh phú thọ hiện nay Luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.39 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

UBND

: Ủy ban nhân dân

HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBMTTQ

: Ủy ban mặt trận tổ quốc

LĐNT

: Lao động nông thôn

TNHH MTV

: Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động

GN

: Giảm nghèo

CNH, HĐH



: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CLB

: Câu lạc bộ

LĐTB&XH

: Lao động Thương binh và Xã hội

KHKT

: Khoa học kỹ thuật


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giảm nghèo (GN) là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu
và hiện nay ở nước ta được coi là một trong những mục tiêu quan trọng trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm đổi mới
đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách cho từng giai
đoạn; đồng thời kêu gọi các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong xã
hội tập trung giải quyết nhiệm vụ giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội,
giảm khoảng cách giàu và nghèo trong các tầng lớp xã hội và giữa các vùng
khác nhau. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng
kinh tế đi đôi với giảm nghèo; với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt
khoảng 7 - 8%, vào loại cao trên thế giới, nhờ có sự phát triển đó đã góp phần
quan trọng vào nâng cao đời sống nhân dân và giảm dần tỷ lệ nghèo đói trong
xã hội. Theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đưa ra ngày
15/2/2008: “Việt Nam đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới”;
tính bằng số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày thì tỷ lệ nghèo đói
của Việt Nam đã giảm từ khoảng 68% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với
khoảng 34 triệu người đã thoát khỏi nghèo đói. Như vậy, tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững là yếu tố quan trọng, tạo ra sức mạnh vật chất để hỗ trợ và
tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi nghèo đói và ngược lại, giảm
nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
bền vững.
Tuy Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng trong suốt thời
gian qua, nhưng cơ bản vẫn là một nước nghèo, mức thu nhập bình quân đầu
người vào loại thấp so với các nước trên thế giới, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức
cao và tập trung ở vùng nông thôn thuộc những vùng núi, vùng sâu, vùng xa,


2

vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đây là những khu vực điều kiện kết cấu hạ
tầng cơ sở còn thấp, địa hình phức tạp, trình độ dân trí thấp, nhiều dịch vụ

chưa đến được với nhân dân…, dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ở những vùng này cao
và điều kiện để giảm nghèo ở những vùng này còn nhiều khó khăn.
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh miền núi, trung du trong đó huyện Thanh
Thủy là huyện miền núi với diện tích tự nhiên 12.382ha nằm phía Tây Nam
của tỉnh Phú Thọ. Ngay từ khi huyện Thanh Thủy được tái lập (năm 1999)
lãnh đạo huyện Thanh Thủy đã nhận thức và sớm tổ chức triển khai việc
nghiên cứu, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện.
Cùng với sự vào cuộc của các cấp các ngành trong thực hiện quy hoạch đã
đem lại cho Thanh Thủy những kết quả nhất định, tăng trưởng kinh tế của
huyện ngày một nâng cao, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, tỷ
lệ đói không còn, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Tuy nhiên do đặc điểm tự nhiên
ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội của huyện, là huyện tốc độ tăng trưởng
trung bình so với các đơn vị trong tỉnh nhưng vẫn có tỷ lệ nghèo cao so với cả
nước. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam và tỉnh Phú Thọ nói chung trên
đà phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, một câu hỏi lớn đặt ra đối với lãnh đạo
các cấp, các ngành và nhân dân huyện Thanh Thủy là đưa huyện Thanh Thủy
trở thành một huyện giàu, đẹp so với các địa phương trong tỉnh và cả nước.
Đó là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Tăng trưởng kinh tế gắn với
giảm nghèo ở huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm để tài luận
văn thạc sỹ kinh tế chuyên ngành kinh tế - chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển kinh tế đi đôi với giảm nghèo là một hiện trạng phổ biến trên
toàn thế giới, cũng như ở Việt Nam; cho nên vấn đề này đã được nhiều người
quan tâm nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau như:


3

- Đỗ Thế Tùng (2011): Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực
hiện chính sách xã hội trong phát triển bền vững - những giải pháp chủ yếu

đối với Việt Nam. (Tạp chí Cộng sản số 852, năm 2011). Bài viết đã phân tích
rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách xã hội trong
phát triển bền vững và các giải pháp chủ yếu để kết hợp tăng trưởng kinh tế
với thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam.
- Nguyễn Thị Hằng (1997): Vấn đề giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện
nay. Nxb Chính trị quốc gia. Cuốn sách đã trình bày quan niệm về đói nghèo,
tiêu chí đánh giá tình hình đói, nghèo; thực trạng nghèo đói ở Việt Nam và biện
pháp giảm nghèo ở nông thôn nước ta đến năm 2020.
- Đề tài "Những giải pháp về quản lý nhằm giảm nghèo ở nông thôn
Phú Thọ hiện nay” 2008 của tác giả Nguyễn Thị Hải, được nghiên cứu dưới
góc độ quản lý kinh tế để từ đó đưa ra những giải pháp về quản lí nhằm giải
quyết những vấn đề đói nghèo ở khu vực nông thôn của tỉnh.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết khác đề cập đến các khía cạnh lý luận và
thực tiễn liên quan đến vấn đề tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo như:
- Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua (GSTS. Nguyễn Văn Thường).
- Tăng trưởng kinh tế công bằng xã hội và vấn đề giảm nghèo ở Việt
Nam (GS-TS. Vũ Thị Ngọc Phùng).
- UBND tỉnh Phú Thọ (Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế -xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2020).
- Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 30 tháng 7 năm 1998 của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã
hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sau, vùng xa.
- Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành chuẩn hộ nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006-2010;
- Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 3 tháng 01 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành chuẩn hộ nghèo áp dụng trong giai đoạn 2011-2015;


4


- UBND huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ (Quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020).
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của vấn đề tăng trưởng kinh tế và GN. Đây là những tư liệu khoa
học, tài liệu quý trong quá trình viết luận của tác giả; ngoài những tư liệu
khoa học, tài liệu trên trong quá trình nghiên cứu viết luận văn tác giả còn
phải thu thập một số tư liệu khoa học, tài liệu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế đi đôi với nghèo
ở huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, nguyên nhân và các giải pháp gắn với các
chính sách của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ, vào cuộc của các cấp, các ngành, các
tổ chức, tập đoàn, doanh nghiệp… và sự vào cuộc của nhân dân nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế đi đôi với giảm nghèo bề vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế liên quan đến xoá
đói giảm nghèo của quốc tế và trong nước.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế và công tác xoá đói giảm
nghèo ở một số tỉnh và huyện ban, rút ra những bài học kinh nghiệm đối với
công tác giảm nghèo ở thuyện Thanh Thuỷ. Đánh giá thực trạng về tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo ở địa bàn huyên Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ (từ
năm 2010 đến nay).
- Tập trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế và vấn đề nghèo ở
huyện Thanh Thuỷ; những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và
nguyên nhân.
- Đề xuất một số quan điểm, phương pháp và giải pháp nhằm đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở huyên Thanh Thuỷ trong thời gian tới.


5


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế liên quan đến
công tác giảm nghèo.
- Đánh giá thực trạng về tăng trưởng kinh tế và công tác giảm nghèo ở
địa bàn huyên Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ (từ năm 2010 đến nay).
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo ở huyên Thanh Thuỷ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề Tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm
nghèo ở huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ dưới góc độ kinh tế chính trị và
tập trung nghiên cứu thực trạng tăng trưởng, nghèo và các biện pháp giảm
nghèo tại huyện Thanh Thuỷ giai đoạn từ 2010 đến nay, đề xuất giải pháp
đến 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về xoá đói
giảm nghèo của Đảng, Nhà nước để nghiên cứu.
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử và khoa học kinh tế chính trị Mác - Lênin, kết hợp các phương
pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, phân tích thống kê, so sánh,
tổng hợp, khái quát, hệ thống và nghiên cứu báo cáo tổng kết về phát triển
kinh tế và giảm nghèo của huyện Thanh Thuỷ và tỉnh Phú Thọ.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế và
giảm nghèo ở huyện Thanh Thuỷ tỉnh Phú Thọ hiện nay, cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách về phát triển kinh tế đi đôi
với giảm nghèo ở địa phương.



6

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và chỉ đạo thực tiễn công tác phát triển kinh tế đi đôi với giảm nghèo ở
những huyện có đặc thù như địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 11 tiết:
- Chương 1: Những vắn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế gắn với
giảm nghèo.
- Chương 2: Thực trạng về tăng trưởng kinh tế gắn với giảm nghèo ở
huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ hiện nay.
- Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
gắn với giảm nghèo ở huyện Thanh Thủy.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GẮN VỚI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố tác động đến
tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về
phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống
hoàn thiện hơn. Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có
hiệu quả những khái niệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng
kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, tăng

trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề kinh tế, song nó mang tính chính trị,
sâu sắc. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các
quốc gia trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mối gia đình
của mỗi quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính
cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng)
hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Trong phân tích kinh tế, để phán ánh
mức độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế
thường được dùng. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời
kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc thời kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế được xem dưới góc độ số lượng và chất lượng.
Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng
trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên


8

và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng
trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể
hiện dưới dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập
bình quân trên đầu người, các chi tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ
thống tài khoản quốc gia (SNA). Bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO), tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân
(NI), thu nhập đựơc quyền chi (GDI)…Trong đó chi tiêu GDP thường là chỉ
tiêu quan trọng nhất.
Như vậy bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh
này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của

chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. hơn thế nữa,
quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa
học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Có nhiều nhân tố khác nhau tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng để
dễ tiếp cận người ta phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động
khác nhau: nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế.
1.1.2.1. Nhân tố kinh tế
Thứ nhất, các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung.
Nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói
đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu.
Một là, vốn (K)
Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế. Đứng trên góc độ vĩ mô, vốn sản xuất có liên quan trực
tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không


9

phải dưới dạng tiền (giá trị), nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của
nền kinh tế và bao gồm: Vốn cố định (nhà máy, công xưởng, trụ sở cơ quan,
trang thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng)
và vốn lưu động (tồn kho của tất cả các loại hàng hóa).
Mặt khác, để duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất phải có một khoản
chi phí gọi là vốn đầu tư sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn
đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động.
Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của
quá trính sản xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đâu
ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản
xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn

là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, góp phần đáng kể vào
việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu
tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động
khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất.
Hai là, lao động (L)
Lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu được
trong các hoạt động kinh tế.
Trước đây chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào
giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động cả mỗi
quốc gia (tính bằng đầu người hay thời gian lao động). Tuy nhiên các mô hình
tăng trưởng hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao
động, gọi là vốn nhân lực. Đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động
có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến
và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế.
Việc nâng cao vốn nhân lực sẽ làm cho việc tổ chức lao động, việc ứng
dụng công nghệ có hiệu quả, làm cho năng suất lao động tăng và từ đó là tăng
hiệu quả sản xuất.


10

Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng
góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí
chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp.
Ba là, tài nguyên, đất đai (R)
Tài nguyên, đất đai là một yếu tố sản xuất cổ điển. Đất đai là yếu tố
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được
trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế. Các nguồn tài nguyên dồi dào
phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng đầu ra một cách nhanh
chóng, nhất là với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các mô hình tăng

trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố tài nguyên đất đai với tư cách
là một biến số của hàm tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng đất đai là yếu tố cố
định còn tài nguyên thì có xu hướng giảm dần trong quá trình khai thác,
chúng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K).
Bốn là, công nghệ kỹ thuật (T)
Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng:
Thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức
khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản
phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật.
Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm
vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất.
Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không là việc
đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không
ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một
lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình
sản xuất hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày
nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…có
những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất.


11

Thứ hai, các nhân tố tác động đến tổng cầu
Một là, chi cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định,
chi thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi cho
tiêu dùng cá nhân sẽ tác động đến tổng cầu AD và từ đó tác động đến sản
lượng của nền kinh tế. Chi cho tiêu dùng cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập
khả dụng (DI) và xu hướng tiêu dùng biên (MPC).
Hai là, chi tiêu của Chính phủ (G): Bao gồm các khoản mục chi mua
hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ. Trong một nền kinh tế, chi tiêu của chính

phủ vừa tạo ra hiệu ứng thu nhập vừa tạo ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, do
vậy, tuỳ vào nền kinh tế là đóng, mở cửa với tỷ giá cố định hay tỷ giá thả nổi
mà tác động của G vào sản lượng của nền kinh tế là khác nhau. Nguồn chi
tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách (chủ yếu là các
khoản thu từ thuế và lệ phí).
Ba là, chi cho đầu tư (I): Là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư
của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và
đầu tư vốn lưu động. Các khoản đầu tư này sẽ là tiêu dùng của các nhà đầu tư,
sau đó lại trở thành tư bản K và có tác động trực tiếp đến sản lượng của nền
kinh tế. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực
của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là đầu tư bù đắp giá trị hao
mòn được lấy từ quỹ khấu hao còn đầu tư thuần tuý được lấy từ các khoản tiết
kiệm của khu vực nhà nước, các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Bốn là, chi qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX=X-M): Thực tế, giá trị
hàng hoá xuất khẩu là các khoản phải chi cho các yếu tố nguồn lực trong
nước, còn giá trị nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong
nươc nhưng lại không phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố yếu tố
nguồn lực trong nước. Vì vậy, chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu
(NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế.


12

Như chúng ta đã biết, tăng trưởng có thể được đo bằng chỉ tiêu tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) và GDP=C+I+G+NX. Do đó, sự thay đổi của một
trong 4 nhân tố cũng đều có thể làm cho GDP thay đổi, sự thay đổi đó thể
hiện sự biến động trong tăng trưởng kinh tế.
Dưới tác động của thị trường các yếu tố của tổng cầu thường xuyên
biến đổi, nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ gây ra lãng phí rất lớn các yếu tố nguồn
lực của quốc gia đã có nhưng chưa được huy động và làm hạn chế mức tăng

trưởng thu nhập. Ngược lại, nếu mức tổng cầu quá cao sẽ làm cho mức thu
nhập của nền kinh tế tăng nhưng giá cả các yếu tố nguồn lực trở nên đắt đỏ,
đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên. Căn cứ vào tính chất tác động này mà
Chính phủ có các chính sách điều tiết tổng cầu sao cho bảo đảm thực hiện các
mục tiêu tăng trưởng tương ứng với yêu cầu ổn định giá.
1.1.2.2. Nhân tố phi kinh tế
Các nhân tố phi kinh tế có ảnh hưởng gián tiếp và không thể lượng hoá
được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế
không tác động một cách riêng rẽ mà mang tính chất tổng hợp, đan xen, tất cả
lồng vào nhau, tạo nên tính chất đồng thuận hay không đồng thuận trong quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà người ta
không thể phân biệt và đánh giá phạm vi, mức độ tác động của từng nhân tố
đến nền kinh tế. Có rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế, như: Thể chế chính trị - xã hội, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn
giáo trong xã hội, các đặc điểm tự nhiên khí hậu, địa vị của các thành viên
trong cộng đồng, và khả năng tham gia của họ vào quản lý phát triển đất
nước.Các nhân tố quan trọng nhất bao gồm:
- Đặc điểm văn hoá - xã hội:
Đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát triển của
đất nước. Nhân tố văn hoá xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ


13

thông đến các tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công
nghệ, văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong
tục tập quán…Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và
sự phát triển cao của mỗi quốc gia.
Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để
tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, của kỹ thuật của trình độ quản lý

kinh tế - xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản
của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển. Vì thế trình độ phát triển cao của
văn hoá là mục tiêu phấn đấu của sự phát triển. Mặc dù trên thực tế có sự
khác biệt phấn đấu của sự phát triển. trong mỗi khía cạnh của nội dung văn
hoá giữa các dân tộc, song điều đó không có trở ngại cho sự giao lưu kinh tế
giữa các quốc gia và thường tìm được sự hoà hợp.
Để tạo dựng quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững thì đầu tư cho
sự nghiệp phát triển văn hoá phải được coi là những đầu tư cần thiết và đi
trước một bước so với đầu tư sản xuất.
- Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội
Các nhân tố này tác động đến quá trình phát triển đất nước theo khía
cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư.
Thể chế được biểu hiện như một lực lượng đại diện cho ý chí của cộng
đồng nhằm điều chỉnh các mới quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi ích
của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thể hiện thông qua các dự kiến mục tiêu
phát triển, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế xã hội, hệ thống luật pháp,
các chế độ chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện.
Một thể chế chính trị - xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để
đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện
thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một
thể chế không phù hợp sẽ gây ra cản trở, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá


14

vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái,
khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra những xung đột chính trị, xã hội. Một thể
chế phù hợp với sự phát triển hiện đại mang trong mình những đặc trưng: Có
tính năng động, nhạy cảm và mềm dẻo, luôn thích nghi được với những biến
đổi phức tạp do tình hình trong nước và quốc tế xảy ra; Bảo đảm sự ổn định

của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra
trong quá trình phát triển; Tạo điều kiện cho nền kinh tế mở một sự hoạt động
có hiệu quả, nhằm tranh thủ vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới;
Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lý, có trình độ
khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế; Tạo được sự kích thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất
trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Tuy vậy cũng cần
lưu ý rằng, dù quan trọng đến đâu chăng nữa, yếu tố thể chế cũng chỉ tạo điều
kiện thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tức là tạo các điều kiện thuận lợi để
hướng các hoạt động theo mục tiêu có lợi và hạn chế các bất lợi. Sẽ là sai lầm
nếu dùng thể chế làm thay cho tất cả và tạo ra tất cả theo ý muốn.
- Cơ cấu dân tộc
Trong cộng đồng quốc gia, có các tộc người khác nhau cùng sống, các
tộc người có thể khác nhau về chủng tộc (sắc tộc, bộ tộc), khác nhau về khu
vực sinh sống (miền núi, đồng bằng, trung du) và với quy mô khác nhau so
với tổng dân số quốc gia (thiểu số, đa số..). Do có những điều kiện sống khác
nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất, về vị trí địa lý và địa
vị chính trị - xã hội trong cộng đồng.
Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi
cho dân tộc này, nhưng bất lợi cho những dân tộc kia. Đó chính là những
nguyên nhân nảy sinh xung đột giữa các dân tộc ảnh hưởng không nhỏ đến


15

quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng,
cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng lại bảo tồn được bản sắc riêng và các
truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục được xung đột và mất ổn
định chung của cộng đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình

tăng trưởng và phát triển.
- Cơ cấu tôn giáo.
Vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người đều có thể theo một
tôn giáo nào đó. Trong một quốc gia có nhiều tôn giáo. Các dân tộc ít người ít
tiếp xúc với thế giới hiện đại thường tôn thờ các thần linh tuỳ theo quan niệm.
Mỗi tôn giáo còn chia ra làm nhiều giáo phái. Ngoài ra còn có nhiều đạo giáo
riêng mà chỉ có một số dân tộc tôn thờ. Mỗi đạo giáo có những quan niệm,
triết lí tư tưởng riêng, bám sâu vào cuộc sống của dân tộc. Những ý thức tôn
giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự phát triển kinh tế xã hội. Những
định kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ của xã hội tuỳ
theo mức độ, song có thể là sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn của
Chính phủ.
- Sự tham gia của cộng đồng
Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Sự
phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân chủ của
cộng đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại, về phía mình sự tham gia của cộng
đồng là nhân tố bảo đảm tính chất bền vững và tính động lực nội tại cho phát
triển kinh tế, xã hội. Các nhóm cộng đồng dân cư tham gia trong việc xác
định các mục tiêu của chương trình, dự án phát triển quốc gia, nhất là mục
tiêu phát triển các địa phương của họ, tham gia trong quá trình tổ chức thực
hiện, kiểm tra giám sát các hoạt động phát triển tại cộng đồng và tự quản lý
các thành quả của quá trình phát triển. Đó chính là yếu tố cần thiết cho một xã
hội phát triển nhằm tạo dựng sự nhất trí cao, tính hiệu quả và sự thích ứng, ổn


16

định trong thực hiện mục tiêu phát triển, đồng thời khích lệ được tiềm năng
của mọi cá nhân và cả cộng đồng vào trong quá trình phát triển kinh tế, giảm
thiểu hiện tượng tham nhũng trong xã hội. Tuy vậy, để sự tham gia của cộng

đồng thực sự có hiệu quả và tránh những hệ quả không tích cực của yếu tố
này, cần thiết phải có cơ chế xác định mức độ tham gia của dân cư trong các
hoạt động phát triển như quy định những việc dân cần biết, dân cần được bàn,
được trực tiếp quyết định và được kiểm tra. Cơ chế tham gia trên phải gắn với
hình thức tổ chức sự tham gia cụ thể như: công đoàn các hiệp hội trên địa bàn
dân cư, hiệp hội ngành nghề trong các tổ chức kinh doanh, các hội đồng trong
đó có sự góp mặt của thành phần dân cư.
1.2. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo
1.2.1. Khái niệm về đói nghèo
1.2.1.1. Khái niệm đói nghèo theo quan điểm của thế giới
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về đói
nghèo, tuy nhiên tồn tại một số quan niệm phổ biến được nhiều quốc gia sử
dụng tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và định hướng, mục tiêu
giảm nghèo cụ thể.
Theo sự nghiên cứu của ILO những năm 70, khái niệm nghèo đã được
mở rộng từ quan niệm về thu nhập sang một khái niệm rộng hơn đó là nhu
cầu cơ bản, nghèo không chỉ là sự thiếu thốn về thu nhập mà còn là “thiếu sự
tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác”.
Vào những năm 1980, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến sự cần thiết
phải xem xét các yếu tố phi tiền tệ khi nghiên cứu về đói nghèo, nghèo được
hiểu là “sự tước đoạt về quyền con người để sống, để tồn tại”.
Robert Mc. Namara, chủ tịch Ngân hàng thế giới cho rằng: “Nghèo khổ
cùng cực là một điều kiện sống bị hạn chế bởi suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh
tật, ô nhiễm môi trường, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao và tuổi thọ thấp”.


17

Năm 1998, Amartya Sen, người được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1998
cho rằng: “Nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển

của cộng đồng”. Thực tế trong xã hội, những người giàu thường có cơ hội lựa
chọn nhiều hơn so với người nghèo.
Mặc dù không có một định nghĩa duy nhất về nghèo nhưng các quan
niệm về nghèo đói trên thế giới hầu như không có sự khác biệt đáng kể về bản
chất. Nhìn chung các quan niệm đều nhìn nhận nghèo là tình trạng thiếu thốn
ở nhiều phương diện khác nhau như: thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo ra thu
nhập, không có khả năng đảm bảo tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, ít hoặc hầu như không được tham gia vào các quá trình ra
quyết định của cộng đồng… Sự khác biệt trong việc xác định thế nào là nghèo
ở mỗi quốc gia thể hiện chủ yếu dựa trên mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó
cao hay thấp. Vì vậy việc phân định đối tượng nghèo chỉ mang tính chất
tương đối và phụ thuộc nhiều vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng
như phong tục tập quán và chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội
cũng như định hướng giảm nghèo của từng khu vực, từng quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển kinh tế - xã hội tại
Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một khái niệm cụ thể hơn về
nghèo: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đôla mỗi
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết
yếu để tồn tại”.
Tại hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) các quốc gia trong khu
vực đã thống nhất đưa ra định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và phong tục tập quán của địa phương”. Đây là định nghĩa được nhiều quốc
gia đang phát triển sử dụng, trong đó có Việt Nam.


18


Các khái niệm trên được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm nghèo khổ
về thu nhập. Bên cạnh đó Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP cũng
đưa ra một khái niệm nghèo khổ khác dựa trên quan niệm nghèo khổ của con
người (nghèo khổ tổng hợp) trong “Báo cáo về phát triển con người” năm
1997. Khác với quan niệm nghèo khổ về thu nhập, nghèo con người đề cập
đến sự phủ nhận các cơ hội và sự lựa chọn để đảm bảo một cuộc sống cơ bản
nhất. Theo đó, nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ
đa chiều của con người, hay sự thiệt thòi theo những khía cạnh khác ngoài thu
nhập như cơ hội được đào tạo, quyền tự ra quyết định, khả năng ảnh hưởng
đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Đối với các nước
đang phát triển sự thiệt thòi được biểu hiện thông qua ba khía cạnh cơ bản
nhất của cuộc sống con người:
- Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, được
xác định bởi tỷ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không tiếp
cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
1.2.1.2. Khái niệm nghèo đói của Việt Nam
Trong chiến lược về tăng trưởng và giảm nghèo, Việt Nam sử dụng
khái niệm nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc - Thái Lan (9/1993): “Nghèo là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản
của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
Trong điều kiện hiện nay, khi tình hình giá cả không ổn định người ta
đã sử dụng hình thức hiện vật phổ biến là gạo để xác định đói nghèo. Tác
dụng ccủa việc sử dụng này là loại bỏ được yếu tố gía cả để từ đó có thể so


19


sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không giam một cách dễ
dàng hơn.
Sau khi nghiên cứu, trong “ Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia
về giảm nghèo và chương trình 135”, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
đưa ra các khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn
một phần nhu càu cơ bản của con người có mức sống ngang bằng mức sống
tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hộ nghèo: Ở Việt Nam tồn tại nhiều cách xác định hộ nghèo tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội và chủ trương giảm nghèo của từng địa phương
trong mỗi thời kỳ khác nhau, do đó để phân loại hộ nghèo cần xem xét các
đặc trưng cơ bản như: thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng
khoán, nợ thuế triền miên, vay nặng lãi, trẻ em không có điều kiện đến trường
(mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê
cuốc mướn để kiếm sống hoặc đi ăn xin…
Xã nghèo: Là những xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên, cơ sở hạ
tầng (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt,
thuỷ lợi nhỏ và chợ) thấp kém hoặc không đủ phục vụ nhu cầu của người dân,
cụ thể là dưới 50% số hộ gia đình không được sử dụng điện sinh hoạt, dưới
30% số hộ gia đình không được sử dụng nước sạch, số phòng học không đáp
ứng được cho 70% số học sinh trở lên, không có đường giao thông đến trung
tâm xã, không có trung tâm y tế xã…
Vùng nghèo: Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ
là một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn,
bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng, như đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu



20

khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản
xuất tự cung tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng rất thấp so với mức
sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm.
Hiện nay khái niệm nghèo ở Việt Nam đã được mở rộng theo nhiều
khía cạnh và ngày càng tiếp cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới và
khu vực. Khái niệm nghèo không chỉ dựa trên mức thu nhập đảm bảo cho các
nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà đã quan tâm tới những nhu cầu khác của con
người như quyền được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, các dịch vụ cơ
bản khác, quyền được tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng…
1.2.2. Chuẩn nghèo đói và các tiêu chí đánh giá đói nghèo
1.2.2.1. Chuẩn nghèo đói
- Chuẩn đói nghèo của thế giới
+ Khái niệm chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo (hay ngưỡng nghèo, đường nghèo) là một mức thu nhập
tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản cho con người
để có thể tiếp tục tồn tại.
Chuẩn nghèo là công cụ có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định đối
tượng nghèo và không nghèo. Những người được coi là nghèo khi mức sống
của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn chuẩn nghèo.
Tại một thời điểm nhất định có thể tồn tại nhiều đường nghèo khác
nhau, ví dụ: đường nghèo thu nhập, đường nghèo lương thực thực phẩm,
đường nghèo chung, đường nghèo về y tế, đường nghèo về giáo dục, đường
nghèo quốc tế, đường nghèo quốc gia, đường nghèo địa phương…
+ Các phương pháp xác định chuẩn nghèo
Các quốc gia khác nhau sử dụng các phương pháp khác nhau để xác
định chuẩn nghèo. Một số quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên 1/2 thu
nhập bình quân, một số quốc gia khác lại dựa trên mức 1/3 thu nhập bình



21

quân. Ví dụ nước Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế kỷ trước,
cụ thể thu nhập 18.600 đôla/năm là ngưỡng nghèo đối với các gia đình có 4
người (gồm bố mẹ và hai con), thu nhập 9.573 đôla/năm là ngưỡng nghèo đối
với người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này thì năm 1993 nước
Mỹ có 15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm xuống còn 11,3%
nhưng tới năm 2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ tăng lên 12,5% (tức là
khoảng 35,9 triệu người dân Mỹ sống trong tình trạng nghèo đói).
Một số nước khác sử dụng chỉ tiêu Kcalo/người/ngày để xác định
chuẩn nghèo, tuy nhiên chỉ tiêu này có sự chênh lệch giữa các khu vực, các
quốc gia khác nhau, thậm chí ngay trong một quốc gia cũng sử dụng nhiều
tiêu chuẩn nghèo tùy theo địa phương hoặc theo các thời kỳ khác nhau. Ví dụ
Malaixia sử dụng tiêu chuẩn 9.910 Kcalo/ngày tính trên một gia đình có 2
người lớn và 3 trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng ngưỡng nghèo với
chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu người hàng ngày là 2.400 Kcalo với vùng
nông thôn và 2.100 Kcalo với vùng đô thị. Pakistan lấy đường nghèo là mức
tiêu thụ 2.350 Kcalo/người/ngày. Một số nước khác như Lào, Campuchia,
Trung Quốc, Indonexia, Việt Nam sử dụng ngưỡng nghèo là mức tiêu thụ
2.100 Kcalo/người/ngày theo cách tiếp cận của Ngân hàng thế giới.
Chuẩn nghèo là một thước đo quan trọng trong việc đánh giá đói nghèo
của mỗi vùng, mỗi quốc gia cũng như của toàn thế giới, việc xây dựng một
chuẩn nghèo hợp lý, phù hợp với điều kiện thời gian, không gian, tập quán chi
tiêu của từng địa phương sẽ giúp xác định đúng đối tượng nghèo, trên cơ sở
đó đánh giá chính xác hơn thực trạng nghèo đói tại địa phương.
- Chuẩn nghèo đói của Việt Nam
+ Theo phương pháp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Đây là phương pháp xác định chuẩn nghèo đói dựa trên thu nhập của
hộ gia đình, các hộ gia đình được xếp vào diện nghèo nếu mức thu nhập bình



22

quân đầu người của họ dưới mức chuẩn được xác định, mức này được qui
định khác nhau giữa khu vực thành thị, nông thôn và miền núi hải đảo do
những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội.
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo hiện nay sử dụng chuẩn
nghèo theo phương pháp này.
Giai đoạn 1997 - 2000 (Công văn số 1571/LĐTBX, ngày 20/05/1997)
- Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy ra
gạo dưới 13 kg/người/tháng (tương đương 45.000 đồng theo giá 1997) tính
cho mọi vùng.
- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân mỗi người trong quy ra gạo:
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng)
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng)
Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng)
Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH, ngày
01/11/2000), theo đó không tách riêng chuẩn đói và nghèo do trong giai đoạn
này đã căn bản xóa được nạn đói.
Hộ nghèo là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người trong hộ đạt
từ mức thu nhập sau trở xuống:
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 08/07/2005)
Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người

trong hộ đạt từ mức thu nhập sau trở xuống:


×