Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

BÀI TH BDTX 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.8 KB, 8 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH HÒA
TRƯỜNG THPT TÔN ĐỨC THẮNG

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN

Giáo viên: VŨ THỊ NON
Tổ: XÃ HỘI

Năm học 2017-2018

TRƯỜNG THPT TÔN ĐỨC THẮNG

BÀI THU HOẠCH


TỔ: XÃ HỘI
Họ và tên: VŨ THỊ NON

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
Năm học 2017-2018

Chức vụ: Giáo viên
BÀI LÀM
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN NĂM 2018
Câu 1. (5 điểm). Thầy (cô) hãy xác định những thuận lợi và khó khăn vủa GV và HS khi chuyển từ
mục tiêu dạy học cung cấp kiến thức sang phát triển năng lực người học?
Hiện nay, ngành giáo dục đang tích cực chỉ đạo thực hiện nội dung đổi mới giáo dục với phương
pháp chuyển từ tiếp cận nội dung (học sinh học được gì) sang tiếp cận năng lực của người học (học sinh
làm được gì thông qua việc học), lấy học sinh là trung tâm và giáo viên chỉ giữ vai trò để tổ chức các hoạt
động cho học sinh. Quá trình dạy học này cần coi trọng đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt động trải


nghiệm để hình thành và phát triển ở người học năng lực tư duy độc lập, vận dụng tổng hợp và linh hoạt
tri thức để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và cuộc sống. Hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh phải bảo đảm sự thống nhất, tương tác. Trong đó, giáo viên giữ vai trò chỉ
đạo, hướng dẫn, trọng tài; học sinh không chỉ là đối tượng của hoạt động dạy mà cũng chính là chủ thể
của hoạt động học.
Như vậy, việc chuyển từ mục tiêu dạy học cung cấp kiến thức sang phát triển năng lực người học
có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Đối với giáo viên:
+ Thuận lợi:
•Tác động tích cực đối với những thầy cô giáo luôn muốn cầu tiến, muốn tiếp cận và khát khao đổi mới
cách thức dạy học để thu hút, hấp dẫn học sinh. Thầy giáo sẽ được bồi dưỡng để thích nghi với những đổi
thay về chức năng , nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo
dục. Thầy giáo vừa phải tự bồi dưỡng kiến thức chuyên môn sâu rộng có kĩ năng sư phạm lành nghề ,
biết ứng xử tinh tế , biết sử dụng các công nghệ thông tin vào dạy học , biết định hướng phát triển năng
lực của học sinh theo mục tiêu giáo dục mới và đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận
thức.
•Giáo viên được nhà trường giúp đỡ áp dụng các biện pháp dạy học tích cực phù hợp với môn học, đặc
điểm học trò, hoàn cảnh dạy và học ở địa phương, làm cho phong trào đổi mới biện pháp dạy học càng
ngày càng rộng rãi , luôn luôn và có công hiệu hơn.
• Trong mỗi tiết học theo hướng phát triển năng lực học sinh, việc dạy của giáo viên sẽ không nhàm chán
vì học sinh hoạt động nhiều hơn, thực hiện nhiều hơn ,bàn luận nhiều hơn so với lối dạy học truyền thống
chỉ chú tâm truyền thụ kiến thức cho học sinh.


Tuy nhiên bên cành những thuận lợi đó việc đổi mới phương pháp dạy học teo hướng phát triển
năng lực học sinh vẫn có những khó khăn sau đây:
+ Khó khăn:
• Khó khăn hơn cả là về cách tiếp cận vấn đề. Hiện nay ở nhiều trường thuộc nhiều cấp học, đội ngũ thầy,
cô giáo lớn tuổi chiếm tỷ lệ tương đối cao. Ở họ, ý thức đổi mới chưa nhiều bởi vì xưa nay cách dạy
truyền thống theo hướng truyền thụ kiến thức vẫn mang lại hiệu quả tích cực, học sinh vẫn hứng thú và

làm bài đạt điểm cao. Việc nhận thức như vậy không chỉ ảnh hưởng đến các thầy, cô mà còn gián tiếp gây
ra tác động đối với các thầy, cô khác mà còn đối với cả học sinh.
• Ở nhiều thầy, cô giáo bậc phổ thông do ảnh hưởng cách đào tạo trước đây ở các trường đại học đó là
phương pháp lấy người thầy làm trung tâm, học sinh là người nhận kiến thức thụ động, áp đặt. Vì thế, để
nhanh chóng thay đổi họ theo chiều hướng mới cần có thời gian nhất định.
• Công tác đổi mới phương pháp ở nhiều trường học còn thiếu sự giám sát, nhắc nhở từ các cấp lãnh đạo.
Bởi vậy nên nhiều giáo viên chỉ thực hiện đổi mới theo hình thức, mang tính chất đối phó. Ðiều này chỉ
được khắc phục khi có giáo viên dự giờ, thao giảng hoặc tham gia các hội thi.
• Ngoài ra, nhiều cán bộ quản lý, giáo viên còn mơ hồ, lúng túng, không hiểu những phương pháp dạy học
hiện đại, phát triển năng lực học sinh. Thêm vào đó, ở nhiều trường, nhất là các trường ở vùng sâu, vùng
xa thì cơ sở vật chất để đáp ứng cho việc đổi mới phương pháp dạy học cũng là một vấn đề đáng quan
tâm. Tuy việc đổi mới phương pháp là do con người, nhưng cũng cần có thêm những điều kiện để hỗ trợ
thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực sẽ diễn ra suôn sẻ hơn.
• Thêm nữa, về chương trình học ở các cấp tuy có giảm tải, nhưng vẫn còn "khá nặng" đối với nhiều giáo
viên và học sinh. Bên cạnh đó, trong nhiều môn học, việc phải "lồng ghép" quá nhiều nội dung như môi
trường, sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, giáo dục pháp luật... trở thành gánh nặng và tác động
không nhỏ đến việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học.
• Thầy cô giáo thiếu kiên trì với cái mới. Dạy học theo phương pháp truyền thống có phần nhẹ nhàng, đơn
giản, giáo viên ít cần động não, chỉ yếu giảng bài và đọc- chép. Còn thực hiện theo phương pháp dạy học
mới, như bài học minh họa, theo chủ đề, tích hợp, liên môn…được triển khai đại trà năm nay, thì bắt
buộc, yêu cầu người giáo viên phải tốn nhiều thời gian, phải vất vả, tìm tòi, sáng tạo rất nhiều trong khâu
thiết kế, soạn bài, chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sự phạm, chuyên môn để dẫn dắt, gợi
mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy... Thực tế cho thấy, việc vận dụng cho được, cho tốt phương pháp
dạy học mới này chẳng dễ dàng gì, lắm lúc thất bại nhiều hơn thành công. Nó đòi hỏi tính kiên trì, quyết
tâm rất lớn ở giáo viên.
• Thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị…thành một cản trở lớn. Tất nhiên, muốn việc đổi mới
phương pháp dạy học đạt mục tiêu đề ra, không chỉ có đổi mới nội dung, chương trình, đội ngũ thầy cô


giáo mà còn phải đầy đủ, đảm bảo, đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị. Điều đó, nhiều trường, nhiều

địa phương vẫn chưa làm được.
- Đối với học sinh:
+ Thuận lợi: Hoạt động dạy học theo mô hình trường học mới cũng tạo môi trường sư phạm thân thiện,
dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong lớp học, nhà trường và cộng đồng nhằm phát triển các phẩm
chất, năng lực người học. Học sinh được phát huy vai trò chủ thể của quá trình học tập, biết cách học; chủ
động, tự tin trong tương tác, giao tiếp với giáo viên và bạn bè; biết tương trợ nhau trong học tập để cùng
tiến bộ. Đáng chú ý, khi đổi mới theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, trong dạy học của mô hình
trường học mới còn giúp nhận thức của nhiều cha mẹ học sinh về vai trò và trách nhiệm của mình trong
việc giáo dục con cái được thay đổi.
+ Khó khăn: .Dưới sự chỉ đạo của thầy giáo , học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực
thích nghi với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục tiêu học tập , tự giác trong học tập , cố ý
thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và của lớp , biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi , mọi lúc,
bằng mọi cách , phát triển các loại hình tư duy biện chứng , lôgíc , hình tượng , tư duy kĩ thuật , tư duy
kinh tế…Tranh luận trong học tập cũng là một yêu cầu, một phương pháp của học tập tích cực, quá trình
tranh luận hình thành nên lập trường riêng của người học. Tranh luận tạo ra cơ hội cho người học tham
gia vào các hoạt động trên lớp và cho phép họ thu được kinh nghiệm trong việc trình bày ý kiến cá nhân,
đây là kỹ năng mềm rất quan trọng mà người học cần phải tích lũy cho quá trình lập nghiệp sau này.
Những đòi hỏi này khiến các em học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình học, nhất là những học sinh
yếu, kém.
Dẫu biết rằng, đổi mới phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để đổi mới giáo
dục, nhưng để làm được điều này cần có thời gian và quan trọng là sự nỗ lực, ý chí từ các cấp quản lý
giáo dục, đội ngũ giáo viên đến đối tượng học sinh.
Câu 2.(5 điểm). Bồi dưỡng và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT đang được cả xã hội quan
tâm. Trong các hoạt động dạy học và giáo dục tại đơn vị thầy (cô) vận dụng như thế nào?
* Một số vấn đề chung về giáo dục kĩ năng sống qua các hoạt động giáo dục (mục đích, yêu cầu...).
- "Kỹ năng sống" là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những
người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Có thể nói kỹ
năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực,
lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng
ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn



yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bị vấp váp, dễ
bị thất bại trong cuộc sống.
Vậy, làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho học sinh?
-Mục đích: Thông qua những hoạt động trên, rèn luyện cho các em học sinh tính đoàn kết tập thể, khả
năng làm việc theo nhóm. Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm cho các em. Chính
nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học, giáo dục ngoài giờ lên lớp của
nhà trường đã tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. học sinh nỗ lực
tiếp thu bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến bài học để liên hệ áp dụng vào thực tiễn, qua
đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy rất vui và biết thêm nhiều
kiến thức. Nhờ đó em biết tự chăm sóc bản thân như là tự sắp xếp góc học tập thật ngăn nắp, tự giặt quần
áo cho mình. Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà .Đây được xem là bước tiến quan trọng trong
việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem học sinh là trung tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc
hoàn thiện nhân cách học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
* Các nội dung kĩ năng sống có thể tích hợp lồng ghép trong các bài học, hoạt động văn nghệ, các
hoạt động thể dục thể thao, các sinh hoạt tập thể, các hình thức ngoại khóa dã ngoại...:
-Nội dung: Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường,ngoài việc lồng ghép vào các môn
học hàng ngày, đặc biệt là môn giáo dục công dân, chúng tôi hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong
những con đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì thế ngoài
việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường, bằng nhiều hình thức khác
nhau nhà trường thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với các cuộc thi như lồng ghép
trong các hoạt động văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao, các sinh hoạt tập thể, trò chơi dân gian, các
hình thức ngoại khóa dã ngoại,...Ngoài ra việc tổ chức sân chơi như: Hội khỏe Phù Đổng, Học sinh kể
chuyện tấm gương đạo đức, cho các em đi thăm quan các di tích lịch sử ở địa phương, thăm quan thắng
cảnh; tham gia các hoạt động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường, dọn vệ sinh khu tượng đài liệt sĩ, tổ chức các
hoạt động quyên góp ủng hộ bạn nghèo, bạn bị bệnh tật hiểm nghèo...là những nội dung rất thiết thực để
giáo dục KNS cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các quá trình hoạt động giáo dục khác trong nhà trường
đều có cấu trúc xác định. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tập trung vào các kỹ năng tâm lý xã hội là những kỹ năng được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác với người khác

và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Những nội dung này hết sức
đơn giản, gần gũi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập... Và mục đích quan
trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống". Vì vậy khi tổ chức các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cấn:


- Bám sát vào nội dung của giáo dục kỹ năng sống và vận dụng linh hoạt các nội dung của giáo dục kỹ
năng sống tuỳ theo từng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và điều kiện cụ thể.
- Xác định rõ các nội dung giáo dục kỹ năng sống (xác định rõ các kỹ năng sống cần hình thành và phát
triển cho học sinh) để tích hợp vào nội dung của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Tạo ra động lực cho học sinh, làm cho học sinh tham gia một cách tích cực vào quá trình hình thành kỹ
năng sống nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tự nhận thức về bản
thân, kỹ năng ứng phó với cảm xúc...
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp hình thành
nhân cách HS, giúp các em tự tin, chủ động cũng như khả năng phản ứng, xử lý các tình huống trong cuộc
sống một cách linh hoạt và nhạy bén.
Vậy, làm thế nào để chúng ta rèn KNS cho HS? Chúng tôi nghĩ có nhiều phương pháp, nhiều cách
thức để thực hiện việc này tại đơn vị của mình:
- Giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học:
Tên bài dạy
GDCD LỚP 10

Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục
­ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về giới

Bài 2.Thế giới vật chất tồn tại khách quan

tự nhiên tồn tại khách quan, con người và xã
hội loài người là sản phẩm của giới tự
nhiên.

­

Kĩ năng tình bày suy nghĩ/ ý tưởng về vấn
đề con người có thể nhận thức, cải tạo được
GTN và đời sống xã hội.

­

Kĩ năng giải quyết vấn đề về tình huống cải
tạo tự nhiên cần tôn trọng quy luật khách
quan.

­

Kĩ năng tư duy phê phán những quan niệm
duy tâm, thần bí về nguồn gốc của con

GDCD LỚP 11

­

Công dân với sự phát triển kinh tế

người
Kĩ năng phân tích vai trò của sản xuất của
cải vật chất đối với đời sống xã hội

­

Kĩ năng hợp tác khi thảo luận về ý nghĩa

của sự phát triển kinh tế đối với cá nhân, gia
đình và xã hội.

­

Kĩ năng phản hồi/ lắng nghe tích cự khi


GDCD12

­

Pháp luật và đời sống

thảo luận.
Kĩ năng hợp tác để tìm hiểu mối quan hệ
giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo
đức.

­

Kĩ năng phân tích vai trò của pl đối với nhà
nước, xã hội và công dân.

­

Kĩ năng tư duy phê phán đánh giá hành vi
sử xự của bản thân và người khác theo các
chuẩn mực pl


-Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong
sinh hoạt tập thể của HS. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn,
kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt động này góp phần hình thành cho các em
kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế
toàn cầu hóa
-Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của HS, đồng thời là quyền lợi
của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với HS ở trường THPT. Hoạt động
này làm thỏa mãn về tinh thần cho HS sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm
chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái… Nói về hoạt
động này thì hầu hết các trường có tổ chức thực hiện nhưng xét về tính hiệu quả thì không phải nhà
trường nào cũng đạt được. Sở dĩ như thế là do điều kiện về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn
của tổng phụ trách chưa thể đáp ứng được. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhận thức được tầm quan
trọng của hoạt động này để hướng hoạt động đạt mục tiêu đã đề ra
-Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội để giúp các em nâng cao hiểu biết về con
người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông
qua hoạt động này, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Trong thực tế,
hoạt động này đã được các nhà trường tiến hành tương đối tốt. Nhưng, theo chúng tôi, hoạt động này phải
được khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em.
-Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công
ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho HS hiểu
thêm về giá trị lao động, từ đó giúp HS có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp HS vận
dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho
đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ HS


rất ít được tham gia các hoạt động này. Có chăng chỉ là ép buộc và hình thức. Nhưng đây là hoạt động thật
sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc
nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.
-Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn.

Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh hoạt CLB khoa học, tìm hiểu
các danh nhân, các nhà bác học… Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc
nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là hoạt động mà các nhà trường ít chú trọng
tới - ít chú trọng không phải là do không hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện không cho
phép. Đó là điều kiện về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên và Đoàn thanh niên…
Tóm lại, hoaatj động dạy học và HĐNGLL có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành KNS cho
HS. Do đó, các nhà quản lý giáo dục cần tạo mọi điều kiện thật tốt cho giáo viên để sao cho việc rèn luyện
KNS cho HS đạt kết quả.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×