Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và phương hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.42 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển lớn
mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, một loạt vấn
đề bức thiết đang đặt ra đối với sự phát triển của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có
sự quan tâm nghiên cứu, từ đó đề xuất những giải pháp sát thực để nâng cao chất
lượng đội ngũ công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về tổ chức, giỏi
về chuyên môn, vững vàng về bản lĩnh chính trị, đủ sức làm chủ quá trình đổi mới,
chủ động và tích cực hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa là trách nhiệm của toàn
Đảng và cả hệ thống chính trị.
Trước thực tế như vậy chúng ta cùng tìm hiểu về Giai cấp công nhân ở Việt
Nam hiện nay: thực trạng và phương hướng phát triển
NỘI DUNG
I, Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1, Khái niệm giai cấp công nhân và đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân C.Mác và Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,… Về cơ bản, những thuật ngữ này trước
hết biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của
nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.Trong phạm vi phương thức tư bản
chủ nghĩa, giai cấp công nhân mang hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân, đó là những người
lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp
ngày càng hiện đại và có tính xã hội hóa.
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao
1



động cho nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Thuộc tính này nói lên một trong những
đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên giai cấp
công nhân còn được gọi là giai cấp vô sản.
Như vậy, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất
và tái tạo các quan hệ sản xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
2, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a, Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã
hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể
thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng
con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức
người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng
lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
b, Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
 Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, lực lượng sản xuất luôn luôn vận
động và phát triển, trong lực lượng sản xuất ở bất cứ xã hội nào, người lao động cũng
là yếu tố quan trọng nhất. Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công
nhân, là người lao động.
2



Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp
nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Với nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa giai cấp công nhân hiện đại chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm,
và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản. Trong chế độ
tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hoàn loàn không có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất, là người lao động làm thuê, "vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh mình,
mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ khác nhau". Giai cấp công nhân lao động
trong nền sản xuất đại công nghiệp, có quy mô sản xuất ngày càng lớn, sự phụ thuộc
lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng nhiều.
Giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số
quần chúng nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đoàn
kết với các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai câp tư
sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
 Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
- Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
- Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
- Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
- Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
c, Hai nhân tố chủ quan đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình
Thứ nhất : là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả của quá trình phát
triển tự thân, tự giác, chủ động. Với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự
phát triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy mô, tốc
độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở sự phát triển về
lượng và phát triển về chất. Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự
tăng trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền kinh tế. Sự
phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ công nghệ
hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc.

3


Thứ hai: là có Đảng cộng sản, nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời
của Đảng đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định
việc giai cấp công nhân có tổ chức được chính đảng trưởng thành về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác và đủ năng lực để thực hiện
sứ mệnh lịch sử. Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Tính
chất tiền phong thực tiễn và lý luận, tính tổ chức khoa học và chặt chẽ xác định Đảng
là người lãnh đạo, là hạt nhân, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Không có lý
luận thì phong trào công nhân không đi được xa. Đảng cộng sản là bộ tham mưu của
giai cấp công nhân. Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản
định ra cương lĩnh , đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng cũng là người
tổ chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong trào công
nhân. Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân và
của dân tộc.
II, Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và phương hướng phát
triển
1, Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
a, Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
 Về số lượng, cơ cấu
Trong thời gian qua, số lượng công nhân Việt Nam có xu hướng tăng nhanh theo
quy mô nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, đội ngũ
công nhân nước ta có khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số lượng công nhân
trong các doanh nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là
11,3 triệu người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao động xã hội. Trong đó,
1,84 triệu công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước, 1,21 triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu trong các cơ

sở kinh tế cá thể. So với năm 1995, tổng số công nhân tăng 2,14 lần, trong đó doanh
nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, doanh
4


nghiệp FDI tăng 12,3 lần, các cơ sở kinh tế cá thể tăng 1,63 lần. Hiện nay, cả nước có
hơn 12,3 triệu công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất,
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế.
Công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp xếp lại
cơ cấu. Năm 1986, có 14 nghìn doanh nghiệp với 3 triệu công nhân; năm 1995 tương
ứng là 7.090 và 1,77 triệu; năm 2005 là 3.935 và 1,84 triệu; năm 2009 là 3.369 và
1,74 triệu. Mặc dù đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có xu hướng
giảm, nhưng đây là lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân nước ta.
Công nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có
vốn FDI tăng mạnh do số lượng các doanh nghiệp này tăng nhanh. Năm 1991, khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước mới có khoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995
đã tăng lên 17.143 doanh nghiệp với hơn 430 nghìn công nhân. Năm 2009, con số này
lên tới 238.932 với 5.266,5 nghìn công nhân, trong đó kinh tế tập thể 261,4 nghìn,
kinh tế tư nhân 571,6 nghìn; các loại khác 4.433,5 nghìn.
Trong khu vực có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có 1.919,6 nghìn người đang làm
việc trong 6.546 doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2011, cả nước có 283 khu công
nghiệp, khu chế xuất được thành lập tại 58 tỉnh, thành phố, thu hút khoảng 1,6 triệu
lao động.
Ngoài ra, lực lượng lao động ở nước ngoài cũng là bộ phận quan trọng tạo nên sự
lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 6 năm 2008, tổng số lao động và chuyên gia
Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài trên 500 nghìn người.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%,
ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ
sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương

mại chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp.
 Về chất lượng, trình độ

5


Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm công nhân từ 18
đến 30 tuổi chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài công
nhân dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%.
Hầu hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động, thích ứng
nhanh với công nghệ hiện đại.
Tuổi nghề của công nhân: dưới 1 năm chiếm 6,9%, từ 1-5 năm: 30,6%, từ 6-10
năm: 16,4%, từ 11-15 năm: 10,5%, 16-20 năm: 16,8%, 21-25 năm: 13,3%, trên 25
năm: 5,5%.
Trình độ học vấn của công nhân trong tất cả các khu vực kinh tế có xu hướng
được nâng lên: năm 1985, tỷ lệ công nhân có học vấn trung học phổ thông là 42,5%
thì năm 2003 tăng lên 62,2%, năm 2005 tăng lên 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu
công nghiệp hóa – hiện đại hóa và so với trình độ công nhân ở các nước trong khu
vực và thế giới thì trình độ học vấn của công nhân nước ta còn thấp. Mặt khác, lực
lượng công nhân có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở
một số thành phố lớn, ngành kinh tế mũi nhọn.
Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao, nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Năm 1996, số công nhân chưa qua đào tạo nghề là
45,7%, năm 2005 là 25,1%. Trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân các loại
hình doanh nghiệp năm 2005 như sau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm
16,1%, lao động có trình độ trung cấp chiếm14,6%, công nhân kỹ thuật chiếm 28,1%,
lao động không được đào tạo chiếm 41,2%. Năm 2010, số lao động có trình độ đại
học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy nghề 3,8 %. Tình
trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết

bị công nghệ cao nhưng lại thiếu công nhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công
nhân đang làm những công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ tới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo
nghề.
 Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thái độ, tác phong lao động
Giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ khu vực nông thôn nên trình độ
học vấn, trình độ tay nghề còn chưa cao kéo theo đó là ý thức tổ chức kỷ luật còn
6


nhiều hạn chế. Tuy nhiên ở các khu công nghiệp lớn, công nhân được đào tạo qua
nhiều lớp học nhằm nâng cao về tổ chức, kỷ luật trong khi làm việc. Về thái độ, tác
phong cũng còn nhiều hạn chế tuy nhiên về cơ bản thì công nhân làm việc trong các
công xưởng, nhà máy có thái độ làm việc tích cực, nhanh nhẹn, tác phong công
nghiệp ngày càng được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận một phần
công nhân hiện nay có tình trạng bảo thủ lạc hậu, dễ bị lực lượng phản động kích
động, lôi kéo; một phần khác còn hay bỏ việc, trốn việc,…
 Về trình độ nhận thức chính trị
Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong công việc, nhanh chóng tiếp thu
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá
trị của bản thân thông qua lao động. Vị thế giữa công nhân lao động trong doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước không còn cách biệt nhiều. Tâm lý
lấy lợi ích làm động lực là nét mới đang dần trở thành phổ biến trong công nhân. Sự
quan tâm hàng đầu của công nhân là việc làm, thu nhập tương xứng với lao động.
Mong muốn có được sức khoẻ, đất nước ổn định và phát triển, dân chủ, công bằng xã
hội được thực hiện, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi, có đủ việc làm.
Mong muốn được học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, được bảo đảm các
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
 Về chất lượng cuộc sống, việc làm của công nhân lao động
Thu nhập của người lao động. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản

không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói đến việc
tích lũy hay chăm lo cho con cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng
lương tối thiểu, thậm chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao
động làm ở các loại hình doanh nghiệp (Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên,
mức tăng thường không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm
2010, tiền lương của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so
với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng lương không có
tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là công nhân ở các
khu công nghiệp. Trong khi đó, phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức
lương tối thiểu để trả lương cho người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc xây
7


dựng thang, bảng lương. Ngoài ra, các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần lương của
người lao động chi cho các khoản phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
Nhà ở của người lao động. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh,
thành phố lớn, các khu công nghiệp không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người
lao động trong các khu công nghiệp khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có 20% số
người có chỗ ở ổn định.
Đời sống văn hóa của công nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã từng
bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động. Tuy nhiên, ở hầu hết các
khu công nghiệp chưa tạo ra những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa cho công
nhân. Theo kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có đến 71,8% công nhân
không có điều kiện để đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7%
không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ,
91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí,
văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng tivi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng
Internet.
Điều kiện làm việc. Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân chưa được bảo
đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như nóng, bụi,

tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu đến sức khoẻ
người lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
c, Nguyên nhân
1) Mặc dù Ðảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa
đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới;
2) Đời sống của một bộ phận công nhân còn gặp nhiều khó khăn;
3) Công tác giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho giai cấp
công nhân chưa được chú trọng đúng mức;
4) Công tác phát triển Đảng cho đội ngũ công nhân trong hệ thống các doanh
nghiệp trong cả nước, nhất là khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp
nhiều khó khăn, bất cập;

8


5) Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân chưa
được quan tâm và đầu tư thỏa đáng, dẫn đến còn tình trạng nhìn nhận chưa đúng mức
về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế;
6) Việc tổ chức và tham gia hoạt động của các tổ chức công đoàn, các tổ chức
đoàn thể và chính trị - xã hội trong các hoạt động của đội ngũ công nhân còn mang
nặng tính hình thức, hiệu quả chưa cao
2. Một số phương hướng cơ bản góp phần phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay
Một là, tổ chức triển khai học tập, quán triệt sâu sắc, có hiệu quả Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng. Xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, hướng dẫn các cấp công đoàn tổ
chức triển khai học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đến đội ngũ cán
bộ công đoàn và người lao động theo hướng thiết thực, hiệu quả; trên cơ sở nắm
vững quan điểm, nội dung của Nghị quyết gắn với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
công đoàn, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn, đề ra các nhiệm vụ trọng tâm

để triển khai thực hiện.
Hai là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao bản lĩnh chính
trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, kiến thức pháp luật cho người lao
động, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Tham mưu cho cấp ủy đảng quan tâm giáo dục, đào tạo, phát triển công nhân cả
về số lượng và chất lượng; nâng cao nhận thức chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần
dân tộc để người lao động có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, luôn
phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Tiếp tục đẩy mạnh có hiệu quả, thiết thực việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh gắn với triển khai Chương trình hành động của Tổng Liên
đoàn thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW trong đoàn viên và người lao động, chú
trọng nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân và tổ chức công
đoàn Việt Nam, chống âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

9


Phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước xây dựng, thực hiện chiến
lược xây dựng giai cấp công nhân, chuẩn hóa hệ thống đào tạo nghề.
Ba là, chăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động.
Chủ động nghiên cứu, đề xuất, tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chính
sách, pháp luật liên quan tới người lao động và tổ chức công đoàn; tham gia với các
cơ quan chức năng giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc trong công nhân
lao động, như việc làm, tiền lương, thu nhập; điều kiện làm việc; chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế; nhà ở, nhà lưu trú, nhà trẻ, mẫu giáo, các thiết chế văn hóa.
Kiến nghị Chính phủ sửa quy định lương tối thiểu cho phù hợp với thực tế cuộc
sống, tránh tình trạng để các doanh nghiệp lợi dụng lương tối thiểu quá thấp so với
thực tế, bóc lột quá mức người lao động.
Hướng các hoạt động về cơ sở, phối hợp chặt chẽ với người sử dụng lao động

tổ chức thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; khuyến khích các tổ chức Công
Đoàn Cộng Sản (CĐCS) thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể với
nhiều điều khoản có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật; xây
dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Đẩy mạnh hoạt động vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm; nhân rộng
mô hình Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP); nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề của các trường dạy nghề, các tổ chức tư vấn, giới
thiệu việc làm của công đoàn; phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức các hình
thức tư vấn, giới thiệu việc làm đa dạng, phong phú, góp phần giải quyết việc làm
cho công nhân, lao động. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tương thân, tương ái
trong tổ chức công đoàn.
Tham gia thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động; chủ động chăm lo cải thiện
điều kiện làm việc, ngăn ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho công nhân,
lao động và tham gia bảo vệ môi trường; tích cực tham gia Chương trình quốc gia
về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tăng cường kiểm tra, giám
sát việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, kiến nghị xử lý nghiêm, kịp
10


thời những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật gây tổn hại quyền lợi của
người lao động.
Bốn là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Vận động cán bộ, công chức thực hiện cải cách hành chính, đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng người cán bộ, công chức "trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương
mẫu", góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Đổi mới nội dung, phương pháp tổ chức, nâng cao hiệu quả các phong trào thi
đua; chủ động phối hợp chỉ đạo, tổ chức tốt phong trào thi đua liên kết trên các lĩnh
vực và các công trình trọng điểm; xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến và gương

"người tốt, việc tốt" trong người lao động.
Năm là, đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, góp phần
xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng
Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát
huy; ngăn ngừa vi phạm, khắc phục kịp thời thiếu sót, khuyết điểm. Làm tốt trách
nhiệm của công đoàn trong việc bồi dưỡng, giới thiệu công nhân ưu tú, nhất là công
nhân trực tiếp sản xuất cho Đảng, góp phần phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức
đảng trong các loại hình doanh nghiệp.
Tăng cường đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong hệ thống
công đoàn, mở rộng hợp tác với các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học trong và
ngoài nước nhằm nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn về giai cấp công nhân và hoạt động công đoàn. Tăng cường hoạt động đối
ngoại của tổ chức công đoàn
KẾT LUẬN
Như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam tuy đã ngày một phát triển, ngày một
trưởng thành hơn trước về mọi mặt nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Để
giai cấp công nhân ngày một hoàn thiện và phát triển hơn nữa, không chỉ cần có sự
11


lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà còn là sự quan tâm của các tổ chức cơ sở, của
Công Đoàn và chính bản thân giai cấp công nhân.

12



×