Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư ngành than tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.9 KB, 107 trang )

Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh
được nâng cấp thành chi nhánh cấp I tháng 11/2006. Đây là bước ngoặt quan trọng
của Chi nhánh trong quá trình phát triển theo lộ trình tái cơ cấu, hội nhập và chiến
lược phát triển kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày một đa dạng, phong phú của thị trường.
Là một chi nhánh mới, lực lượng cán bộ làm công tác thẩm định trẻ, thiếu
kinh nghiệm thực tế, chưa đông đảo do đó còn thiếu kỹ năng thẩm định dự án. Hiện
nay, hoạt động tín dụng là hoạt động đóng góp nhiều nhất trong kết quả kinh doanh
của Chi nhánh. Do vậy, công tác thẩm định dự án có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động tín dụng, bảo đảm an toàn trong hoạt động, lựa chọn được
các dự án có hiệu quả để tài trợ vốn, góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận.
Trong cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh, tỷ trọng dư nợ trung dài hạn, đặc biệt là
dư nợ cho vay các dự án ngành than luôn mức cao, dư nợ cho vay ngành than luôn
chiếm trên 30% tổng dư nợ của Chi nhánh. Quảng Ninh là nơi tập trung khoảng
67% trữ lượng than toàn quốc, chủ yếu là antraxít, sản lượng than mỡ rất thấp khoảng 200 ngàn tấn/năm hiện có 7 mỏ than hầm lò sản xuất với công suất trên
dưới 2 triệu tấn than nguyên khai/năm; chiếm hơn 45% tổng sản lượng khai thác
than của Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam. Than là ngành kinh tế quan
trọng, cung cấp năng lượng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Do vậy, việc cho vay các dự án đầu tư ngành than một mặt đem lại hiệu quả kinh
doanh cho Chi nhánh, mặt khác góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngành
than cải tiến công nghệ, khai thác cung cấp nguồn năng lượng phục vụ quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, thực tế việc thẩm định dự án đầu tư ngành than tại Chi nhánh còn
nhiều hạn chế, do Chi nhánh mới được nâng cấp, chức năng thẩm định đầy đủ chỉ
mới được thực hiện từ tháng 11/2006. Do vậy, bên cạnh các kết quả đạt được, việc


thẩm định các dự án ngành than tại Chi nhánh còn tồn tại các hạn chế và nội dung,
phương pháp, công cụ và việc tổ chức thẩm định.
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Để hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư ngành than tại Chi nhánh
nhằm phục vụ yêu cầu kinh doanh và quản trị rủi ro, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư ngành
than tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Nam Quảng
Ninh”

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về thẩm định dự án đầu tư, đưa ra các tiêu chí đánh
giá chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại BIDV chi
nhánh Tây Nam Quảng Ninh.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại
BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh.
- Phạm vi: Nghiên cứu thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh từ năm 2006 đến năm
2009.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là tổng
hợp các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh.

5. Nội dung và kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư ngành than tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh.

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư
ngàng than tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Nam Quảng
Ninh.


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM
ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

I.Thẩm định dự án tại các Ngân hàng thương mại
I.1 Khái niệm
Dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn thảo trong bước
nghiên cứu khả thi. Mặc dù, dự án đã đề cập các khía cạnh liên quan đến hoạt động
đầu tư một cách khá đầy đủ và chi tiết nhưng dự án vẫn chưa thể triển khai được vì
đứng trên góc độ quản lý nhà nước về đầu tư và quy hoạch đầu tư cần có sự đánh
giá tổng thể, khách quan về tác động của dự án trên mọi phương diện. Điều này đòi
hỏi dự án đầu tư cần một quá trình thẩm định kỹ càng. Trên phương diện tài trợ vốn
cho dự án, các Ngân hàng thương mại cũng rất quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm
định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và an toàn của công cuộc đầu tư. Nhờ
đó, các Ngân hàng thương mại có cơ sở vững chắc trong quá trình quyết định tài trợ
vốn.
Thẩm định dự án đầu tư tại các Ngân hàng thương mại là việc tiến hành
nghiên cứu, phân tích một cách khách quan, khoa học và toàn diện tất cả các nội
dung kinh tế - kỹ thuật của dự án, đặt trong mối tương quan với môi trường tự
nhiên, kinh tế và xã hội để quyết định tài trợ vốn.
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư được sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ

chức khác nhau như. Tuy nhiên, tùy vào cơ quan tiến hành thẩm định và chủ thể
tham gia thẩm định mà mục tiêu cũng như thời điểm thẩm định khác nhau. Về phía
Ngân hàng thương mại thẩm định dự án để xem xét tính hiệu quả, tính khả thi,
phương án trả nợ và quyết định tài trợ vốn đầu tư.

I.2 Vai trò thẩm định dự án đầu tư tại các Ngân hàng thương mại.
Thẩm định dự án đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng
thương mại trong hoạt động tín dụng đầu tư. Một trong những đặc trưng của hoạt
động đầu tư là diễn ra trong thời gian dài nên có thể gặp nhiều rủi ro. Do vậy, muốn
cho vay một cách an toàn, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, Ngân hàng khi cho vay
phải trên căn cứ thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư tại các Ngân hàng
thương mại có các vai trò sau đây:

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

+ Rút ra được những kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế của
dự án đầu tư, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra để đưa ra quyết định cho
vay hay từ chối.
+ Thông qua những thông tin và kinh nghiệm đã đúc kết trong quá trình thẩm
định nhiều dự án khác nhau, ngân hàng thương mại chủ động tham gia góp ý cho
chủ đầu tư nhằm bổ sung, chỉnh sửa các nội dung còn thiếu sót trong dự án, góp
phần nâng cao tính khả thi của dự án.

+ Làm cơ sở xác định số tiền cho vay, thời hạn cho vay, mức thu nợ hợp lý,
đảm bảo vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, vừa
có khả năng thu hồi vốn đã cho vay đúng hạn.

I.3 Quy trình thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư tại các Ngân hàng thương mại đứng trên quan điểm
khách quan để xem xét ra quyết định cho vay vốn. Quy trình thẩm định dự án đầu tư
tại các Ngân hàng thương mại chính là quy trình cấp tín dụng đối với một dự án đầu
tư, thông thường thực hiện qua các bước sau đây:

Lập hồ sơ đề
nghị cấp tín
dụng

Thẩm
định

Quyết
định tín
dụng

Giám sát thu
nợ, thanh lý
hợp đồng

Giải ngân

Sơ đồ 1.1: Quy trình tín dụng của ngân hàng thương mại

I.4 Nội dung và phương pháp thẩm định

I.4.1 Thẩm định tính pháp lý của dự án
Hoạt động đầu tư xây dựng của mọi thành phần kinh tế phải phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và
những quy định pháp luật khác. Thẩm định thủ tục pháp lý của dự án nhằm đảm bảo
dự án phải được lập, triển khai thực hiện theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
Pháp luật có những qui định riêng đối với mỗi loại dự án khác nhau. Do vậy trước
hết cần phân loại dự án theo qui mô, lĩnh vực, loại hình đầu tư, thành phần kinh
tế… Trên cơ sở đó xác định dự án phải tuân thủ theo những qui định nào và kiểm
tra sự tuân thủ qui định hiện hành trong quản lý đầu tư và xây dựng.
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Dự án nếu tính pháp lý không bảo đảm sẽ có nguy cơ bị đình hoãn trong quá
trình triển khai dẫn đến các rủi ro:
- Mất cơ hội kinh doanh: Khi tiến độ bị kéo dài do dự án bị đình chỉ và phải
dừng lại để hòan tất các thủ tục pháp lý, tình hình thị trường có thể có những diễn
biến khác đi và cơ hội kinh doanh có thể không thuận lợi như trước.
- Tiến độ thực hiện dự án kéo dài: Dự án bị dừng để hoàn tất và khép kín thủ
tục pháp lý, đôi khi phải điều chỉnh cả nội dung đầu tư dẫn đến thời gian thực hiện
kéo dài.
+ Tổng vốn đầu tư bị phá vỡ: Tiến độ thực hiện kéo dài, sẽ kéo theo sự gia
tăng của nhiều khoản mục chi phí như: lãi vay trong thời gian thi công, phạt vi
phạm hợp đồng, chi phí hoàn tất bổ sung các thủ tục… Trong nhiều trường hợp dự

án bị điều chỉnh lại nội dung đầu tư sẽ làm chi phí gia tăng.
+ Hiệu quả đầu tư giảm sút: do mất cơ hội kinh doanh, thay đổi tổng vốn đầu
tư, kéo dài tiến độ….
Với tư cách là nhà tài trợ khi thẩm định tính pháp lý của dự án đầu tư, cần
lưu kiểm tra việc chấp hành có đúng, đủ các quy định hiện hành của chủ đầu tư
trong quá trình triển khai thực hiện dự án, đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
và thực hiện đầu tư.

I.4.2 Thẩm định sự cần thiết của dự án đầu tư
Dự án đầu tư chỉ có hiệu quả khi nó mang lại lợi ích hay có những đóng góp
nhất định cho chủ đầu tư, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, ngành…Do
vậy, đánh giá sự cần thiết của dự án đầu tư phải chỉ ra mức độ cần thiết theo các
quan điểm khác nhau: doanh nghiệp, ngành, địa phương, tổ chức tín dụng…
Đối với ngân hàng thương mại, dự án đầu tư được coi là cần thiết thực hiện
khi nó xuất phát từ cân đối cung - cầu trên thị trường, định hướng phát triển ngành,
địa phương, đặc thù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc thẩm định sự cần thiết phải đầu tư là xuất phát điểm để tiếp tục thẩm
định các nội dung khác như: hình thức đầu tư, địa điểm đầu tư, quy mô đầu tư, các
giải pháp về công nghệ....
Nội dung khi thẩm định sự cần thiết phải đầu tư cần xem xét:
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương


- Sự phù hợp quy hoạch phát triển ngành, vùng, địa phương.
- Đánh giá tổng quan thị trường, năng lực của doanh nghiệp từ đó xem xét dự
án được thực hiện sẽ tác động gì đến doanh nghiệp, tình hình thị trường hiện nay và
trong tương lai thì thời điểm, quy mô đầu tư, địa điểm, hình thức đầu tư có hợp lý
không...
Qua đó, sẽ cho thấy bức tranh tổng thể về thị trường, doanh nghiệp, các chế
độ chính sách có liên quan trong lĩnh vực của dự án. Từ đó, đối chiếu với nội dung
trong dự án đầu tư để đánh giá sự cần thiết phải đầu tư. Việc đánh giá khái quát ban
đầu cho thấy dự án có nhiều khó khăn hay thuận lợi. Trường hợp đánh giá khả năng
thành công của dự án thấp có thể đưa ra quyết định không tham gia tài trợ vốn.
Ngược lại, đánh giá ban đầu cho thấy dự án có nhiều thuận lợi, mục tiêu của dự án
hợp lý, Ngân hàng sẽ xem xét đánh giá chi tiết các nội dung khác.

I.4.3 Thẩm định khía cạnh thị trường của dự án
Nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư xuất phát từ việc nắm bắt các thông
tin về nhu cầu của giới tiêu thụ để quyết định sản xuất mặt hàng gì, quy cách phẩm
chất thế nào, khối lượng là bao nhiêu, lựa chọn phương thức bán, phương thức tiếp
cận thị trường như thế nào để tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trường hiện tại và
tương lai. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, sức cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng chiếm lĩnh và mở
rộng thị trường quyết định trực tiếp đến sự thành bại của dự án. Do đó, việc chủ đầu
tư nghiên cứu kỹ về nội dung thị trường và Ngân hàng thương mại thẩm định lại
những luận cứ của chủ đầu tư đã đưa ra là hết sức cần thiết để có thể khẳng định
tính vững chắc về mặt thị trường của dự án.
Mục đích của việc thẩm định thị trường là xác định và đánh giá xem Dự án
đầu tư sẽ khai thác sản phẩm nào là có triển vọng nhất, khu vực nào sẽ tiêu thụ các
sản phẩm đó. Trên cơ sở những nghiên cứu về thị trường như quy mô tiêu thụ hiện
tại, tình hình cạnh tranh... Cán bộ thẩm định sẽ khẳng định được về khả năng tiêu
thụ của sản phẩm đồng thời đánh giá được tính đúng đắn về chiến lược về sản
phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối sản phẩm và chiến lược khuyến thị

của dự án.
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Nội dung thẩm định thị trường bao gồm các vấn đề như sau:
- Thẩm định về lựa chọn sản phẩm và dịch vụ cho dự án: Xuất phát từ đòi
hỏi của thị trường, căn cứ vào năng lực sở trường và thế mạnh của nhà đầu tư người
ta sẽ lựa chọn sản phẩm và dịch vụ mà dự án sẽ cung cấp sau này. Cần phải xem xét
một cách cụ thể những sản phẩm của dự án là sản phẩm gì: tên sản phẩm, quy cách,
hình thức, sản phẩm dự kiến sẽ đạt tiêu chuẩn gì...? Quá trình thẩm định cần phải
khẳng định được rằng những sản phẩm và dịch vụ này phải đang có nhu cầu lớn
trên thị trường, mức độ sản xuất và cung ứng hiện tại chưa đáp ứng được nhu cầu
tiêu thụ. Nếu chọn được những sản phẩm và dịch vụ có khả năng tồn tại và triển
vọng lâu dài thì càng tốt ( nhất là những mặt hàng thiết yếu ).
- Xác định khu vực thị trường và thị hiếu của khách hàng: Người thẩm định
cần xác định rõ thị trường của dự án là thị trường trong nước, nước ngoài hay cả hai
thị trường đó. Trên cơ sở định hướng thị trường cần tiếp tục nghiên cứu phân tích
đến tình hình dân số, tốc độ tăng dân số, khả năng thu nhập và thị hiếu, tập quán
tiêu dùng của người dân từng khu vực... Từ đó hình thành nên định hướng sản xuất
sản phẩm cũng như cách thức phân phối bán hàng đến từng khu vực để đạt hiệu quả
cao nhất.
- Phân tích tình hình cạnh tranh sản phẩm trong tương lai trên thị trường và
chỉ ra những lợi thế cạnh tranh của dự án: Trong nền kinh tế thị trường, khả năng

độc quyền sản xuất và phân phối một mặt hàng nào đó là rất hiếm có. Thường có rất
nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một số sản phẩm tương tự như
nhau. Ngoài ra, xu hướng tự do hoá thương mại trên thế giới phát triển một cách
nhanh chóng dẫn đến khả năng hàng hoá của các nước khác nhau có cơ hội thâm
nhập vào thị trường Việt Nam ngày càng nhiều. Điều này tạo nên một sức cạnh
tranh gay gắt trên thị trường nước ta hiện nay và trong những năm sắp tới.

I.4.4 Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án
Đảm bảo kỹ thuật cho một dự án là một nội dung quan trọng, quá trình
nghiên cứu trong điều kiện nhất định về vốn, về thị trường, về điều kiện xã hội cho
phép lựa chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp, lựa chọn địa điểm
xây dựng của dự án tối ưu ,chẳng những thoả mãn các yêu cầu kinh tế kỹ thuật dự
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

án đề ra mà còn tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản
phẩm. Cho nên nghiên cứu kỹ thuật của dự án thực sự góp phần rất quan trọng vào
việc đảm bảo tính khả thi của dự án.
Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật phải xem xét phân tích
trên các mặt chính sau:
- Lựa chọn điểm xây dựng: Đây là một khâu quan trọng ban đầu và cũng rất
khó khăn. Để đảm bảo sự hoạt động của công trình về sau thì việc lựa chọn địa
điểm xây dựng phải đảm bảo được các yêu cầu như: Gần nơi cung cấp nguyên vật

liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính, giao thông thuận tiện chi phí vận chuyển, bốc
dỡ hợp lý, tận dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có: đường sá, bến cảng, điện, nước...để
tiết kiệm chi phí đầu tư....
Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước về quy
hoạch đất đai, kiến trúc xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền). Cần tính
toán đầy đủ chi phí đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, san lấp tạo nền móng cho
công trình có thể đi vào xây dựng.
Thông thường một dự án có thể dự kiến nhiều địa điểm xây dựng công trình
khác nhau. Mỗi địa điểm có những thuận lợi và khó khăn riêng. Cần tập trung phân
tích những thuận lợi và khó khăn theo các tiêu chuẩn đã nêu trên, từ đó lựa chọn
được phương án tối ưu.
- Quy mô công suất của dự án: Căn cứ xác định quy mô, công suất của dự án
phụ thuộc vào các yếu tố như: mức độ yêu cầu của thị trường hiện tại và tương lai
đối với các loại sản phẩm của dự án, khả năng chiếm lĩnh thị trường của dự án, khả
năng cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất, nhất là các loại nguyên vật liệu phải
nhập khẩu, khả năng mua được các thiết bị công nghệ có công suất phù hợp, khả
năng đáp ứng về vốn đầu tư và năng lực quản lý của doanh nghiệp....
- Công nghệ và trang thiết bị: .Công nghệ và thiết bị của dự án là nhân tố
quyết định chủ yếu đến chất lượng sản phẩm. Do đó trong thẩm định dự án đầu tư,
đây là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, đối với cán bộ thẩm định của
Ngân hàng thương mại, quá trình phân tích về công nghệ và thiết bị thường gặp
những khó khăn nhất định chủ yếu là do không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ


GVDH: TS. Trần Mai Hương

và thiếu các thông tin cần thiết về công nghệ - kỹ thuật. Để khắc phục tình trạng
này, có thể áp dụng cơ chế thuê chuyên gia trong thẩm định nội dung kỹ thuật và
tiến hành thu thập các thông tin về công nghệ - kỹ thuật thông qua mạng
INTERNET. Tuy nhiên, cán bộ thẩm định cũng cần phân tích đánh giá được một số
vấn đề như sau:
+ Chủ đầu tư đã đưa ra mấy phương án lựa chọn công nghệ thiết bị ? Ưu
nhược điểm của từng phương án. Lý do lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại? Công
nghệ và thiết bị đó là của hãng nào, nước nào? Công nghệ và thiết bị đó có đảm bảo
được tính tiên tiến không? Có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với
yêu cầu của thị trường đòi hỏi không? Nếu là thiết bị cũ thì có đảm bảo các tiêu
chuẩn mà Nhà nước đã quy định với các loại công nghệ và thiết bị đã qua sử dụng
không?
+ Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị,
tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với
quy mô của dự án.
- Cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác
+ Kiểm tra việc tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu,
năng lượng, điện, nước ... trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh với mức
tiêu hao thực tế của các doanh nghiệp khác đang hoạt động.
+ Dựa trên nhu cầu đầu vào của dự án, đánh giá khả năng đáp ứng của thị
trường đầu vào, phương án khai thác (tại chỗ, trong nước hay nhập khẩu), giá cả của
các yếu tố đầu vào và khả năng biến động về giá cả, khối lượng…của các yếu tố
đầu vào. Đồng thời phải đánh giá những thuận lợi và khó khăn của thị trường đầu
vào và phương án khắc phục khó khăn có thể.
- Quy mô, giải pháp xây dựng công trình:
Những vấn đề cần quan tâm phân tích trong thẩm định nội dung này là:
Việc bố trí nhà xưởng có phù hợp với công nghệ và thiết bị được lựa chọn
hay không, có đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra thuận lợi hay không?

Xem xét các hạng mục kiến trúc hiện có để có thể tận dụng vào công trình
mới. Khi xây dựng các hạng mục mới cần đảm bảo thực sự cần thiết, phù hợp với
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

quy mô, công suất dự án đồng thời tiết kiệm vốn đầu tư.
Trên cơ sở yêu cầu kỹ thuật khối lượng công tác cần phải thực hiện và các
định mức, cán bộ thẩm định kiểm tra lại các tính toán nhu cầu vốn cho từng hạng
mục và cả công trình.
- Tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện án: Đây là yếu tố quan trọng liên
quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất và kế hoạch giải ngân, thu nợ
của Ngân hàng. Xác định thứ tự ưu tiên tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm
từng phần để đưa vào sử dụng; trước hết là để các hạng mục công trình sản xuất,
tiếp đến các hạng mục phụ trợ, cuối cùng đến các hạng mục phi sản xuất.

I.4.5 Thẩm định phương diện tổ chức quản lý của dự án
Nội dung thẩm định phương diện tổ chức quản lý của dự án:
Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành của Chủ đầu tư dự án.
Trong trường hợp Chủ đầu tư chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý, điều hành dự
án thì phương án của Chủ đầu tư là gì ?
Đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận,
điều hành công nghệ, thiết bị mới của dự án.
Xem xét năng lực, uy tín các nhà thầu: tư vấn, thi công, cung cấp thiết bịcông nghệ... (nếu đã có thông tin).

Khả năng ứng xử của khách hàng thế nào khi thị trường tiêu thụ dự kiến bị
thu hẹp hoặc có khả năng bị mất.
Đánh giá về nguồn nhân lực của dự án: số lượng lao động dự án cần, đòi hỏi
về tay nghề, trình độ kỹ thuật, kế hoạch đào tạo và khả năng cung ứng nguồn nhân
lực cho dự án.

I.4.6 Thẩm định khía cạnh tài chính dự án
Tài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được
hiệu quả của việc đầu tư dự án thông qua các chỉ tiêu tài chính. Do đó, nội dung tài
chính của dự án được Ngân hàng thương mại tài trợ vốn đặc biệt quan tâm. Tuy
nhiên vấn đề tài chính của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà trước hết là yếu
tố thị trường, các giải pháp công nghệ- kỹ thuật và quản trị quá trình thực hiện dự
án. Như vậy, thẩm định tốt nội dung thị trường và kỹ thuật của dự án là cơ sở quan
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

trọng để đảm bảo cho thẩm định tài chính được tiến hành thuận lợi.
Nghiên cứu và thẩm định phương diện tài chính cần đi sâu vào các nội dung
sau đây:
- Xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án: Tổng mức vốn đầu tư là giới hạn
chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết định đầu tư.
Tổng mức vốn đầu tư được xác định theo các phương pháp sau:
+ Phương pháp cộng chi phí: Xác định các khoản chi phí dự tính cho từng

công việc theo thiết kế cơ sở của dự án trong phần phân tích kỹ thuật: chi phí xây
dựng, chi phí thiết bị, chi phí quản lý dự án, chi phí vốn lưu động ban đầu, chi phí
vốn dự phòng, chi phí khác
+ Phương pháp định mức vốn:
Iv = QDA x SVĐT x K
Trong đó, Iv là vốn đầu tư của dự án, QDA là công suất thiết kế của công
trình dự án, SVĐT là suất vốn đầu tư (định mức chi phí vốn đầu tư /1 đơn vị sản
phẩm) và K là hệ số điều chỉnh.
Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với tính khả thi của dự án vì nếu vốn đầu tư dự trù quá thấp thì dự án có thể bị đổ
vỡ vì công trình không đưa vào thực hiện được, ngược lại tính toán quá cao tiền vay
nợ nhiều, giảm khả năng sinh lời của dự án.
Khi thẩm định về tổng vốn đầu tư cho dự án, Ngân hàng cần xem xét:
+ Đối với vốn xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối
lượng xây dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý:
Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp.
Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.
Kiểm tra sự đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng
trong dự án.
+ Đối với vốn thiết bị:
Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công trình sản xuất
công nghiệp. Thông thường phải chiếm tới 60 - 70% tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy
khi kiểm tra cần chú ý:
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ


GVDH: TS. Trần Mai Hương

Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu
kỹ thuật đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ
thuật.
Kiểm tra lại giá mua, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản. Tuỳ theo từng
loại thiết bị mà giá mua có thể sử dụng là giá thị trường ha giá do nhà nước quy
định.
Đối với các thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ sản xuất thì chi phí
thiết bị còn bao gồm chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí mua bí quyết kỹ thuật,
chi phí cho chuyên gia lắp đặt và điều chỉnh.
Ngoài ra trong việc thẩm định, Ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu vốn
đầu tư bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nào sẽ đảm bảo cho dự
án được thực hiện.
Việc thực hiện dự án đầu tư cần phải trải qua nhiều giai đoạn với khối lượng
công việc rất khác nhau. Vì vậy, chi phí phát sinh trong từng thời kỳ cũng khác
nhau. Cho nên khi tính tổng mức vốn đầu tư cho dự án thì không có nghĩa là ngay
từ đầu chủ đầu tư phải có vốn đầu tư như vậy, mà số này sẽ được phân bổ theo nhu
cầu thi công xây lắp thực tế. Riêng đối với Ngân hàng, việc xác định tiến độ bỏ vốn
cho dự án giúp cho quá trình điều hành vốn của Ngân hàng được thuận lợi trong
khâu lập kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn đồng thời còn giúp cho Ngân hàng
theo dõi tốt hơn các hoạt động của chủ đầu tư, từ đó đánh giá được mức độ hiệu quả
của những đồng vốn bỏ ra.
- Thẩm định nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ cho dự án: Một dự
án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn tự có của doanh
nghiệp, vốn vay ngân hàng, vốn huy động khác...Về phía Ngân hàng thương mại
khi thẩm định cần xem xét sự đảm bảo của vốn tự có thông qua tình hình tài chính,
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính, tính khả thi
của việc huy động các nguồn vốn tham gia khác

- Thẩm định về chi phí, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án
Đối với người kinh doanh chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận luôn luôn
là mối quan tâm hàng đầu. Các Ngân hàng thương mại tài trợ vốn cho dự án cũng
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

đặc biệt quan tâm đến vấn đề trên vì khả năng trả nợ vay của dự án phụ thuộc rất
lớn vào kết quả kinh doanh hàng năm của chủ đầu tư. Chính vì vậy, thẩm định về
chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không thể
thiếu trong thẩm định tài chính của dự án.
Việc xác định chi phí sản xuất hàng năm của dự án cần được căn cứ vào chi
phí giá thành của sản phẩm. Người thẩm định cần đi sâu kiểm tra tính đầy đủ của
các yếu tố chi phí trong giá thành sản phẩm. Các định mức sản xuất, mức tiêu hao
nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm, đơn giá...có hợp lý không? Trên cơ sở
đó, so sánh với các dự án đã và đang hoạt động cũng như kinh nghiệm đã tích luỹ
được của cán bộ thẩm định trong quá trình công tác.
Đối với doanh thu của dự án, cũng cần xác định rõ theo từng năm dự kiến.
Cần tính toán đầy đủ các nguồn thu như : Doanh thu từ sản phẩm chính, từ sản
phẩm phụ, từ cho thuê lao vụ...
- Thẩm định các chỉ tiêu tài chính và khả năng trả nợ của dự án: Thẩm định
các chỉ tiêu tài chính của dự án là cơ sở để kết luận về hiệu quả dự án và khả năng
tài trợ vốn cho dự án.
Nhóm các chỉ tiêu chiết khấu bao gồm thu nhập thuần của dự án (NPV) , tỷ

suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn chiết khấu
+ Thu nhập thuần của dự án (NPV) là chỉ tiêu thi nhập thuần của dự án được
tính chuyển về đầu kỳ phân tích, được xác định như sau:
n

NPV=


i=o

n

Bi(1+r) − i -



Ci(1+r) − i

i= 0

Trong đó, Bi là khoản thu (dòng tiền vào) của dự án ở năm i; Ci là khỏan chi
(dòng tiền ra) của dự án ở năm ; r là tỷ suất chiết khấu được chọn, n là số năm hoạt
động của đời dự án
NPV ≥ 0 tức là tổng các khoản thu của dự án ≥ tổng các khoản chi phí của
dự án khi đã đưa về mặt bằng hiện tại. Ngược lại NPV < 0 chứng tỏ tổng thu của dự
án không bù đắp được chi phí bỏ ra. Do vậy, ngân hàng chỉ chấp nhận cho vay đối
với dự án có NPV ≥ 0.

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N


Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

+ Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất
chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về cùng mặt bằng thời gian
hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi (tức là r là mức lãi suất chiết khấu làm
cho NPV = 0).
n



n

Bi(1+IRR)

−i

-

i =o



Ci(1+IRR) − i = 0


i= 0

Theo phương pháp nội suy, IRR được xác định như sau:
NPV1
IRR = r1 + (r2 – r1)
NPV 1 – NPV2
Trong đó, r1 < r2; r1 là tỷ suất chiết khấu làm cho NPV > 0 (NPV 1 >0); r2 là tỷ
suất chiết khấu làm cho NPV < 0 (NPV2 <0).
Dự án được chấp nhận khi IRR ≥ r giới hạn và không được chấp nhận khi
IRR < r giới hạn . r giới hạn có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy
định nếu dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cấp, có thể là chi phí cơ hội nếu
dự án sử dụng vốn tự có để đầu tư và đối với dự án vay vốn ngân hàng thì r giới hạn
là lãi suất đi vay.
+ Thời gian hoàn vốn chiết khấu là số thời gian cần thiết mà dự án cần hoạt
động để thu hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu,có tính đến yếu tố thời gian của tiền
Thời gian hoàn vốn chiết khấu theo phương pháp cộng dồn được xác định
như sau: ∑ (W+D)iPV → ≥ IV0 với i = 1 → T
Trong đó, T là năm thu hồi vốn, (W+D)iPV là lợi nhuận thuần và khấu hao
năm i quy về hiện tại, IV0 là vốn đầu tư ban đầu.
Thời gian hoàn vốn chiết khấu theo phương pháp trừ dần được xác định như
sau:
IV0
Ti =
(W + D)iPV
Nhóm các chỉ tiêu không chiết khấu, bao gồm điểm hòa vốn (BEP) và tỷ số
khả năng trả nợ của dự án
+ Điểm hòa vốn (BEP): là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các
khoản chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này cho biết khối lượng sản phẩm hoặc mức doanh thu
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N


Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

thấp nhất cần đạt được của dự án để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra. Điểm hòa
vốn được biểu hiện bằng các chỉ tiêu Sản lượng hào vốn, doanh thu hòa vốn, công
suất hòa vốn.
Sản lượng hòa vốn (BEPQ): là sản lượng cần thiết dự án phải đạt được mà ở
mức sản lượng này doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí. BEPQ được xác định như sau:
FC
BEPQ =
p-v

Trong đó, FC là tổng định phí hàng năm của dự án, p là giá bán một đơn vị
sản phẩm, v là biến phí cho một đơn vị sản phẩm.
Doanh thu hòa vốn (BEPS): là doanh thu cần thiết mà dự án phải đạt được để
doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí. BEPS được xác định như sau:
FC
BEPS = BEPQ * p =
1 – v/p
. Công suất hòa vốn (BEPp): là công suất hoạt động cần thiết mà dự án phải

đạt được để đảm bảo doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí. BEPp được xác định như
sau:
BEPQ
BEPp =


BEPS
* 100% =

* 100%

Q
S
Trong đó Q là sản lượng tính theo năm, S là tổng doanh thu trong năm tính
toán.
Từ công suất hòa vốn, có thể xác định được độ an toàn công suất (Sp), đó là
phần dư còn lại sau khi toàn bộ công suất thiết kế được trừ đi mức công suất hòa
vốn.
Sp = 100% - BEPp

Từ công thức trên cho thấy, một dự án có công suất hoạt động hòa vốn càng
thấp thì độ an toàn công suất càng cao, độ rủi ro hoạt động càng ít và hiệu quả tài
chính của dự án càng lớn. Ngược lại, dự án có điểm hòa vốn (công suất hòa vốn,
sản lượng hòa vốn, doanh thu hòa vốn) càng cao chứng tỏ độ an toàn công suất càng
thấp, dự án có độ rủi ro hoạt động cao, hiệu quả tài chính thấp.

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương


+ Tỷ số khả năng trả nợ của dự án được xác định như sau:
Nguồn trả nợ hàng năm
Tỷ số khả năng trả nợ của dự án =
Nợ phải trả hàng năm (gốc và lãi)
Trong đó, nguồn trả nợ hàng năm của dự án gồm lợi nhuận sau thuế, khấu
hao và chi phí lãi phải trả hàng năm.
Tỷ số khả năng trả nợ của dự án được so sánh với 1 , nếu Tỷ số khả năng trả
nợ của dự án ≥ 1 thì dự án được đánh giá có khả năng trả nợ, ngược lại Tỷ số khả
năng trả nợ của dự án < 1 thì dự án không có khả năng trả nợ.
Mỗi chỉ tiêu trên đây phản ánh một khía cạnh của dự án và mỗi chỉ tiêu có
hạn chế nhất định. Do vậy khi phân tích hiệu quả tài chính của dự án phải kết hợp
tất cả các chỉ tiêu để có kết quả chính xác.
- Trường hợp dự án có tác động của các yếu tố khách quan: Đầu tư dự án là
hoạt động mang tích chất lâu dài, do vậy rất khó có thể dự đoán hoàn toàn chính xác
các yếu tố có tác động đến hiệu quả dự án. Để đánh giá được độ an toàn của các kết
quả tính toán trước sự biến đổi của các yếu tố khách quan có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện dự án, người ta sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, phương
pháp phân tích tình huống, phương pháp phân tích mô phỏng. Đây là các phương
pháp xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án khi các yếu tố có
liên quan đến chỉ tiêu đó thay đổi. Qua đó sẽ đánh giá được độ an toàn của dự án.
Dự án được đánh giá là có độ an toàn cao là dự án vẫn đạt hiệu quả khi những yếu
tố tác động đến nó thay đổi theo những chiều hướng không có lợi. Việc phân tích sẽ
giúp cho Ngân hàng biết được dự án nhạy cảm với yếu tố nào, yếu tố nào gây nên
sự thay đổi nhiều nhất của chỉ tiêu hiệu quả để từ đó có biện pháp quản lý trong quá
trình thực hiện dự án hoặc giúp lựa chọn những dự án có độ an toàn hơn cho những
kết quả dự tính.
- Thẩm định chỉ tiêu tài chính trường hợp có trượt giá và lạm phát
Trượt giá được coi là sự tăng giá của một mặt hàng cụ thể. Lạm phát được
coi là sự giảm sức mua của đồng tiền nói chung. Trượt giá và lạm phát tác động trực

tiếp lên các khoản chi phí vốn đầu tư, nhu cầu tiền mặt, các khỏan phải thu, phải

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

chi…Do vậy để đảm bảo cho quá trình đầu tư được thuận lợi và đánh giá chính xác
hiệu quả dự án, khi dự tính mức vốn đầu tư và dự tính hiệu quả tài chính dự án phải
tính thêm đến yếu tố trượt giá và lạm phát. Các phương pháp thường sử dụng:
Phương pháp 1: Điều chỉnh các khoản thu chi của dự án theo tỷ lệ trượt giá
và tỷ suất chiết khấu theo tỷ lệ lạm phát.
r1f = (1 + r)(1+f) – 1
Trong đó, r là tỷ suất chiết khấu khi chưa có lạm phát; f là tỷ lệ lạm phát; r 1f
là tỷ suất chiết khấy có tính đền yếu tố lạm phát.
Phương pháp 2: Điều chỉnh các khoản thu chi của dự án theo tỷ lệ trượt giá
đồng thời loại trừ ảnh hưởng của yếu tố lạm phát ra khỏi các khoản thu chi của dự
án và tỷ suất chiết khấu.
1 + r1f
r=

-1
1+f

Trong đó, r là tỷ suất chiết khấu đã loại trừ yếu tố lạm phát, r 1f là tỷ suất chiết

khấu đã bao hàm yếu tố lạm phát, f là tỷ lệ lạm phát.

II. Thẩm định dự án ngành than tại Ngân hàng thương mại
II.1 Ngành than đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Than đóng vai trò sống còn đối với sản xuất điện và vai trò này sẽ còn được
duy trì trong tương lai. Khoảng 39% lượng điện sản xuất ra trên thế giới là từ nguồn
nguyên liệu này và tỷ lệ này sẽ vẫn được duy trì trong tương lai (theo dự báo đến
năm 2030). Lượng tiêu thụ than cũng được dự báo sẽ tăng từ 0.9% đến 1.5% từ nay
cho đến năm 2030. Không chỉ những nước không thể khai thác than mới phải nhập
khẩu mà ngay cả các quốc gia khai thác lớn nhất thế giới cũng phải nhập khẩu than.
Than đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là tại các khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao.
Theo thống kê, giai đoạn 2003 - 2007, sản lượng tiêu thụ than của Việt Nam
tăng 119.89%. Đặc biệt, nhu cầu tiêu thụ than của Việt Nam được dự đoán tăng
trong những năm tiếp theo, do trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt quy
hoạch xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện tại các địa phương. Hiện tại than Việt

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Nam phục vụ cho các hộ sản xuất chính là điện, xi măng, giấy, phân bón và phục vụ
xuất khẩu.
Theo Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam – TKV trữ lượng than tại Việt

Nam rất lớn: riêng ở Quảng Ninh khoảng 10.5 tỷ tấn, trong đó đã tìm kiếm thăm dò
3.5 tỷ tấn (chiếm khoảng 67% trữ lượng than đang khai thác trên cả nước hiện nay),
chủ yếu là than antraxit. Khu vực đồng bằng sông Hồng được dự báo có khoảng 210
tỷ tấn, chủ yếu là than Asbitum, các mỏ than ở các tỉnh khác khoảng 400 triệu tấn.
Riêng than bùn là khoảng 7 tỉ m3 phân bố ở cả 3 miền. Tuy nhiên, theo thống kê
của Cơ quan thông tin Năng lượng Mỹ trữ lượng than Việt Nam có 165 triệu tấn,
còn theo tập đoàn BP thì con số này là khoảng 150 triệu tấn. Cũng theo cơ quan này,
sản lượng khai thác của Việt Nam năm 2007 là 49.14 triệu tấn, đứng thứ 6 trong các
nước chấu Á và thứ 17 trên thế giới, chiếm 0.69% sản lượng thế giới.
Trên thị trường nội địa, ngành điện là khách hàng tiêu thụ than lớn nhất
(trung bình 17% tổng cầu). Theo quy hoạch phát triển của ngành điện, trong năm
năm tới, Việt Nam sẽ phát triển thêm 3000 MW nguồn nhiệt điện than và tối thiểu
4500-5500 MW nguồn nhiệt điện trong năm năm tiếp theo.
Với tiềm năng hạn chế về thuỷ điện và nguồn khí đốt tại Việt Nam, vai trò
của nhiệt điện chạy bằng than sẽ ngày càng tăng, kéo theo nhu cầu tiêu thụ than
ngày càng lớn.
Ngoài ra, các ngành tiêu thụ than khác như xi măng, giấy, hoá chất… cũng
đang có tốc độ tăng trưởng cao. Điều này hứa hẹn sức cầu ‘khổng lồ’ về than trong
thập kỷ tới.
Nhu cầu về than gia tăng cùng với yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp
chủ chốt, thể hiện tiềm năng phát triển mạnh của ngành than.
Ngành công nghiệp than phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố về môi trường tự
nhiên. Bất kỳ một sự biến động nào của môi trường tự nhiên cũng đều ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm than như: sự biến động về địa chất, quy hoạch
khai thác vùng chưa ổn định....
Về mặt khai thác, thời gian gần đây, các công ty trong ngành đã chú trọng
đầu tư, nâng cấp thiết bị và công nghệ khai thác. Về mặt tiêu thụ, Tập đoàn Than
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N


Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Khoáng sản Việt Nam đã tích cực mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước. Đặc
biệt, từ năm 2003 trở lại đây, để bù lỗ phần than tiêu thụ trong nước và tạo vốn cho
việc tái đầu tư, xuất khẩu than được đẩy mạnh.
Trong cân bằng năng lượng hiện nay của nền kinh tế, ngành than đã dần
khẳng định được vai trò và vị trí xứng đáng của mình. Tỷ trọng của than trong cân
bằng năng lượng đang tăng lên. Đặc biệt, trong tổng sơ đồ phát triển hiện nay của
ngành điện, các dự án nhiệt điện chạy than đã và đang được quy hoạch phát triển
với quy mô tương đối lớn.
Nhờ có cơ chế phát triển mới được hình thành, TKV đã tăng được sản lượng
khai thác than, đáp ứng đủ than cho nền kinh tế, đã xuất khẩu được một lượng lớn
than ra thị trường thế giới, tạo ra nguồn thu bù đắp cho việc bình ổn giá than trên thị
trường trong nước, và để đầu tư mua sắm trang thiết bị cần thiết. Ngoài việc cung
cấp đủ than cho các ngành kinh tế, TKV đã chủ động tạo ra thị trường nội địa cho
chính sản phẩm than của mình bằng việc phát triển các dự án nhiệt điện chạy than
có chất lượng thấp.
Cùng với việc tham gia phát triển các dự án nhiệt điện chạy than, TKV đã đi
đầu trong việc đổi mới kỹ thuật phát điện theo công nghệ "than sạch" bằng lò hơi
"tầng sôi tuần hoàn". Việc lần đầu tiên ở VN công nghệ "lò hơi tầng sôi tuần hoàn"
do TKV đầu tư có ý nghĩa không những về mặt áp dụng các thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, mà còn có giá trị mở ra một triển
vọng lớn cho việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên than có hạn trong cân bằng
năng lượng của đất nước.
Trong suốt 15 năm qua, mặc dù TKV đã xuất khẩu một lượng than rất lớn,

thu về một lượng ngoại tệ khổng lồ, nhưng chưa hề có đầu tư tái sản xuất mở rộng.
Việc tăng trưởng sản lượng trong thời gian qua mới chỉ dựa vào "thâm canh" khai
thác các mỏ có sẵn từ thời bao cấp. Những mỏ có điều kiện khai thác thuận lợi, đặc
biệt là các mỏ lộ thiên, đều đã bị tận dụng khai thác vượt quá công suất tối ưu như
Núi Béo, Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn, Núi Hồng, Khánh Hoà...

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

II.2 Đặc điểm của dự án ngành than
II.2.1 Chi phí, thời gian đầu tư dự án ngành than lớn, vốn đầu tư hàng
năm chịu sự điều tiết của Tập đoàn.
Các dự án khai thác than thường đối mặt với nhiều rủi ro về tính mạng con
người, công nghệ khai thác than phức tạp và đang trong quá trình đổi mới giảm
thiểu việc khai thác dựa chủ yếu vào sức người bằng cơ giới hóa.
Đặc thù của dự án khai thác than là việc đầu tư và khai thác được diễn ra
đồng thời, liên tục. Do vậy, thời gian thực hiện đầu tư kéo dài, thường xuyên phải
thực hiện đầu tư duy trì sản xuất.
Vì vậy, tổng mức đầu tư của các dự án ngành than thường lớn. Mặt khác,
tổng vốn đầu tư hàng năm của dự án phải thực hiện theo kế hoạch đã được Tập đoàn
giao do đặc thù quản lý đầu tư của ngành.

II.2.2 Thị trường tiêu thụ sản phẩm các dự án ngành than

Than là nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chủ chốt. Cùng với
sự phát triển về kinh tế, nhu cầu tiêu thụ than ngày càng tăng cao.
* Thị trường nội địa:
Nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng tốt và được các chuyên gia dự
báo sẽ tiếp tục đà tăng trưởng trong trung hạn (7.5 – 8%), dù trong thời gian qua,
tốc độ tăng trưởng giám sút do tác động của khủng hoảng kinh tế...Khi nền kinh tế
tăng trưởng, các ngành điện, giấy, phân bón, xi măng,… phát triển sẽ kéo theo sự
phát triển của ngành than. Theo dự báo của Bộ Công Thương, dự kiến nhu cầu than
trong nước vào năm 2015 sẽ là 94 triệu tấn, năm 2020 là 184 triệu tấn và 2025 là
308 triệu tấn. Từ năm 2012 phải nhập khẩu than và lượng dự kiến nhập khẩu năm
2015 là 34 triệu tấn, 2020 là 114 triệu tấn và 2025 là 228 triệu tấn. Theo định hướng
chiến lược và mục tiêu phát triển nhanh ngành Than để đáp ứng với nhu cầu trong
nước góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia nên đã dự kiến sản lượng than
đến năm 2010 đạt 47-50 triệu tấn; năm 2015: 50-55 triệu tấn; năm 2020: 50-60 triệu
tấn; năm 2025: 70-75 triệu tấn
+ Nhu cầu than cho ngành điện: Theo quy hoạch nhu cầu than cho ngành
điện chiếm tỷ lệ cao. Theo quy hoạch điện IV, nhu cầu than cho ngành điện là 18.64
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

triệu tấn năm 2010 và tiếp tục tăng mạnh vào các năm sau. Cụ thể, từ năm 2010 trở
đi, hàng loạt nhà máy điện than như nhà máy điện Hà Tĩnh, Nghi Sơn, Đồng bằng
Sông Cửu Long đi vào hoạt động sẽ đẩy nhu cầu than tăng vọt. Năm 2012, tổng nhu

cầu than cho sản xuất điện, bao gồm: 16 nhà máy điện thuộc EVN, 9 nhà máy thuộc
TKV và 6 dự án điện của các nhà đầu tư khác đã xác nhận mua than thì đã tăng vọt
lên 32,5 triệu tấn.
+ Nhu cầu than cho ngành xi măng và các ngành công nghiệp khác giấy, hoá
chất, công nghiệp vật liệu xây dựng (sành sứ, thủy tinh, gạch ngói)… : Đây là
những ngành đang có tốc độ tăng trưởng cao, Điều này hứa hẹn sức cầu ‘khổng lồ’
về than trong thập kỷ tới.
* Thị trường xuất khẩu:
Nhu cầu sử dụng than trên thế giới trong các năm gần đây và dự báo trong
tương lai vẫn duy trì ở mức cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu
than trong nước.
Than là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của nước ta cùng với
dầu mỏ, gạo thủy sản và dệt may. Hiện nay, Việt Nam có 12 thị trường chính xuất
khẩu than (Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Lào, Indonesia,
Thái Lan, Hà Lan...), trong đó Trung Quốc là thị trường chủ yếu. Tổng kim ngạch
xuất khẩu than năm 2009 khoảng 25 triệu tấn, tăng 30% so với năm 2008. Tuy
nhiên, do nhu cầu tiêu thụ than trong nước cao, trong các năm tới dự kiến giảm sản
lượng xuất khẩu than.

II.2.3 Các dự án ngành than chịu sự điều tiết của Tập đoàn về sản lượng
sản xuất, tiêu thụ và giá bán
Do đặc thù ngành than bị phụ thuộc vào Tập đoàn (TKV nắm giữ 51% cổ
phần ở hầu hết các công ty than) nên các hoạt động xuất khẩu hay bán cho một số
khách hàng, giá cả cũng như khối lượng của các công ty bị phụ thuộc vào đơn vị
chủ quản là TKV. Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam giao cho các công ty
quản lý tài nguyên, trữ lượng than. Hàng năm, các công ty khai thác than cho Tập
đoàn theo Hợp đồng giao nhận thầu khai thác, sàng tuyển than. Do đó, không có sự
cạnh tranh về sản phẩm và thị trường giữa các Công ty khai thác than. Lợi nhuận
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N


Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

của các công ty khai thác than chịu ảnh hưởng trực tiếp của định mức lợi nhuận do
TKV quy định và gián tiếp bởi những yếu tố khác, gồm có sản lượng xuất khẩu, giá
xuất khẩu và giá bán than trong nước.
Với cơ chế quản lý chặt chẽ của Tập đoàn, các Công ty khai thác than không
thực sự gặp khó khăn trước những nguy cơ biến động về thị trường, giá cả, song
cũng sẽ phải chủ động với các biện pháp về trữ lượng than và kế hoạch khai thác
nhằm đảm bảo duy trì khả năng khai thác lâu dài.
Hiện tại, quy định về việc tiêu thụ than, giá than trong nước theo Quyết định
số 3061/QĐ-TKV ngày 29/12/2009:
- Về tiêu thụ than:
+ Tập đoàn trực tiếp lý hợp đồng mua bán với các hộ sử dụng lớn (các nhà
máy nhiệt điện đốt than, các nhà máy xi măng sử dụng từ 50.000 tấn than/năm trở
lên, tổng công ty giấy Việt Nam....).
+ Tập đoàn ủy quyền cho các đơn vị kinh doanh than của Tập đoàn (Công ty
Kho vận Đá Bạc, Công ty Kho vận Hòn Gai, Công ty kho vận và Cảng Cẩm Phả)
đưa than về cung cấp cho các hộ sử dụng khác.
- Về giá bán than:
+ Giá bán than cho các hộ lớn trong nước: Giá than cho sản xuất điện theo
giá chỉ đạo của Chính phủ; giá than cho các hộ: Xi măng, Phân bón, Giấy áp dụng
theo giá thị trường.
+ Giá bán than cho các hộ khác trong nước: Trong từng thời điểm, tập đoàn
công bố bảng giá bán than các loại than thương phẩm.


II.2.4 Yêu cầu kỹ thuật đối với các dự án ngành than cao
Theo thống kê của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV (Tập đoàn Công
nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam) trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2008 có
196 vụ tai nạn lao động xảy ra tại các mỏ than, làm 287 người chết, xảy ra chủ yếu
trong lò chợ và gương lò chuẩn bị. Nguyên nhân chủ yếu của các vụ tai nạn do các
mỏ than vẫn áp dụng công nghệ thủ công.
Cũng theo kết quả của Viện Tư vấn Phát triển, tổn thất tài nguyên trong quá
trình khai thác than hầm lò ở mức cao khoảng 40 - 60%.
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương

Như vậy, các dự án ngành than đòi hỏi yêu cầu về mặt kỹ thuật cao do vấn đề
đảm bảo an toàn tính mạng con người và đảm bảo vấn đề bảo vệ môi trường. Việc
khai thác than trong điều kiện hầm lò gặp nhiều các rủi ro nếu không tuân thủ các
điều kiện về an toàn mặt khác có tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái.
Hiện nay, các mỏ than chủ yếu áp dụng công nghệ khai thác bằng phương
pháp khoan nổ mìn thủ công, chống giữ bằng cột thuỷ lực đơn, giá thuỷ lực di động
và gần đây là giá khung di động. Các công nghệ này tuy đã cải thiện hơn so với
công nghệ chống gỗ hoặc cột ma sát nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn lao
động mà đặc biệt trong khấu gương, di chuyển cột, chuyển máng cào... Hơn nữa,
việc khai thác than hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào sức người.
* Kết luận: Ngành than đóng vai trò là ngành kinh tế trọng điểm cung cấp

nhiên liệu hoạt động cho hầu hết các ngành khác, đặc biệt là điện, phân bón, giấy,
xi-măng - những ngành sử dụng nhiều than nhất trong sản xuất, do đó nguồn cầu về
than trên thị trường hiện đang rất lớn. Hơn thế nữa, được sự ưu đãi về thuế và các
chính sách của chính phủ nên hoạt động của ngành này ít chịu rủi ro do biến cố của
thị trường tiền tệ. Mặt khác, do đặc thù ngành, việc khai thác, xuất khẩu hay bán
cho một số khách hàng của ngành than cũng bị phụ thuộc vào đơn vị chủ quản là
TKV cả về khối lượng và giá cả. Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, doanh nghiệp
ngành than cũng gặp một số khó khăn nhất định như: công nghệ khai thác sơ khai,
chịu rủi ro về mặt chính sách và môi trường...

II.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến thẩm định dự án ngành than tại các
Ngân hàng thương mại
II.3.1 Tổ chức thực hiện thẩm định
Cách thức tổ chức thẩm định có ảnh hưởng lớn và phản ánh chất lượng thẩm
định. Sự độc lập giữa cán bộ thẩm định và cán bộ quan hệ khách hàng sẽ giúp giảm
bớt sự đánh giá chủ quan và hạn chế rủi ro đạo đức nghề nghiệp, do đó sẽ nâng cao
chất lượng thẩm định.
Bên cạnh sự độc lập, sự phối hợp giữa các bộ phận thẩm định cũng có ý
nghĩa quan trọng, nhằm mục đích không chỉ có tác dụng kiểm tra chéo lẫn nhau mà
còn cung cấp, bổ sung những thông tin cần thiết cho quá trình phân tích, thẩm định.
SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


Luận văn thạc sỹ

GVDH: TS. Trần Mai Hương


Đặc biệt khi đã có sự tách bạch giữa bộ phận quan hệ khách hàng và bộ phận thẩm
định thì sự phối hợp giữa hai bộ phận này để trao đổi thông tin là rất quan trọng.
Ngoài ra, sự phối hợp giữa các Chi nhánh, giữa Hội sở chính và các chi nhánh giúp
cho việc thẩm định được đầy đủ, nhanh chóng.

II.3.2 Chất lượng nguồn thông tin trong thẩm định
Thông tin là yếu tố đầu vào của quá trình thẩm định. Do vậy chất lượng thẩm
định thuộc rất nhiều vào nguồn thông tin mà ngân hàng sử dụng để phân tích. Ngân
hàng chỉ có thể đánh giá và dự báo được khả năng trả nợ của khách hàng khi các
thông tin về khách hàng, hoạt động của khách hàng, môi trường kinh tế, chính trị xã hội… đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời và có tính pháp lý.
Thông tin cung cấp phải xác định đúng nguồn gốc, mọi thông tin có được từ
các nguồn gốc không chính thức chỉ để tham khảo. Tính chính xác trong thông tin
phân tích thể hiện ở chỗ thông tin thu thập phải phản ánh trung thực tình trạng và
diễn biến khách quan tình hình doanh nghiệp. Thông tin không bị nhiễu trong quá
trình truyền đưa và không được mang màu sắc hay ý chủ quan áp đặt của người làm
công tác thu thập thông tin.
Tính kịp thời của thông tin thể hiện ở việc thường xuyên bổ sung, cập nhật
các diễn biến của đời sống kinh tế, xã hội, phản ánh tiến bộ của khoa học và thực
tiễn hoạt động của ngành từng địa phương, và cả nước. Thông tin đảm bảo kịp thời
sẽ giúp có kết luận đúng đắn, tránh được hiện tượng lạc hậu so với các diễn biến
thực tế.
Tính đầy đủ của thông tin thể hiện ở chỗ thông tin phân tích phải phản ánh
một cách toàn diện đối tượng theo thời gian và không gian. Có nghĩa là thông tin
phải phản ánh được diễn biến của sự vật và hiện tượng kinh tế trong quá khứ, hiện
tại và dự báo tương lai…thông tin thu thập càng đầy đủ thì các kết luận phân tích
càng chính xác và có giá trị.
Không những thế, chất lượng nguồn thông tin còn thể hiện ở việc đa dạng
hoá các nguồn cung cấp thông tin. Sự đa dạng của thông tin được thể hiện ở việc
thông tin có thể khai thác ở nhiều nguồn khác nhau. Nếu ngân hàng phụ thuộc vào
một nguồn thông tin duy nhất thì độ chính xác của thông tin sẽ không được đầy đủ

SVTH: Đào Thị Ngọc Mai
CH16N

Lớp:


×