Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

NCKH về đồng tính ở lứa tuổi THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 63 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AN GIANG
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRUNG TRỰC
-------- -------NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐỒNG TÍNH Ở LỨA TUỔI THPT
SINH LÍ GIỚI TÍNH HAY TRÀO LƯU

Người thực hiện
1/. Huỳnh Thị Bích – lớp 11A3
2/. Lê Hoàng My – lớp 12A1
Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Trung Trực
Người hướng dẫn khoa học
Giáo viên: Cao Thị Thu Hồng
Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Trung Trực
AN GIANG - 2017


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu, đến nay chúng tôi đã hoàn thành nghiên cứu với đề
tài Đồng tính ở lứa tuổi THPT – Sinh lí giới tính hay trào lưu. Nghiên cứu này được
hoàn chỉnh nhờ sự giúp đỡ của quý Cô, gia đình và bạn bè.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học, Cô
Cao Thị Thu Hồng đã tận tình dạy bảo, hướng dẫn và giúp đỡ chúng tôi trong quá
trình hoàn thành nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các bạn học sinh khối 10,11,12
trường THPT Nguyễn Trung Trực, THPT Ba Chúc, Phổ thông Cô Tô đã tạo điều kiện
sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng tác giả
Huỳnh Thị Bích + Lê Hoàng My



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
Đồng tính
Giáo viên
Học sinh
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở
Trường THPT Nguyễn Trung Trực
Trường THPT Ba Chúc
Trường Phổ thông Cô Tô

VIẾT TẮT
ĐT
GV
HS
THPT
THCS
NTT
BC
CT



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
"Nếu được chọn cho mình giới tính, thì con không mong muốn như vậy, để mẹ cha
khổ đau từng ngày, phải tủi nhục từng ngày vì con." (Nếu được chọn giới tính – Lâm
Thanh Thảo).
Sinh ra trên đời chẳng ai muốn phải mang trong mình hình hài này trong khi lại muốn

trở thành giới tính kia. Những tháng ngày sống trong đau khổ khi không được là chính
mình của những con người chẳng may mang hai giới tính mấy ai hiểu được. Xã hội ngày
càng hiện đại, con người càng muốn sống thật với mình hơn. Nhiều người lựa chọn
chuyển giới, tiêm hormone thay đổi nội tiết tố để trở thành giới tính như mình mong
muốn. Ấy thế nhưng xã hội này vẫn còn lắm khắt khe với cộng đồng người chuyển giới,
ủng hộ thì ít mà miệt thị thì nhiều. Nhưng có lẽ sự dè bỉu của xã hội chưa phải nỗi đau
lớn nhất với những người chuyển giới. Họ còn phải chịu nỗi đau, sự dằn vặt với gia đình,
với những bậc sinh thành đã đặt kì vọng vào mình.
Trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng tính phát
triển mạnh mẽ. Những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho
những người đồng tính luyến ái cũng xuất hiện thường xuyên hơn. Còn ở Việt Nam, từ
sau thời điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hoá tư tưởng nước ngoài đã xâm
nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối sống và quan niệm
truyền thống của người dân. Tầng lớp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là
thanh niên. Đây là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên
quan niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ thường
chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ chưa rõ
tích cực hay tiêu cực. Vì thế, hiện tượng đồng tính ở Việt Nam được quan niệm như một
lối sống, một sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác đến những giá trị truyền
thống, nền tảng văn hoá của dân tộc.
Trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều bài báo viết về hiện tượng đồng tính, chỉ ra
những trường hợp coi đồng tính như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị
cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính còn phát triển
trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính luyến ái nam. Chính vì thế dư luận xã
hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý thông thường mà
còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm
nữa, người đồng tính luyến ái còn là nhóm nguy cơ cao về bệnh HIV do họ thường
xuyên thay đổi bạn tình, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng. Gần đây, hiện tượng
đồng tính trở nên rất phổ quát trong xã hội, nhiều bạn trẻ công khai, mạnh dạn thừa nhận
mình thuộc giới tính thứ ba và nhiều trong số đó họ bắt đầu có lối sống lệch lạc thay vì



sống thật với giới tính và có những hoạt động có ích như bao con người có giới tính bình
thường khác.
Theo nghiên cứu gần đây của trường ĐH Sư phạm TP.HCM tiến hành trên 300 học
sinh (HS) của 3 trường THCS và THPT tại TP.HCM, có tới 25% em dự đoán rằng tỷ lệ
đồng tính ở trường mình là hơn 10%. Trong khi đó, học sinh THPT thuộc trình độ tri
thức cao, đồng thời đây cũng là lớp người kế cận của đất nước, đòi hỏi họ phải luôn có
những hiểu biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh
mình. Thêm nữa họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ bị ảnh
hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở bất
kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế, học sinh cần có những hiểu biết nhất định về đồng
tính để có những định hướng đúng đắn cho tương lai cũng như tránh khỏi sự lôi kéo của
những đối tượng xấu.
Xuất phát từ nhận định như vậy, chúng tôi đã chọn đề tài "Đồng tính ở lứa tuổi
THPT – sinh lí giới tính hay trào lưu" nhằm tìm hiểu những hiểu biết cũng như thái độ
của học sinh về hiện tượng này. Đặc biệt, nghiên cứu còn nhằm tìm hiểu thực trạng đồng
tính ở lứa tuổi THPT là do sinh lí giới tính (đồng tính thật) hay chỉ là trào lưu (đồng tính
giả) để từ đó có những định hướng giáo dục giới tính phù hợp trong nhà trường.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đồng tính ở cả nam và nữ, về bản chất tâm lý không có tội dù rằng chưa thể hoàn
toàn bình thường nếu xét theo hệ quy chiếu chuẩn mực xã hội. Nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng này rất phức tạp. Có trường hợp là bẩm sinh như một loại bệnh lý nhưng
nhiều khi đó là xuất phát từ ảnh hưởng của môi trường sống hoặc do lối sống, nhận thức
của cá nhân. Trong khi các nhà khoa học còn đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện
tượng này thì nó đã kịp gây ra những ảnh hưởng tới đời sống của toàn xã hội. Nhóm
đồng tính luyến ái được coi là nhóm nguy cơ cao về lây truyền căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới. Thêm nữa, lối sống bất
bình thường của người đồng tính tạo nên những tác động tới nền văn hoá, đạo đức và
luật pháp của mỗi quốc gia.

Ở nước ta, tuy rằng đồng tính vẫn chỉ tồn tại ở cá biệt một số nhóm đối tượng nhưng
trong thời gian gần đây, nó có xu hướng phát triển mạnh hơn. Nhiều người, đặc biệt là
tầng lớp thanh niên coi đây như một thứ mode, một trào lưu hay một cách ăn chơi sành
điệu. Thêm nữa, đồng tính nam cò dẫn đến tệ nạn mại dâm nam đã từng không ít lần gây
đau đầu cho các nhà quản lý. Ở Hà Nội, trong thời gian vừa qua không ít lần báo chí đã
phải đề cập đến những tụ điểm tụ tập của giới đồng tính ngay tại những nơi vui chơi giải
trí công cộng. Không chỉ là một hiện tượng lạ, một loại bệnh lý, đồng tính ở Việt Nam
được coi như sự đi xuống về đạo đức, trái với những giá trị văn hoá nước nhà. Việc giải
quyết nó là một việc rất khó khăn bởi những người đồng tính vẫn được coi như những


thành viên trong xã hội, sự phát triển của họ gắn liền với sự phát triển của xã hội. Do
vậy, việc trước tiên của quá trình giải quyết hiện tượng này là tìm hiểu sự nhận thức và
hiểu biết cũng như thái độ của người dân. Ở đây, đề tài nghiên cứu tập trung vào nhóm
học sinh THPT. Bởi đây là nhóm tuổi tiêu biểu cho thanh niên, đối tượng dễ bị ảnh
hưởng bởi các hiện tượng xã hội mới lạ trong đó có đồng tính luyến ái. Học sinh là
những người làm chủ đất nước tương lai nên càng cần có sự hiểu biết để giải quyết,
phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng này.
Chính vì thế, mục đích của chúng tôi khi thực hiện nghiên cứu là nhằm xác định
khuynh hướng giới tính thật sự của đối tượng đồng tính ở lứa tuổi THPT. Hiện nay vẫn
chưa có phương pháp kiểm tra nào có thể xác định được chính xác khuynh hướng giới
tính của một người. Do đó, phương pháp đáng tin cậy nhất chính là nhìn lại quá khứ
cũng như cảm xúc của chính chúng ta, từ đó đưa ra phán đoán ở mức tương đối chính
xác về đối tượng tìm hiểu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu những hiểu biết cơ bản và thái độ của học sinh về hiện tượng đồng tính.
- Tìm hiểu mức độ phổ biến của hiện tượng này ở nhà trường phổ thông.
- Phân tích những yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến việc xác định giới tính của HS.
- Định hướng giới tính cho những HS cho mình là đồng tính.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Hiểu biết của HS THPT về hiện tượng đồng tính.
- HS Trường THPT Nguyễn Trung Trực ở cả ba khối lớp 10, 11, 12.
4.2 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: HS của ba trường THPT trên địa bàn huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
(THPT Nguyễn Trung Trực, Phổ Thông Cô Tô, THPT Ba Chúc).
- Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu nhận thức của học sinh trường THPT Nguyễn Trung Trực về hiện tượng
đồng tính cũng như thái độ, hành vi tương ứng. Đánh giá sự ảnh hưởng của cuộc sống
thực tại đến cách nhìn nhận sinh lí giới tính. Đề tài chỉ tập trung vào sự hiểu biết và đánh
giá của học sinh về hiện tượng này và khía cạnh xã hội mà không đi sâu vào khía cạnh
khoa học. Để từ đó làm rõ giả thuyết nghiên cứu: Đồng tính ở lứa tuổi THPT, sinh lí giới
tính hay trào lưu.


5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nghiên cứu này, chúng tôi đã vận dụng một cách tổng hợp, linh hoạt
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát được sử dụng trong quá trình quan sát nhóm đối tượng đã nhận
mình đồng tính để tìm hiểu những biểu hiện của họ.
+ THPT Nguyễn Trung Trực: 5 HS (2 HS khối 12 – NTT1, NTT2; 2 HS khối 11 –
NTT3, NTT4, 1 HS khối 10 – NTT5)
+ Phổ thông Cô Tô: 3 HS (1 HS khối 12 – CT1; 1 HS khối 11 – CT2, 1 HS khối 10 –
CT3)
+ THPT Ba Chúc: 3 HS (1 HS khối 12 – BC1; 1 HS khối 11 – BC2, 1 HS khối 10 –
BC3)
- Phương pháp điều tra: chúng tôi sử dụng phiếu hỏi để khảo sát những hiểu hiết của học
sinh về hiện tượng đồng tính, thái độ của học sinh về người đồng tính trong nhà trường
và bên ngoài xã hội để từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm giúp các bạn HS có cái nhìn
đúng đắn về hiện tượng đồng tính.

Ngoài ra, các thao tác nghiên cứu cụ thể như: phân tích, thống kê, hệ thống, tổng
hợp… cũng được chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu ở mức độ hợp lý.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Đồng tính là một hiện tượng rất phức tạp của xã hội hiện nay và đã được đa số học sinh
biết đến.
- Học sinh có những hiểu biết tương đối về nguyên nhân, bản chất, biểu hiện cũng như
đối tượng của hiện tượng này. Từ nhận thức, họ có thái độ và quan điểm đánh giá tương
ứng.
- Nhiều học sinh chưa xác định đúng giới tính thật sự của mình và bạn bè xung quanh.


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm giới và giới tính
Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông
đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan đến quá
trình xã hội hoá.
Các đặc điểm của giới:
- Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính.
- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quá trình học tập, xã
hội hoá cá nhân.
- Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xã hội, nền văn hoá.
- Có thể biến đổi.
Giới tính là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ.
Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho những chuẩn mực về
vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học, văn hoá, kinh tế..
Các đặc điểm của giới tính
- Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gen qua cơ chế di truyền.
- Bẩm sinh.

- Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hoá sinh học nên không phụ thuộc vào
không gian và thời gian.
Sự khác nhau giữa “giới tính” và “giới”được thể hiện qua các nội dung sau:
- Giới tính là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, có sẵn
từ khi sinh ra, đồng nhất và không biến đổi (trừ trường hợp có sự can thiệp của y học).
Ví dụ nam giới có thể làm thụ thai, phụ nữ có thể sinh con và cho con bú.
- Khác với giới tính, giới không mang tính bẩm sinh mà được hình thành trong quá trình
sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành. Nói cách khác, giới
được thể hiện thông qua các hành vi được hình thành từ sự dạy dỗ và thu nhận từ gia
đình, cộng đồng và xã hội, là vị trí, vai trò của nam và nữ mà xã hội mong muốn, kỳ
vọng ở phụ nữ và nam giới liên quan đến các đặc điểm và năng lực nhằm xác định thế
nào là một người nam giới hay một phụ nữ (hoặc trẻ em trai, trẻ em gái) trong một xã hội


hay một nền văn hóa nhất định. Ví dụ: phụ nữ làm nội trợ, thêu thùa, chăm sóc con cái,
nam giới xây dựng nhà cửa, làm kinh tế, chính trị,… Những hành vi này không phải là
hành vi hay kỹ năng bẩm sinh mà do họ được xã hội, gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm
việc đó vì xã hội cho rằng như vậy là phù hợp với thiên chức phụ nữ hoặc nam giới.
1.1.2. Khái niệm vai trò giới
Vai trò xã hội là những mong đợi của xã hội đối với một cá nhân nào đó phù hợp
với địa vị của cá nhân đó. Quyền lợi và nghĩa vụ là hai thành tố quan trọng nhất của vai
trò xã hội.
Vai trò giới: là những mong đợi của xã hội với một chàng trai hay một cô gái về những
mô hình, hành vi ứng xử phù hợp với phụ nữ hay nam giới.
Những vai trò của giới bao gồm:
Vai trò sản xuất: là những hoạt động do đàn ông hay phụ nữ thực hiện( theo quan niệm
truyền thống chủ yếu là nam giới) nhằm tạo ra của cải vật chất xã hội, hàng hoá dịch vụ
để sử dụng trao đổi.
Vai trò tái sản xuất: là những hoạt động cần thiết đảm bảo tái sản xuất ra con người lực lượng sản xuất. Những vai trò tái sản xuất bao gômg: sinh con, nuôi con, chăm sóc
các thành viên trong gia đình đặc biệt là người già và trẻ em. Theo quan niệm truyền

thống, vai trò này chủ yếu do phụ nữ đảm nhận.
Vai trò cộng đồng: là hoạt động diễn ra ở cộng đồng như làng xã, thôn bản nhằm duy
trì ổn định quan hệ xã hội trong cộng đồng đó. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này
phụ nữ ít tham gia.
1.2. Đồng tính và quan niệm về đồng tính
1.2.1. Khái niệm đồng tính
Trước khi tìm hiểu khái niệm về đồng tính chúng ta cần phân biệt một số thuật ngữ
- Heterosexual - Dị tính ái ( gốc từ Hy Lạp - heteros): dùng để chỉ những người có
quan hệ tình dục với người khác giới.
- Bisexual - dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với cả hai giới (gốc từ bi hai).
- Transgenderist- dùng để chỉ những người có hành vi khác với giới của mình. Như
nam giới nhưng lại có cách phục trang, ứng xử, phong cách như nữ giới và ngược lại.
- Transsexual - xuyên giới tính: dùng để chỉ những người sống hoàn toàn khác với giới
"trời cho" của mình.
- Lưỡng giới - dùng để chỉ những người bẩm sinh có cả hai cơ quan sinh dục nam và
nữ và mang trong mình những yếu tố gen, hoócmôn của cả hai giới. Đến một thời điểm


nào đó do sự phát triển của cơ thể và đôi khi là do sức ép từ môi trường bên ngoài (gia
đình, xã hội) bắt buộc họ phải có sự lựa chọn một giới tính và giới.
Trước năm 1994 trên thế giới người ta vẫn quan niệm rằng, đồng tính là một căn bệnh
thuộc nhóm bệnh lệch lạc giới tính và có liên quan đến các biểu hiện suy đồi đạo đức.
Thậm chí một số quốc gia còn liệt đồng tính là một bệnh thuộc bệnh tâm thần và cần
theo dõi sát sao. Từ sau năm 1994, các nhà khoa học đã nhận ra sai lầm của mình nên từ
đó đồng tính không bị coi là một căn bệnh nữa. Họ cho rằng đây là một hiện tượng, một
thiên hướng tình dục bình thường. Vì vậy:
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam tập 1, đồng tính "là quan hệ luyến ái, tình dục
giữa những người cùng giới tính, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Trên
thực tế thường gặp đồng tính luyến ái giữa nam với nam, ít gặp ở nữ hơn. Đồng tính
luyến ái tồn tại từ lâu ở các nước phương Tây, có nơi chấp nhận như hợp pháp. Gần

đây, được dư luận xã hội chú ý vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây lan tràn
AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)".
Theo tính luyến ái – ngày 27/9/2017, Đồng
tính hay đồng tính luyến ái là thuật ngữ chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu,
tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với
nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Với vai trò là một thiên hướng tình
dục, đồng tính luyến ái là một mô hình bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, hoặc
hấp dẫn tình dục một cách chủ yếu hoặc duy nhất đối với người cùng giới tính. Đồng
tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia
vào một cộng đồng có chung điều này.
Xét từ khía cạnh bệnh lý, sinh học: có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhưng những nhà
khoa học dường như đều nhất trí rằng đồng tính luyến ái là bẩm sinh chứ không phải
mắc phải. Người đồng tính luyến ái chẳng có gì khác so với người bình thường ngoại trừ
những lệch lạc về định hướng tình dục. Các nhà bệnh lý học tâm thần xếp người đồng
tính luyến ái vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục. Họ được coi
là "thiểu số tình dục".
Là một loại bệnh tâm thần, đồng tính luyến ái cần hội tụ 3 điều kiện:
- Có tính chất cưỡng chế, dù có ý thức hay không, họ cũng không thể cưỡng lại được.
- Chủ yếu ở nam giới(nhưng hiện nay cũng đã có xuất hiện nhiều ở giới nữ).
- Xuất hiện sau tuổi trưởng thành.
Xét từ khía cạnh tâm lý: các nhà tâm lý đều cho rằng ngoại trừ nhóm người đồng
tính luyến ái do yếu tố bẩm sinh thì một số lượng không nhỏ trong nhóm đối tượng này
có biểu hiện đồng tính luyến ái do những nguyên nhân về tâm lý.


- Thứ nhất, đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp, lệch lạc. Một gia đình
quá hà khắc và gia trưởng hay cách sống không lành mạnh có thể dẫn đến những tổn
thương về tâm lý trong đứa trẻ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân
cách và giới của đứa trẻ khi trưởng thành. Và đặc biệt là nội dung, cách thức giáo dục
giới tính trong gia đình còn chưa được quan tâm đến một cách đúng đắn.

- Thứ hai, đó là sự lạm dụng tình dục với trẻ em, đặc biệt là của người cùng giới với
chúng. Điều này tạo nên một trạng thái ám ảnh suốt thời thơ ấu. Và khi trưởng thành, nó
có thể trở thành một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái.
Xét từ khía cạnh cá nhân và xã hội: Theo các nhà nghiên cứu hầu hết các hiện tượng
đồng tính luyến ái mà người ta ngộ nhận thường do yếu tố môi trường, bản thân chứ ít
khi là do bẩm sinh.
- Thứ nhất : do sự tò mò của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở lứa tuổi thanh niên,
khi hiểu biết còn chưa đầy đủ nhưng lại dễ bị cuốn hút bởi những điều mới lạ.
- Thứ hai: do sự lôi kéo hoặc đua đòi. Dư luận xã hội về vấn đề này càng được mở
rộng càng làm nảy sinh một số lượng người đồng tính luyến ái "dởm", a dua theo bạn bè.
Họ coi đây là một thứ "mode" chứ không phải do bản chất. Và cũng không ít những
trường hợp những người bình thường tự biến mình thành người đồng tính luyến ái vì lợi
ích kinh tế hay những lợi ích khác.
- Thứ ba: do ảnh hưởng của luồng văn hoá nước ngoài. Nước ta từ khi mở cửa, giao
lưu kinh tế đồng thời cũng bắt buộc phải " giao lưu" với những luồng văn hóa nước
ngoài mà không ít trong số đó kém lành mạnh, đi ngược lại với những quan niệm, thuần
phong mỹ tục vốn có. Sự ảnh hưởng của văn hoá có thể nhìn nhận rõ ràng qua cách sống,
cách tiêu dùng văn hoá của người dân đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Văn hóa nước
ngoài với cái nhìn khá "thoáng" về các vấn đề giới tính hay tình dục dễ dàng ảnh hưởng
đến nhóm đối tượng còn chưa có nhiều hiểu biết và năng lực đánh giá này.
Xét từ khía cạnh xã hội học: với cách tiếp cận xã hội học thì đồng tính luyến ái có
thể được coi là một hiện tượng lệch chuẩn. Bởi lối sống của người đồng tính luyến ái đi
ngược lại với những quan niệm đạo đức xã hội cũng như luật pháp của một số nước,
nghĩa là trái với những chuẩn mực tồn tại trong xã hội.
Dù chúng ta quan niệm như thế nào về đồng tính thì cũng cần phân biệt rõ đồng tính
luyến ái với dị tính luyến ái và song tính luyến ái.

Đồng tính
Là người có cảm giác hấp
dẫn về tình cảm, thể chất


Song tính

Dị tính

Là người có cảm giác hấp Là người có cảm giác hấp
dẫn về tình cảm, thể chất dẫn về tình cảm, thể chất


với người cùng giới.

với cả hai giới.

(Lesbian – đồng tính nữ,
Gay – đồng tính nam)

(Bisexual)

với người khác giới.

1.2.2 Phân loại đồng tính
Về cơ bản chúng ta có thể phân đồng tính thành 2 loại, đồng tính có căn nguyên
sinh học (nhiều người gọi là “đồng tính thật”) và đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội
(nhiều người gọi là “đồng tính giả”).
Đồng tính có căn nguyên sinh học
Trong mỗi người chúng ta, có 2 loại hoocmon giới tính: Testosterone và Oestrogen.
Testosterone hay còn gọi là hoocmon nam tính, có tác dụng hình thành hình hài người
nam và nam tính ở người đàn ông. Nếu bạn là một nam thực thụ thì lượng Testosterone
không những đủ để hình thành hình hài của người nam mà còn thể hiện nam tính của
người đàn ông. Nếu lượng Testosterone ở người nam chỉ đủ hình thành hình hài người

nam thôi, chứ không đủ để thể hiện nam tính, trong khi đó lượng Oestrogen (hoocmon
nữ tính) có khuynh hướng gia tăng quá mức thì người nam đó sẽ có hình hài là nam
nhưng tính tình, cách hành xử và giọng nói thì ẻo lả như con gái, thích tiếp xúc với người
nam hơn và họ nghĩ mình là nữ nên tìm một đối tượng là nam. Vì thế, có hiện tượng là
đồng tính nam (gay).
Ngược lại, nếu bạn là một người nữ, thì lượng Oestrogen phải cao để hình thành hình
hài người nữ và nữ tính ở người phụ nữ. Tuy nhiên, nếu lượng Oestrogen chỉ đủ để hình
thành hình hài là nữ, trong khi đó lượng Testosterone lại có khuynh hướng gia tăng thì
mặc dầu thân hình của bạn là nữ nhưng tính cách, cách hành xử và thích giao tiếp với nữ
nhiều hơn. Bởi vì bạn đang nghĩ mình là nam chứ không phải là một nữ nên đối tượng họ
hướng đến là một người nữ và điều này dẫn đến hiện tượng đồng tính nữ (les). Đồng tính
có căn nguyên sinh học như đã trình bày ở trên có thể điều trị theo y học bằng cách duy
trì việc bổ sung hoocmon và rèn luyện hành vi, thói quen trong giao tiếp và thậm chí có
thể chuyển đổi giới tính. Bạn muốn biết mình có phải là người đồng tính có căn nguyên
sinh học hay không thì có thể đến các bệnh viện để làm xét nghiệm về hoocmon giới
tính. Ở đó các bác sẽ làm các xét nghiệm có liên quan và sẽ có kết luận về hoài nghi của
bạn.

Đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội
Khi tiếp xúc với nhiều bạn trẻ là người đồng tính, hầu như các bạn đều thừa nhận và
khăng khăng khẳng định rằng, mình là đồng tính thứ thiệt (có căn nguyên sinh học) chứ


không thừa nhận đó là do nguyên nhân tâm lý xã hội. Đây chỉ là lý do để ngụy biện cho
trào lưu mà mình đang theo đuổi chứ không phải là sự thật của vấn đề. Vậy, người đồng
tính có căn nguyên tâm lý là người như thế nào?
Đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội là loại đồng tính mà nguyên nhân xuất phát từ
các yếu tố tâm lý xã hội. Sau đây là một số nguyên nhân điển hình:
- Mong đợi của bố mẹ về giới tính của con trước khi sinh: Nhiều trường hợp, bố mẹ
mong có con trai nên trong giai đoạn thai giáo, việc giáo dục thai nhi được tiến hành theo

cách giáo dục cho nam. Khi sinh ra đời, đứa trẻ là nữ chứ không phải là nam. Tuy nhiên,
cha mẹ vẫn muốn đứa trẻ đó là một người nam chứ không phải là nữ nên cho trẻ mặt đồ
của nam, chơi những trò chơi của nam và giáo dục theo cách với nam… Tất cả những
điều này dần làm cho trẻ không thể định hướng giới tính của mình một cách chính xác
mà bị lệc lạc. Trẻ nghĩ mình là một người nam trong khi thân thể là một người nữ. Vì
thế, trẻ có khuynh hướng gần gũi và thích tiếp xúc với nữ hơn và đối tượng trong tình
yêu và hôn nhân đó là một nữ và ngược lại.
- Gia đình có bố mẹ ly thân/ly hôn: Mặc dầu chưa có số liệu thống kê một cách chính
xác, tuy nhiên, qua tiếp cận lâm sàng một số trường hợp đồng tính có căn nguyên tâm lý
xã hội cho thấy, hầu hết trẻ rơi vào hoàn cảnh của những gia đình mà bố mẹ thường
xuyên xảy ra mâu thuẫn xung đột, ly thân và ly hôn. Trẻ luôn chứng kiến những bất hòa
xảy ra giữa bố mẹ chúng và không thể tin tưởng vào mối quan hệ tình cảm khác giới như
mối quan hệ tình cảm của bố mẹ chúng hiện tại. Trẻ có xu hướng làm ngược lại để tránh
sự đỗ vỡ như bố mẹ chúng. Đó là tìm đến mối quan hệ đồng giới để được an toàn.
- Khủng hoảng về hình mẫu: Trong gia đình, thông thường trẻ có khuynh hướng chọn
cho mình một mẫu người mà mình sẽ hướng tới. Hình mẫu với bé trai đó có thể là: bố,
ông nội/ngoại, chú, bác, anh, người hàng xóm hoặc là nam diễn viên/ca sĩ mà chúng thần
tượng… Hình mẫu của bé gái đó là mẹ, chị gái, bà nội/ngoại, cô, dì, người hàng xóm,
hoặc là một nữ diễn viên/ca sĩ mà trẻ thần tượng. Cơ chế bắt chước đã giúp trẻ xây dựng
mô hình giới tính của mình theo hình mẫu mà chúng đã lựa chọn. Tuy nhiên, vấn đề sẽ
khác khi trẻ bị khủng hoảng về hình mẫu. Bố, mẹ trong gia đình không phải là hình mẫu
cho trẻ hướng đến bởi vì bố, mẹ thì nghiện ngập, ngoại tình, đánh đập và hành hạ con
cái, sống ích kỷ…làm cho trẻ không tin tưởng, hoài nghi về bố mẹ, thậm chí là ghét/căm
thù bố mẹ. Trẻ cũng không chọn được ai để làm hình mẫu cho mình, vì thế trẻ có khuynh
hướng làm ngược lại bằng cách chứng minh mình có thể làm người đàn ông tốt (trong
khi thân thể của mình là nữ) hay người phụ nữ tốt (trong khi cơ thể của trẻ là nam).
- Ảnh hưởng của tuổi thơ: Trẻ bị bạn bè trêu chọc là pê-đê khi còn nhỏ hoặc bị người
đồng tính lạm dụng tình dục hay cưỡng hiếp.



- Tính tò mò của tuổi trẻ và bạn bè xấu rủ rê: Nhiều bạn trẻ bước vào thế giới đồng tính
chỉ vì bị bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo hay vì tò mò, muốn khám phá, trải nghiệm cái mới mà
mọi người đang theo thử xem nó như thế nào nhưng khi bước vào rồi thì không có
đường ra. Đây là nguyên nhân chính mà giới trẻ hiện nay bước vào thế giới thứ 3 theo
trào lưu mới và không cân nhắc những tai hại đáng tiếc có thể xảy ra. Đây là những trẻ
đáng trách hơn là đáng thương.
Những người đồng tính có căn nguyên sinh học là những người cần được sự quan tâm,
chia sẻ, cảm thông và không bị sự kỳ thị của xã hội. Bởi vì, bản thân họ không muốn
điều này. Những người đồng tính có căn nguyên tâm lý mà những nguyên nhân đó không
phải là mình mong muốn, đó là hệ quả của người lớn gây nên cũng cần được quan tâm
hỗ trợ của toàn xã hội. Tuy nhiên, đồng tính bắt nguồn từ nguyên nhân là sự tò mò của
giới trẻ và bị bạn bè xấu rủ rê hay theo trào lưu mới của xã hội là những trường hợp đáng
trách. Bởi vì, chính các bạn đã lựa chọn và ý thức về sự lựa chọn của mình.
Nếu bạn là người đồng tính hoặc là nạn nhân của những vấn đề đồng tính muốn tìm lối
ra khi lạc lối nhưng không biết cách hay đang băn khoăn về lựa chọn “có nên trở thành
người đồng tính hay không?” thì việc tham khảo và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chuyên gia
tâm lý là điều thật sự cần thiết để bạn có quyết định chính xác. Đôi điều chia sẻ cùng các
bạn trẻ. Các bạn hãy cân nhắc cho những lựa chọn của mình về vấn đề này.
1.2.3 Quan niệm về đồng tính ở Việt Nam
Trên thế giới, đồng tính đã phổ biến từ rất lâu. Có rất nhiều cuộc biểu tình đòi
quyền bình đẳng đối với người đồng tính ở nhiều nước như Mĩ, Pháp, Anh.... Sau nhiều
cuộc biểu tình tại các thành phố lớn ở các nước mà việc bình đẳng đối với người đồng
tính đã được chấp nhận. Tiêu biểu là quyền được kết hôn giữa những người đồng giới đã
tạo ra một luồn sóng mạnh mẽ và gây ảnh hưởng lớn đến đa số các nước khác trên thế
giới với các nền văn hóa khác nhau.


Toà án tối cao Mỹ ngày 26/6/2015 đã thông qua luật hôn nhân đồng giới
/>
Ngày 03/07/2005, Tây Ban Nha trở thành quốc gia thứ 3 trên thế giới nói "Đồng ý"

với hôn nhân đồng giới
/>

Hàng trăm ngàn người đã xuống đường biểu tình ủng hộ dự
luật cho phép hôn nhân đồng tính trên khắp nước Pháp trong
ngày 27.1.2013, theo báo Le Monde.
/>
Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính ở Ireland
/>

Ở Việt Nam, người ta bao hàm về đồng tính bằng cụm từ LGBT Gồm:
+ L trong lesbian chỉ về đồng tính nữ
+ G trong gay chỉ về đồng tính nam
+ B trong bisexual chỉ về người song tính
+ T trong transgeder hoặc transgeder people chỉ về người chuyển giới.
Dù rằng Việt Nam là một trong những quốc gia "chịu" ảnh hưởng của làn sóng hôn
nhân đồng tính nhưng nước ta vẫn chưa có một luật hay một sự thông qua nào về hôn
nhân đồng tính. Xét về nhiều khía cạnh như văn hóa-truyền thống-tập quán, tính nhảy
cảm về những vấn đề xã hội vv... đối với người Việt hiện nay thì ban hành luật hôn nhân
cho người đồng tính vẫn chưa phải là giai đoạn thích hợp.Việc tổ chức lễ cưới giữa
những người đồng tính dạo gần đây đã nhận phải nhiều chỉ trích từ cộng đồng do tính
nhạy cảm và văn hóa tập quán của người Việt.

Người đồng tính rộn ràng xuống phố Hà Nội
/>Đồng tính trong lịch sử
Như đã nói trong phần Quan niệm đồng tính ở Việt Nam, đồng tính trên thế giới đã
xuất hiện từ rất lâu và đa phần là được ghi chép lại đầy đủ. Chẳng hạn như ở Trung
Quốc, những câu chuyện về đồng tính được lịch sử ghi chép lại thường xoay quanh các



vị vua. Hán Văn Đế nổi tiếng là vị vua đam mê sắc đẹp của đàn ông. Mặc dù có công lao
tạo dựng nên thời thịnh trị Văn Cảnh nhưng Hán Văn Đế cũng vô cùng nổi tiếng với
những mối tình đồng tính của mình. Một trong những mối tình nổi tiếng của Hán Văn Đế
chính là mối tình với chàng phu chèo thuyền Đặng Thông. Ngược lại, ở Nhật Bản đồng
tính thường xoay quanh về những samurai. Đặc biệt là vào thời Edo.
Đồng tính trong lịch sử Việt Nam hiếm được ghi nhận lại. Từ thế kỷ 16 đến thời kì
Pháp thuộc thì có một số ghi chép về đồng tính. Có một số ghi chép hiếm hoi trong thời
kì chế độ phong kiến về một vài vị vua chúa được cho là không thích gần gũi với phụ nữ
hoặc có sủng thần là đàn ông. Vua Khải Định rất thích xem đàn ông đóng giả "đào" khi
diễn tuồng dù ngài có đến trên dưới tất cả là 12 bà vợ. Các hoạt động đồng tính tại Việt
Nam được một lính quân y người Pháp tên Jacobus X vào thời Pháp thuộc ghi chép lại.
Ông cho rằng đồng tính là một "hiện tượng" và bị ảnh hưởng bởi văn hóa của Trung
Hoa. Ông đã ghi chép lại hoạt động mại dâm nam của người Pháp hoặc người Trung
Quốc với các bé trai từ 7 đến 15 tuổi dù ông đã từng cho rằng người Pháp có hành động
đồng tính là do tránh gái mại dâm bị bệnh giang mai.
Đồng tính và pháp luật
Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định cấm quan hệ tình dục đồng giới. Vào năm
2000, trong luật Hôn nhân và Gia đình cấm kết hôn giữa những người đồng tính. Quy
định này kéo dài 14 năm và đến năm 2014 luật Hôn nhân và Gia đình có sửa đổi. Đến
ngày 1 tháng 1 năm 2015, quy định đó mới được bãi bỏ. Nhưng điều không sửa đổi trong
luật 2014 là quy định " không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới"(khoản 2,
điều 8 trong luật Hôn nhân và Gia đình)
Trong khi đó, một số nước trên thế giới đã chấp nhận hôn nhân đồng tính như: Mĩ, Pháp,
Anh…
Đồng tính trong nghệ thuật (âm nhạc, văn học, điện ảnh)
Khi nhắc đến nghệ thuật, người ta thường nghĩ đến những điều hướng về " chân, thiện,
mỹ". Tức là sự chân thật, sự thiện chí và sự hoàn mỹ trong mắt của con người. Nghệ
thuật lấy cảm hứng từ đời thường với nhiều phương diện khác nhau như sự yêu thương
lẫn nhau khi cùng chung quê hương hay đơn giản hơn là tình mẫu tử-phụ tử thiên liêng
cao cả. Nhưng có ai đã từng lấy cảm hứng từ những mối tình đồng giới? Ngày nay thì

cảm hứng đó xuất hiện khá nhiều trong nghệ thuật nhưng ngày xưa thì khác. Đối với
người xưa, đồng tính là một sự trái với luân thường đạo lí, trái với tự nhiên và trái với
đạo đức xã hội. Dù rằng ngày xưa có những mối tình đồng giới thật sự đi chăng nữa thì
cũng chẳng ai dám công khai hay tự nhận điều đó cả. Tất cả là do suy nghĩ, những quan
niệm chỉ trích tình yêu đồng giới. Kể cả có một ai đó dám lên tiếng về "vấn đề đó" thì
cũng bị xem là lối nghĩ bệnh hoạn hay nặng nề hơn là sẽ nguy hiểm đến tính mạng vì


dám nói những điều trái với luân thường đạo lí. Vậy thì tự hỏi ai dám lên tiếng trong xã
hội trước? Nhưng bây giờ thì khác. Do sự hòa nhập giữa các nền văn hóa khác nhau và
nhiều lí do khác đã thay đổi đa phần suy nghĩ về đồng tính theo hướng tích cực hơn mặc
dù vẫn còn nhiều ý kiến tiêu cực. Nhưng nhìn chung thì lối suy nghĩ về đồng tính ở Việt
Nam đã thoáng hơn so với lúc trước.
Nghệ thuật thường được chia làm 3 lĩnh vực: âm nhạc, điện ảnh và văn học.
Đồng tính trong âm nhạc của nước ta cũng chỉ được thể hiện mạnh mẽ qua những năm
gần đây do nhạc sĩ hoặc ca sĩ công khai về chủ đề. Nền âm nhạc Việt hiện nay đã "mạnh
dạn" hơn rất nhiều khi nhắc về chủ đề đồng tính. Đối với ngày trước, nhạc Việt chỉ thiên
về những chủ đề như lòng yêu nước, tình cảm nam nữ,...và rất ít người thậm chí ta có
thể cho là chẳng có sản phẩm âm nhạc nào nói về chủ đề này cả. Như đã nói, đồng tính ở
Việt Nam chỉ mới được "du nhập" vào thời gian gần đây nên nếu so với những ngày
trước thì chủ đề này được cho là "quá nhạy cảm" hay thậm chí là trái với tự nhiên.
Những bài hát như Tình tuyệt vọng của nhạc sĩ Thái Thịnh hay Chiếc bóng của Phương
Uyên hoặc Tìm lại chính tôi được các nhạc sĩ công khai là viết về đề tài đồng tính. Còn
thông qua MV thì có Thanh Xuân của Đào Bá Lộc.
Điện ảnh Việt thường xây dựng hình ảnh cho các nhân vật đồng tính theo nhiều chiều
hướng. "Môtíp" nhân vật thường khai thác về ngoại hình, giọng nói, tính cách ẻo lả
giống phụ nữ hoặc những hành vi thiếu nghiêm túc, lộ liễu của nhân vật khi theo đuổi
người cùng giới. Họ còn có thể xây dựng hình ảnh nhân vật theo chiều hướng tiêu cực
như " bệnh hoạn" hay "ghê sợ" nhằm gây cười để câu khách. Điều tiêu cực trên đã phần
nào dẫn dắt xã hội nhìn về đồng tính một cách sai lệch, có phần kì thị, thậm chí thiếu tôn

trọng đối với người đồng tính. Điện ảnh Việt vẫn còn các biên kịch, các đạo diễn đã "cứu
rỗi" những nhìn nhận của xã hội về đồng tính được thể hiện qua những bộ phim như: Cô
gái điếm và Con vịt, Chơi vơi,.... Điện ảnh nước ngoài nổi bậc nhất là bộ phim Cô Gái
Đan Mạch - The Danish Girl. Sự nuối tiếc, lòng thương cảm là cảm xúc chung của
những ai từng biết đến câu chuyện có thật về Lili Elbe – người chuyển giới đầu tiên trên
thế giới, đồng thời là nguyên mẫu cho nhân vật chính của The Danish Girl. Qua phim,
hành trình đầy dằn vặt của Lili Elbe khi quyết định từ bỏ danh phận, địa vị và cả người
vợ thương yêu 6 năm gắn bó để làm lại từ đầu một cuộc đời khác khiến khán giả thấy
cảm phục và ngưỡng mộ lòng can đảm của Einar - Lili. Hành trình đầy nghị lực của
Einar vượt qua những định kiến, nỗi hổ thẹn để được sống đúng là chính mình sẽ khiến
chúng ta cảm phục. Nhưng trên hết, sự bao dung, tình yêu cao thượng của Gerda khi
chấp nhận và tiếp tục đồng hành cùng người chồng khiếm khuyết trên hành trình đi tìm
lẽ sống mới là điều vô giá mà chúng ta sẽ rất bất ngờ khi theo dõi bộ phim.
Ở Việt Nam trước đây, các nhà văn, nhà thơ thường hay quan ngại nên ít viết về đề tài
này. Chúng ta có thể cho đó là né tránh dù từ trước đến nay đề tài đồng tính không bị


cấm. Như đã nói ở phần quan niệm đồng tính về việc người Việt chưa thể chấp nhận hôn
nhân đồng tính cũng do một phần của văn chương trước đó - nền tảng của sự hình thành
tư tưởng nhân cách của mỗi con người. Vì sao chúng ta lại đổ lỗi cho văn chương ở thời
đại trước ? Bởi vì trước đây, những người viết về đề tài đồng tính này thường khai thác
sâu về mặt tiêu cực như bệnh tật, tệ nạn... do thiếu thông tin. Góp phần tiêu cực khiến
mọi người xa lánh, kì thị người đồng tính và khiến người đồng tính trở nên mặc cảm,
khép lòng và khó bày tỏ cảm xúc thật.
Nhưng hiện nay, các tác phẩm về đồng tính nổi lên như cồn. Nhiều cuốn sách được ra
đời. Gửi gắm vào đó là những suy nghĩ riêng của tác giả. Mang đến cho người đọc một
ánh nhìn mới về cuộc đời của những người đồng tính. Trong đó, Một thế giới không có
đàn bà của nhà văn Bùi Anh Tấn là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam viết về người
đồng tính, được nhận giải A cuộc thi Tiểu thuyết và kí “Vì an ninh Tổ quốc – Vì cuộc
sống bình yên”. Ngoài ra, anh còn viết Les-vòng tay không đàn ông cũng khai thác cùng

một mảng đề tài đã nói. Bên cạnh đó, cũng có một số tác phẩm khác viết về đề tài đồng
tính như: Bóng – tự truyện Nguyễn Văn Dũng; 198X của Quỳnh Trang; Lạc giới – Thủy
Anna; Xin lỗi em, Anh đã yêu anh ấy – Nguyễn Thơ Sinh… cũng đã cho thấy sự quan
tâm của xã hội đối với hiện tượng này.
Đồng tính trong khoa học và nghiên cứu
Trên thế giới, những cuộc nghiên cứu khoa học về đồng tính bắt đầu từ thế kỉ XVI
đến tận bây giờ. Chưa dừng lại ở đó, họ còn có nhiều cuộc nghiên cứu đang dần có quy
mô lớn hơn chưa được công bố.
Đã từng nói đồng tính chỉ phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Dù vậy hiện
nay có khá nhiều nghiên cứu về đồng tính từ giới trẻ và các trường đại học. Nhưng ta vẫn
chưa có một cuộc nghiên cứu có chuyên môn hơn nhưng những nghiên cứu của các
trường đại học cũng đã cho ta thấy được sự mở lòng của người Việt đối với người đồng
tính.
1.3. Quan niệm của xã hội về đồng tính
1.3.1 Thái độ của người thân
Ta có thể chia thành hai loại
+ Đã biết người thân mình có xu hướng đồng tính từ nhỏ. Những người này thì họ đã
quen với việc người thân mình là người đồng tính từ khi con nhỏ nên họ khá bình thản
trong việc này. Nhưng chuyện kết hôn với người đồng giới thì vẫn còn là một trở ngại.
+ Mới phát hiện hoặc người thân công khai với gia đình. Thường thì họ sẽ bị một cú sốc
(shock) khá lớn. Đặc biệt là cha mẹ. Việc công khai là người đồng tính đã gây cho họ
một cú sốc lớn như vậy thì việc người thân họ kết hôn với người đồng giới thì sẽ ra sao


đây? Nhưng chắc chắn rằng việc đó sẽ càng khó khăn hơn vạn lần đối với những người
đồng tính khác.
Từ đó ta có thể thấy việc công khai của người đồng tính không phải là đơn giản như
nói vài câu "tôi là người đồng tính". Mà việc công khai gặp phải rào cản lớn nhất chính
là từ phía gia đình và người thân.
1.3.2 Thái độ của mọi người

Nhìn chung, những người ở lứa tuổi thanh niên đến trưởng thành thì dường như họ
có cách nhìn nhận về đồng tính thoáng hơn. Còn những người ở thế hệ ông bà thì họ
thường không thể chấp nhận việc con cháu mình là người đồng tính. Họ tôn trọng cái gọi
là "trời sinh" nên chuyện chấp nhận cho con cháu mình một giới tính khác thì với họ là
một sự khó khăn. So với quốc tế thì nước ta vẫn chưa hẳn là hoàn toàn ủng hộ. Nhưng
chúng ta cũng nên vui vì trong khoảng thời gian gần đây có rất nhiều cuộc diễu hành, sự
kiện dành cho người đồng tính và những người ủng hộ "thế giới thứ ba".
1.3.3 Thái độ của báo chí
Vào những năm trước, khi đồng tính được "du nhập" vào Việt Nam thì dường như
đa số báo chí thường có những tiêu đề trên báo mang tính đả kích chẳng hạn như: "Đồng
tính là một lối sống bệnh hoạn?" hay "Giới trẻ đang đùa đòi học theo mốt 'đồng tính".
Nhưng dần dần những nhà báo đã có cái nhìn tích cực hơn. "Lặng người trước tâm thư
chàng trai gửi người yêu đồng tính đã khuất" hoặc “phát hờn” trước hạnh phúc của cặp
đồng tính đáng yêu nhất Thái Lan". Họ thường chúc phúc cho các cặp đôi hoặc chia
buồn với họ.
1.4 Thái độ của chính người đồng tính: công khai – hạnh phúc là sống thật
Nhu cầu của con người là được sống thật với chính mình bởi khi đó chúng ta mới
thật sự hạnh phúc. Người đồng tính cũng vậy, nhưng quyết định sống thật và sống công
khai không phải lúc nào cũng dễ dàng với người đồng tính vì còn có những định kiến và
hiểu lầm về người đồng tính đến từ chính bản thân họ, từ gia đình và xã hội. Khi một
người phát hiện ra mình có tình cảm với người cùng giới, họ cảm thấy hoang mang lo
lắng vì điều đó không giống với số đông các bạn cùng trang lứa. Họ mất một thời gian
tìm hiểu thông tin để có thể chấp nhận bản thân mình và sống thật với mình. Rồi họ cũng
phải tìm cách để nói với gia đình và những người xung quanh biết mình là người đồng
tính. Có người trải qua hành trình này một cách dễ dàng, có người mất vài ba năm. Có
những người không bao giờ đi hết hành trình. Có những hành trình đầy nước mắt, vật vã
đau khổ. Có những hành trình kết thúc bằng niềm hạnh phúc. Tất cả những điều đó phụ
thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết của chính người trong cuộc, sự hỗ trợ của gia đình và
người xung quanh. Qua nhiều cuộc phỏng vấn từ các trang báo trẻ, ta thấy được những
người đồng tính họ quyết định công khai dù biết rằng đó là một việc không hề dễ dàng gì



nhưng họ vẫn quyết định công khai. Rồi cuối cùng khi vượt qua tất cả thì họ đã có được
hạnh phúc cho riêng mình.
"Công khai – hạnh phúc là sống thật" là một thông điệp rất ý nghĩa dành cho những
người đang lo lắng về việc công khai giới tính thật hay những người không có ý định
công khai. Thông điệp này như một động lực, một cái đẩy lưng để người đồng tính bước
thêm một bước lớn để hoàn thiện bản thân mình. Dù rằng biết phía trước đầy chông gai
những họ vẫn phải đi tiếp vì chính ước mơ của mình.


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HIỂU BIẾT
VỀ ĐỒNG TÍNH Ở LỨA TUỔI THPT
2.1 Vài nét về đặc điểm lứa tuổi HS THPT
Mỗi con người sinh ra và lớn lên ai cũng cần một không gian nhất định để phục vụ
cho các hoạt động sống như sinh hoạt, vui chơi, nghỉ ngơi, sản xuất của mình. Không
gian đó chính là môi trường xung quanh chúng ta_nơi chứa đựng toàn bộ những yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội ảnh hưởng đến đời sống và nhân cách con người. Ở mỗi giai đoạn
phát triển của con người thì môi trường tác động đến nhân cách thông qua những giá trị
vật chất và giá trị tinh thần khác nhau. Lứa tuổi chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của môi
trường đến nhân cách là lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông. Đây là giai đoạn mà các
em đã phát triển tương đối về mặt tâm lý, đang trong thời kỳ tích lũy kiến thức, tu dưỡng
đạo đức để chuẩn bị cho cuộc sống trưởng thành, phần lớn các em đã biết định hướng cho
tương lai của mình, biết làm chủ suy nghĩ và hành động của mình. Môi trường xung
quanh cho các em những điều kiện tốt nhất để phát triển, để hòa nhập và chung sống với
cộng đồng, với xã hội. Ngay từ khi còn bé đã biết giao lưu với người lớn, với môi trường
tự nhiên và xã hội dần dần nhân cách các em được hoàn thiện. Việc quan tâm đến các em
ở lứa tuổi Trung học phổ thông là trách nhiệm không chỉ của gia đình, nhà trường mà còn
của toàn xã hội. Trong sự phát triển nguồn nhân lực cho đất nước đang đổi mới hiện nay,
rõ ràng nổi lên yêu cầu cấp bách là nâng cao chất lượng người lao động, đào tạo nhân tài,

đào tạo con người có nhân cách phù hợp với xã hội mới. Các em là những con người mới,
con người của thời đại, là những chủ nhân tương lai của đất nước vì vậy chúng ta cần tạo
cho các em một môi trường tốt nhất cho các em phát triển. Tuy nhiên, trước sự phát triển
của cuộc sống hiện đại, những tác động tiêu cực của xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của các em cũng là một điều đáng lo ngại.
2.1.1 Đặc điểm lứa tuổi THPT
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy
thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi,
được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên
+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh viên)
Lứa tuổi học sinh THPT là thuộc giai đoạn đầu
Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó
được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì không
phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng trùng hợp với
các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất,


nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa
tuổi. Chính vì vậy mà các nhà tâm lý học Macxit cho rằng: Khi nghiên cứu tuổi thanh
nên thì cần phải kết hợp với quan điểm của tâm lý học xã hội và phải tính đến quy luật
bên trong của sự phát triển lứa tuổi. Do sự phát triển của xã hội nên sự phát triển của trẻ
em ngày càng có sự gia tốc, trẻ em lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng đầy đủ diễn ra sớm
hơn so với các thế hệ trước, nên tuổi dậy thì bắt đầu và kết thúc sớm hơn khoảng 2 năm.
Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn. Nhưng việc phát triển tâm lý của tuổi
thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội
(vị trí của thanh niên trong xã hội; khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được
và một loạt nhân tố khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Trong thời đại ngày
nay, hoạt động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian học tập của các em kéo
dài làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm. Do đó có sự kéo dài

của thời kì tuổi thanh niên và giới hạn lứa tuổi mang tính không xác định (ở mặt này các
em được coi là người lớn, nhưng mặt khác thì lại không).
Thanh thiếu niên hay còn gọi là Teen, xì-tin, tuổi ô mai là một giai đoạn chuyển tiếp
thể chất và tinh thần trong sự phát triển của con người diễn ra giữa giai đoạn trẻ em và
trưởng thành. Sự chuyển tiếp này liên quan tới những thay đổi về sinh học (ví dụ dậy
thì), xã hội và tâm lý, dù những thay đổi về sinh học và tâm lý là dễ nhận thấy nhất. Về
lịch sử, tuổi dậy thì thường gắn liền với tuổi teen (13-19) và sự bắt đầu của sự phát triển
tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự bắt đầu giai đoạn dậy thì đã có
một sự gia tăng trong thiếu niên (đặc biệt là nữ, như được thấy với dậy thì sớm); thỉnh
thoảng tuổi thiếu niên được kéo dài tới sau cả tuổi teen (đặc biệt ở nam). Những thay đổi
này đã khiến việc định nghĩa một cách chắc chắn khung thời gian của tuổi thiếu niên trở
nên khó khăn.
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển
thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa cân đối. Ở tuổi đầu thanh
niên, học sinh THPT vẫn còn tính dễ bị kích thích ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách
sống của cá nhân ở độ tuổi này. Nhìn chung lứa tuổi THPT có sự phát triển về thể chất
ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tâm lí và nhân cách cũng như ảnh hưởng
tới những lựa chọn trong cuộc sống.
2.1.2 Phân tích đặt điểm lứa tuổi
Tuổi đầu thanh niên là tuổi của những người đang lớn nhưng chưa thành người lớn,
những người thu nhận thông tin nhưng không phải là người uyên bác, những người ham
mê nhưng không phải say mê.
Còn về đặc điểm nhận thức và phát triển trí tuệ ở học sinh THPT: nhận thức, hiểu biết
rộng và phong phú hơn. Cụ thể:


×