Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Luận văn Quản lý tài chính tại Sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.61 KB, 111 trang )

NGUYỄN THỊ HẠNH

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI SỞ XÂY DỰNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn ............................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................. 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................... 13
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 13
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ
CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC ……………………………………………………... 14
1.1. Khái niệm về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối
với cơ quan hành chính nhà nước …...................................................... 14
1.2. Nội dung chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các
cơ quan hành chính nhà nước ........................................................... 23
1.3. Kinh nghiệm quản lý tài chính tại Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm rút
ra cho Việt Nam ....................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO
CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI SỞ XÂY DỰNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH …….......................................................... 42
2.1. Giới thiệu khái quát về Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh ....... 42


2.2. Thực trạng quản lý tài chính nội bộ theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm tại Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh ..................................... 45
2.3. Đánh giá thực trạng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính tại
sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh …................................................... 64
Chương 3 : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH
NHIỆM TẠI SỞ XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............ 76
3.1. Các quan điểm chỉ đạo đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan
hành chính nhà nước …............................................................................ 76
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính đối với các cơ quan hành
chính nhà nước ……................................................................................ 79
3.3. Một số kiến nghị.............................................................................. 93
KẾT LUẬN ................................................................................................ 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Từ năm 2001, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách hành
chính nhà nước mang tính toàn diện, lâu dài, có ý nghĩa quan trọng đối với sự
nghiệp phát triển đất nước. Chính phủ đã ban hành Chương trình Tổng thể cải
cách hành chính với 4 nội dung cơ bản bao gồm: Cải cách thể chế; Cải cách
tổ chức bộ máy hành chính; Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức và cải cách tài chính công nhằm xây dựng một hệ thống hành
chính công tiên tiến, phù hợp trong điều kiện mới. Trong đó, cải cách tài
chính công là khâu đột phá trong tiến trình cải cách nền hành chính Việt
Nam. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ đã quy định một cách cụ thể, chi tiết
và rõ ràng cơ chế tài chính áp dụng cho các cơ quan hành chính nhà nước đó
là Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ
quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí

quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước và Nghị định số
117/2013/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính
phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh
phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước.
Kết quả thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP đã khẳng định đây là
chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nâng cao trách nhiệm
của thủ trưởng và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức trong việc sử
dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao; từng bước khắc
phục tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới, cấp
dưới chờ đợi sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên. Hơn nữa, góp phần thúc đẩy các
cơ quan hành chính nhà nước rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp lại tổ
1


chức bộ máy theo hướng tinh gọn, sử dụng, bố trí cán bộ công chức phù hợp
về trình độ chuyên môn đào tạo và năng lực thực tế với yêu cầu của vị trí
công tác; các cơ quan hành chính nhà nước được tự quyết định bố trí số kinh
phí được giao tự chủ vào các mục chi cho phù hợp, được quyền điều chỉnh
giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ được giao vì
vậy tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chủ động trong quá trình chi tiêu,
đồng thời thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong các khâu phân bổ, chấp
hành và quyết toán ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, cơ chế này cũng còn một số tồn tại như sau:
Thứ nhất, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP quy định việc xác định định
mức ngân sách giao thực hiện cơ chế tự chủ chủ yếu căn cứ vào biên chế, nên
chưa gắn với kết quả, chất lượng công việc. Các Bộ, ngành ở Trung ương và
địa phương luôn có xu hướng đề nghị tăng biên chế để được giao tăng kinh
phí tự chủ.
Thứ hai, quyền tự chủ của đơn vị, thủ trưởng đơn vị còn hạn chế, do cơ

quan được tự xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nhưng mức chi không được
vượt các tiêu chuẩn, định mức chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Kinh phí giao thực hiện tự chủ nhưng vẫn phải đảm bảo có chứng
từ, hóa đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy định; vì vậy nhiều khoản chi (khoán
văn phòng phẩm, khoán sử dụng điện thoại tại công sở...) cơ quan thực hiện
tự chủ đã thực hiện khoán cho (từng bộ phận, cán bộ) nhưng vẫn phải có hóa
đơn để hợp thức hóa chứng từ quyết toán.
Thứ ba, việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan mang tính
hình thức, quy định chi trả thu nhập tăng thêm còn mang tính bình quân, cào
bằng không theo kết quả, năng suất lao động nên không khuyến khích, không
tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức.

2


Thứ tư, theo quy định về giao biên chế, số biên chế được giao cho từng
cơ quan nhà nước dựa trên Quyết định của cơ quan có thẩm quyền nhưng trên
thực tế lại giao kinh phí trên thực tế số cán bộ, công chức có mặt nhân với
10%. Nếu con số này nhỏ hơn số biên chế được giao thì giao theo số này, còn
con số này lớn hơn số biên chế được giao thì giao theo Quyết định của cơ
quan có thẩm quyền. Mặc dù đơn vị tiết kiệm nhân sự, vẫn hoàn thành nhiệm
vụ được giao nhưng không có kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập cho cán bộ,
công chức. Do đó, cơ chế chưa thực sự giao quyền tự chủ về biên chế và kinh
phí cho các cơ quan hành chính nhà nước.
Qua quá trình công tác trực tiếp tại cơ quan hành chính nhà nước - Sở
Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh - cơ quan trực thuộc tham mưu cho Ủy
ban nhân dân thành phố. Tôi nhận thấy một số tồn tại nêu trên, vậy thì, vấn đề
đặt ra là cần thiết “Đánh giá những tác động (ưu điểm, bất cập) của cơ chế tự
chủ tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với
công tác quản lý tài chính tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh”. Từ khi

thực hiện theo cơ chế giao biên chế và khoán kinh phí thì công tác quản lý tài
chính tại các cơ quan hành chính nhà nước bị ảnh hưởng như thế nào? Làm
thế nào để phần nào vừa chi hoạt động hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được
giao vừa có kinh phí để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức tạo động lực
làm việc. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Quản lý tài chính tại Sở Xây dựng thành
phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp một phần
nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính tại cơ quan
đồng thời kiến nghị một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với
các cơ quan hành chính nhà nước nói chung.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề quản lý tài chính về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các cơ
quan nhà nước được rất nhiều độc giả quan tâm, nghiên cứu, bao gồm như
sau:
- Bài viết “Chế độ tự chủ trong sử dụng kinh phí quản lý hành chính” đăng
trên Tạp chí Tài chính của tác giả Nguyễn Đức Thọ (2012), Vụ Kế hoạch Tài
chính, Bộ Tài chính. Tác giả đã đánh giá sự phù hợp và hiệu quả của cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành
chính, nêu lên một số thành quả đạt được của một số đơn vị nhà nước. Đồng
thời, tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục, một là chưa có một
căn cứ xác đáng để quy định tỷ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn của
mỗi cơ quan so với số lượng biên chế như thế nào là phù hợp; hai là chưa có
sự phân định giữa chi phí mua sắm tài sản cố định được giao; ba là quyền tự
chủ và trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị còn chưa được thể hiện rõ nét; bốn
là các cơ quan chủ quản cấp trên, Ủy ban nhân dân các cấp chưa ban hành
các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của
các cơ quan trực thuộc khi thực hiện chế độ tự chủ. Từ đó, tác giả đề xuất

một số giải pháp hoàn thiện chế độ tự chủ và sử dụng kinh phí quản lý hành
chính của các cơ quan nhà nước.[25]
- Bài viết “Đổi mới về chế độ tự chủ trong quản lý đối với cơ quan nhà nước”,
được đăng trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính (2014), trong đó nêu
lên những thành tựu cũng như mốt số hạn chế trong việc đổi mới cơ chế quản
lý hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính, đó là một số cơ quan chưa
thực sự chủ động trong việc sử dụng biên chế và kinh phí được giao, gắn việc
sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc; còn lúng túng, vướng
mắc trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ; một số cơ chế chính sách
chưa được cụ thể hóa, hoàn thiện nên các cơ quan còn bị động trong quá trình
4


triển khai thực hiện. Do đó, tác giả đã nếu lên một số điều bổ sung, sửa đổi để
nhằm hoàn thiện hơn cơ chế tự chủ trong quản lý tại cơ quan nhà nước.[44]
- Bài viết “Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí tại cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp” đăng trên Tạp Chí Tài chính của TS. Nguyễn Đức
Thọ (2017), Bộ Tài chính. Trong bài viết này, tác giả chú trọng đánh giá công
tác xét duyệt quyết toán và kiểm tra nội bộ về quản lý, sử dụng kinh phí.
Thứ nhất là về Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 đã quy định rất rõ về
công tác này tại Điều 12, Điều 32 và Điều 32. Thứ hai là những hạn chế phát
sinh từ thực tế đó là thời gian thực hiện công tác xét duyệt quyết toán của cơ
quan hành chính sự nghiệp cấp trên đối với cơ quan hành chính sự nghiệp
trực thuộc thường chỉ được thực hiện trong thời gian ngắn (từ 1 đến 3 ngày);
chỉ một số ít cơ quan thực hiện công tác kiểm tra nội bộ về quản lý, sử dụng
kinh phí. Từ đó, tác giả đề xuất mô hình thực hiện.[26]
Khảo sát ở khía cạnh các công trình luận văn nghiên cứu có đề tài liên
quan đến mảng công tác này tại Học viện Hành chính quốc gia, hiện đã công
nhận các công trình nghiên cứu có nội dung liên quan như sau: Hầu hết các
công trình này đều là kinh nghiệm quản lý tài chính tại các cơ quan, đơn vị sự

nghiệp. Những cơ quan, đơn vị này ngoài nguồn thu từ ngân sách nhà nước,
còn có một phần nguồn thu dịch vụ, tự đảm bảo một phần chi phí, do đó,
trong công tác quản lý tài chính sẽ có một số khác biệt nhất định, cụ thể như
sau:
- Nguyễn Ngọc Đức (2011), Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính
nội bộ theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Kho bạc nhà nước đến
năm 2020, luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Công trình
nghiên cứu của tác giả về cơ quan chuyên môn nghiệp vụ - Kho bạc nhà nước
- là cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ nhưng đặc thù lại hoạt
5


động như một ngân hàng của Chính phủ. Trong đó, tác giả đã hệ thống hóa
những vấn đề, quy định của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ
quan hành chính nhà nước và cơ chế quản lý tài chính nội bộ của Kho bạc
nhà nước, phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính nội bộ
theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Kho bạc nhà nước. Tác giả đã chỉ
ra được kết quả và những hạn chế cũng như những vướng mắc trong việc
triển khai thực hiện quản lý tài chính tại Kho bạc nhà nước. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng thực hiện quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, xem xét nguyên
nhân, mục tiêu và định hướng của hệ thống Kho bạc nhà nước, luận văn cũng
đề cập một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Kho bạc nhà nước.
Một điểm khác so với các cơ quan hành chính nhà nước đó là nguồn
kinh phí hoạt động của Kho bạc nhà nước gồm hai nguồn: Một là từ nguồn
thu từ ngân sách nhà nước để chi trả lương cho cán bộ, công chức làm việc tại
Kho bạc và hai là từ nguồn hoạt động nghiệp vụ (nguồn thu này chiếm đến
85%, 87% tùy từng năm trong tổng nguồn thu). Vì vậy, Kho bạc nhà nước có

nguồn kinh phí để vừa mua sắm, nâng cấp sửa chữa trang thiết bị hiện đại,
vừa đảm bảo một phần thu nhập cho cán bộ, công chức. [26]
- Trần Thị Thanh Ngọc (2011), Hoàn thiện quản lý tài chính tại Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Là
một đơn vị sự nghiệp thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học công nghệ
trực thuộc Chính phủ, tác giả đã hệ thống hóa lý thuyết và phân tích thực
trạng về công tác quản lý tài chính tại Viện, bước đầu đã đạt được một số kết
quả nhất định nhưng cũng còn một số hạn chế từ khâu lập kế hoạch đến quản
lý thu, chi tiêu. Việc đáp ứng nguồn tài chính cho hoạt động có lúc, có nơi
còn chậm trễ, quy trình thanh quyết toán chưa thực hiện tốt. Từ đó, tác giả đề
xuất một số giải pháp gồm: Đổi mới quản lý tài chính về cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ trên cơ sở đổi mới mô hình quản lý tài chính; đổi mới quản lý
6


nguồn thu, đặc biệt là nguồn thu từ ngân sách nhà nước; đổi mới quản lý chi
tài chính, chú trọng quản lý các nhiệm vụ chi từ ngân sách nhà nước; tăng
cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính, chú trọng từ việc tự kiểm soát
đến tăng cường hoạt động kiểm soát của các bộ phận chức năng; hiện đại hóa
quản lý tài chính, bao gồm cả việc áp dụng mô hình, quy trình quản lý tài
chính, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý tài
chính; tăng cường đào tạo năng lực cán bộ để đáp ứng yêu cầu quản lý tài
chính trong giai đoạn công nghiệp hóa và hội nhập. [46]
- Nguyễn Tùng Lâm (2012), Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính ở
cấp quận qua thực tiễn Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội, luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả về cơ bản
cũng hệ thống hóa những lý luận về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Với đặc thù là cơ quan hành
chính nhà nước cấp quận, có cơ cấu nguồn thu trong địa bàn quận và ngân
sách cấp, tác giả cũng phân tích và đánh giá về công tác thực hiện chế độ tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính tại Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 – 2011, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng
cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính tại quận giai đoạn 2012 –
2020. [29]
- Hồ Thị Ngọc Hương (2015), Quản lý nhà nước về tài chính trong các trường
trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn Thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia. Tác giả về cơ bản cũng hệ thống hóa những lý luận về
cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Với đặc thù
là đơn vị sự nghiệp trường học, gồm các nguồn thu từ ngân sách, thu học phí
và thu dịch vụ, tác giả cũng phân tích và đánh giá về công tác thực hiện quản
lý thu chi tài chính tại các trường trung cấp nghề trên địa bản tỉnh Thừa Thiên
Huế, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý tài chính tại
đơn vị sự nghiệp trường học.
7


- Nguyễn Sỹ Tá (2009), Quản lý nhà nước về tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp thuộc Văn phòng Chính phủ ở Việt Nam, luận văn Thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia. Tác giả về cơ bản cũng hệ thống hóa những lý luận về
cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp nhà nước nói chung.
Với đặc thù là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Văn phòng Chính phủ, bao gồm
các nguồn thu từ ngân sách và thu dịch vụ, tác giả cũng phân tích và đánh giá
thực trạng công tác thực hiện quản lý thu chi tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp thuộc Văn phòng Chính phủ ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải
pháp tăng cường công tác quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp trực thuộc.
Nhìn chung, thông qua những bài viết, công trình nghiên cứu mà tác giả
có cơ hội tìm hiểu, tiếp cận, việc phân tích các vấn đề liên quan mà các luận
văn này đề cập đến còn mang tính chất khái quát khá cao, thể hiện ở góc độ
phạm vi nghiên cứu khá rộng lớn, hoặc các vấn đề luận văn đề cập đến
thường tập trung khai thác đối với cấp quản lý nhà nước ở cơ sở, tính đến nay

chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu quản lý tài chính tại cơ quan
hành chính nhà nước, chỉ có nguồn ngân sách cấp dựa trên số biên chế được
cấp có thẩm quyền giao (ví dụ như các Sở ban ngành trực thuộc, cơ quan
tham mưu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), thu phí, lệ phí và một số khoản thu
hợp pháp theo quy định của pháp luật (như thu từ thanh lý tài sản,…), không
có nguồn thu từ dịch vụ.
Do đó, tác giả xin có sự chọn lọc dữ liệu trong việc tiếp thu một số nội
dung của các bài viết liên quan trên; kết hợp với vốn tri thức và thực tiễn
công tác đã được tiếp cận phát triển thành tên đề tài luận văn: “Quản lý tài
chính tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh”.

8


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Căn cứ vào vấn đề đã được xác định nêu trên, kết hợp với những hiểu
biết của tác giả trong quá trình tiếp cận thực tiễn, luận văn hướng đến những
mục đích sau:
Thứ nhất, cập nhật, hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý tài chính theo
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính nhà nước
trong bối cảnh hiện nay.
Thứ hai, phân tích những mặt đạt được, hạn chế, các tồn tại và nguyên
nhân cơ bản trong công tác quản lý tài chính tại Sở Xây dựng thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2014 đến nay.
Thứ ba, tìm kiếm, xây dựng các giải pháp, các kiến nghị cụ thể, phù hợp
để nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực hiện quản lý tài chính gắn với tình hình
đặc điểm của Sở Xây dựng nói riêng cũng như đối với việc thực hiện quản lý
tài chính tại các cơ quan hành chính nhà nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được những mục đích cơ bản nêu trên, cần thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu, hệ thống hóa những cơ sở khoa học về quản lý tài chính
theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại cơ quan hành chính nhà nước.
Nghiên cứu, phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính theo cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất một số định hướng và giải pháp nâng cao công tác quản lý tài
chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Sở Xây dựng thành phố Hồ
Chí Minh.

9


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Đối tượng của luận văn mà tác giả tiếp cận và hướng đến: Đánh giá
những tác động của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đến công tác quản lý
tài chính tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đối với hoạt động của Sở
Xây dựng trong việc thực hiện nhiệm vụ và chức năng.
4.2. Phạm vi
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu về không gian của đề tài luận văn này
bao gồm hoạt động thu, chi, quản lý tài chính về kinh phí chi thường xuyên
tại Sở Xây dựng.
- Về thời gian: Nghiên cứu của tác giả đánh giá, thực hiện luận văn trong 6
tháng về các văn bản pháp quy được rà soát từ năm 2005 (khi Nghị định
130/2005/NĐ-CP ra đời) và số liệu sơ cấp trong báo cáo tài chính tại Sở Xây
dựng từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật làm cơ sở phương pháp
luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Từ kết quả những nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu
như sau
Mô hình nghiên cứu đề xuất

10


CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CƠ CHẾ

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠI
SỞ XÂY DỰNG

TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH
NHIỆM VỀ TÀI CHÍNH
(i)

- Quản lý nguồn thu
- Quản lý chi tiêu
- Quản lý quy trình ngân sách
- Xây dựng và thực hiện uy chế chi
tiêu nội bộ

Quản lý nguồn kinh phí hoạt
động
-


Quản lý, sử dụng kinh phí

bộ

Thực trạng chi tiêu tài chính nội

-

Quy trình quản lý ngân sách

Xây dựng và thực hiện quy chế
KINH NGHIỆMchi
TỪtiêu nội bộ
QUẢN LÝ NGÂN
NHẬN XÉT
SÁCH TẠI HOA KỲ
Những kết quả
(ii) đạt được
Những hạn chế
và nguyên nhân

Định
hướng &
đề xuất
(iii)
nâng cao
quản lý
tài chính

giải pháp

công tác

(i) Hệ thống hóa cơ sở khoa học về quản lý tài chính theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và chi phí quản lý hành chính.
(ii) Phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Sở Xây dựng thành phố
Hồ Chí Minh. Từ thực trạng công tác quản lý tài chính, đưa ra những kết
quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
(iii) Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của công tác quản lý
tài chính, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quản lý ngân sách tại Hoa
Kỳ để đề xuất định hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý tài
chính tại Sở Xây dựng nói riêng và các cơ quan hành chính nhà nước nói
chung.
Dựa vào mô hình nghiên cứu như trên, tác giả đề xuất trình tự nghiên
cứu, cụ thể như sau:

11


Trong chương 1, dựa trên những lý luận khoa học, những quy định của
pháp luật hiện hành về công tác quản lý tài chính. Tác giả trình bày một cách
có hệ thông, logic và tổng hợp đẩy đủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính đối với cơ quan hành chính nhà nước nói chung. Từ những cơ sở
khoa học đã được hình thành nêu trên để phân tích, đánh giá về những đối
tượng sau:
Thứ nhất là từ kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước tại Hoa Kỳ, đối
chiếu với quy định của Việt Nam về quản lý ngân sách để đánh giá hiệu quả
của công tác này.
Thứ hai là từ bài học kinh nghiệm của Hoa Kỳ, rút ra bài học về quản lý
ngân sách nhà nước cho các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Trong chương 2, tác giả tập trung đi sâu phân tích thực trạng quản lý tài

chính tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh, với những yêu cầu về chức
năng, nhiệm vụ được giao, cùng với cơ chế quản lý về biên chế và tài chính
như vậy, Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh có đáp ứng được không?
Từ phân tích thực trạng tác giả sẽ đánh giá những kết quả đạt được và
nguyên nhân hạn chế từ công tác quản lý tài chính tại Sở Xây dựng thành phố
Hồ Chí Minh.
Trong chương 3, thông qua việc phân tích những nguyên nhân hạn chế
của chương 2, học tập kinh nghiệm của Hoa Kỳ để tác giả có cái nhìn tổng
quát hơn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
tại Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cơ quan hành chính nhà
nước nói chung.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như sau:
Phương pháp phân loại lý thuyết: Là phương pháp sắp xếp các tài liệu
khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức,
12


từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất, có cùng hướng phát triển để
dễ nhận biết, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu, giúp phát hiện các quy
luật phát triển của đối tượng, sự phát triển của kiến thức khoa học để từ đó dự
đoán được các xu hướng phát triển của khoa học và thực tiễn.
Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết: Là phương pháp sắp xếp những
thông tin đa dạng thu thập được từ các nguồn, các tài liệu khác nhau thành
một hệ thống với một kết cấu chặt chẽ (theo quan điểm hệ thống – cấu trúc
của việc xây dựng một mô hình lý thuyết trong nghiên cứu khoa học) để từ
đó mà xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh giúp hiểu biết đối tượng được
đầy đủ và sâu sắc hơn.
Phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh: Qua số liệu thực tế thống kê
tại Sở Xây dựng, báo cáo tài chính hàng năm (từ năm 2014 đến năm 2016),

so sánh, phân tích số liệu thực tế thu, chi các khoản chi thường xuyên nhằm
đánh giá thực trạng các khoản thu, chi, cân đối giữa các khoản chi cho con
người và chi phí quản lý hành chính thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Từ đó,
tác giả đề xuất phương án các khoản chi cho những năm tiếp theo vừa hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị, vừa đảm bảo một phần thu nhập tăng
thêm cho cán bộ, công chức (đối chiếu Nghị định 130/2005/NĐ-CP của
Chính phủ về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm và Thông tư Liên tịch
71/2014/TTLT-BTCBNV quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước).
Phương pháp tổng hợp: Nhằm đánh giá một cách toàn diện về mặt lý
luận và thực tiễn từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng nguồn tài chính của đơn vị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, với đề tài này, tác giả hy vọng cung cấp một cách hệ thống
cơ sở dữ liệu về các khái niệm và những vấn đề xoay quanh mang tính lý luận
13


về công tác quản lý tài chính, ngoài những khái niệm đã được dẫn chứng và
đề cập qua các công trình nghiên cứu trước đó.
Về thực tiễn, tác giả hy vọng có thể đóng góp những giải pháp thiết thực,
phù hợp với tình hình đặc điểm quản lý tài chính tại Sở Xây dựng, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại các cơ quan hành chính
nhà nước nói chung không có nguồn thu dịch vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở Đầu, Phần Kết Luận, Danh mục Tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 3 chương cơ bản:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm tại cơ quan hành chính nhà nước
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại Sở Xây dựng Thành phố Hồ

Chí Minh.
Chương 3: Định hướng và những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài
chính tại Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh.

14


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ CHẾ TỰ
CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
1.1. Khái niệm về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối
với cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1. Cơ quan hành chính nhà nước nói chung
Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập, hoạt động theo những
nguyên tắc, trình tự, có cơ cấu tổ chức và được giao những quyền lực nhà
nước nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một
phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước “là một bộ phận cấu thành của bộ máy
Nhà nước được thành lập ra để thực hiện chức năng quản lý điều hành mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội”[7,tr.262]. Cơ quan hành chính nhà nước mang
những đặc điểm như sau:
Cơ quan hành chính nhà nước hoạt động chấp hành và điều hành tức là
thực hiện các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước; trực tiếp chỉ đạo,
điều khiển các cơ quan, tổ chức, công dân và điều hành các hoạt động đó
hàng ngày.
Các cơ quan hành chính nhà nước được các cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước thành lập, hoạt động trên cơ sở pháp luật, nên luật điều chỉnh các
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước thực
hiện các công việc trên cơ sở chấp hành các nhiệm vụ được giao, các chỉ đạo

theo chủ trương kế hoạch của Nhà nước. Các cơ quan này có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực của nhà nước, chịu sự lãnh đạo,
giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.
15


Các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận mà hoạt động vì mục đích chung phục vụ cho lợi ích cộng đồng.

Cơ quan hành chính nhà nước được quyền nhân danh Nhà nước khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lý với mục đích hướng tới lợi ích công. Cơ quan hành chính nhà nước
có quyền ban hành các văn bản pháp luật như Nghị định, Quyết định, Chỉ thị
và áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước nhất định.
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Cơ cấu tổ chức của
cơ quan hành chính nhà nước được quy định cụ thể trong các văn bản pháp
luật như Luật tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015…
Nguồn nhân sự chính của cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán
bộ, công chức, được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo
quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 [30].
Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ Trung
ương đến địa phương, đứng đầu là Chính phủ, dưới Chính phủ là chính quyền
địa phương (gồm 3 cấp, tỉnh – thành phố, quận – huyện, phường – xã, thị
trấn) tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc,
có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực
thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
1.1.2. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương
Trong hệ thống chính quyền địa phương, đứng đầu là Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), cơ
16


quan chuyên môn, giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là các sở và cơ
quan ngang sở (sau đây gọi chung là Sở). Sở là cơ quan thực hiện chức năng
tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh
vực ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy
quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
trong đó quy định: [16].
Nhiệm vụ, quyền hạn của Sở
- Trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm
và hàng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải
cách hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước được giao;
b) Dự thảo văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

cơ cấu tổ chức của sở;
c) Dự thảo văn bản quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chức danh
đối với Trưởng, Phó các đơn vị thuộc sở; Trưởng, Phó trưởng phòng
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) trong phạm
vi ngành, lĩnh vực quản lý.
- Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ
chức,
đơn vị của sở theo quy định của pháp luật;

b) Dự thảo quyết định, chỉ thị cá biệt thuộc thẩm quyền ban hành của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

17


- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau
khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục,
theo dõi thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước
được giao.
- Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về giám định, đăng ký, cấp giấy phép,
văn bằng, chứng chỉ thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và các tổ chức phi chính phủ
thuộc các lĩnh vực quản lý của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp
luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về ngành, lĩnh vực quản lý và theo phân công hoặc
ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành, lĩnh vực quản lý đối với cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và chức danh chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ; xây
dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và
chuyên môn nghiệp vụ.
- Kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; giải quyết

khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và
theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

18


- Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng, phòng
chuyên môn nghiệp vụ, chi cục và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở, phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở theo hướng dẫn chung của
Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí
việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện chế độ tiền lương và
chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật đối với
công chức, viên chức và lao động thuộc phạm vi quản lý theo quy định của
pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính được giao theo quy định của pháp
luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực
hiện nhiệm vụ được giao với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ.
- Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh giao và theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của Sở thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm có: Văn
phòng, Thanh tra, Phòng chuyên môn, nghiệp vụ, Chi cục, Đơn vị sự nghiệp
công lập.
Các Sở được tổ chức thống nhất ở các địa phương, về cơ bản bao gồm:
Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công
Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở
Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở
Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh,
Văn phòng Ủy ban nhân dân.
19


Ngoài ra, các Sở đặc thù được tổ chức ở một số địa phương gồm: Sở
Ngoại vụ, Ban Dân tộc: Sở Quy hoạch - Kiến trúc (được thành lập ở thành
phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Cơ quan chuyên môn đặc thù khác
chỉ được tổ chức khi thật cần thiết, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển
kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương.
Cụ thể Sở Xây dựng là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà
nước về các lĩnh vực: Hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng
kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao
gồm:
Cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ
cao; quản lý chất thải rắn thông thường tại đô thị, khu công nghiệp, khu kinh
tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị;
công viên, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sỹ; kết
cấu hạ tầng giao thông đô thị, không bao gồm việc quản lý khai thác, sử
dụng, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đô thị; quản lý xây dựng ngầm đô thị;
quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị); nhà ở; công sở; thị
trường bất động sản; vật liệu xây dựng.
Cơ cấu tổ chức của Sở Xây dựng của các tỉnh không quá 08 đơn vị,
riêng đối với các thành phố trực thuộc Trung ương, cơ cấu tổ chức không quá
10 đơn vị, gồm: Văn phòng; Thanh tra; Phòng Quy hoạch - Kiến trúc; Phòng
Phát triển đô thị; Phòng Hạ tầng kỹ thuật; Phòng Quản lý xây dựng; Phòng
Cấp phép xây dựng; Phòng Kinh tế và Vật liệu xây dựng; Phòng Quản lý nhà
và thị trường bất động sản; Chi cục Giám định xây dựng (được tổ chức không

quá 02 phòng và 01 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Giám định chất lượng xây
dựng)[11].
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu tổng quan về các cơ quan nhà nước nói
chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, mang những đặc điểm
20


nhất định có thể thấy rằng có rất nhiều loại cơ quan hành chính nhà nước
khác nhau để quản lý tất cả các lĩnh vực phát sinh tồn tại trong một đất nước,
mỗi cơ quan thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Trong nghiên cứu này, cơ
quan hành chính nhà nước được hiểu là các Sở ban ngành trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn ngân sách cấp.
1.1.3. Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước
Quản lý “là quá trình mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý và
phương pháp quản lý thích hợp nhằm điều khiển đối tượng quản lý hoạt động
và phát triển nhằm đạt đến những mục tiêu đã định”[22,tr.670]. Quản lý được
sử dụng khi nói tới các hoạt động và các nhiệm vụ mà nhà quản lý phải thực
hiện thường xuyên từ việc lập kế hoạch đến quá trình thực hiện kế hoạch đồng
thời tổ chức kiểm tra, nó còn hàm ý cả mục tiêu, kết quả và hiệu năng hoạt
động của tổ chức.
Kế thừa những nghiên cứu khác nhau về tài chính, có thể thấy khi mối
quan hệ giữa kinh tế, hàng hóa, tiền tệ ngày càng phát triển thì càng có nhiều
quan niệm về tài chính. Theo Giáo trình Kinh tế chính trị của Học viện Chính
trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, “tài chính là một phạm trù kinh tế gắn
liền với sản xuất hàng hóa, tiền tệ và Nhà nước. Nó phản ánh phân phối tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức giá trị để hình thành và
sử dụng có kế hoạch các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung nhằm phục
vụ quá trình tái sản xuất và đời sống nhân dân” [21,tr.170].
Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của tác giả Dương Thị Bình Minh cho

rằng: “Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình
ành và phân phối quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng và
phát triển xã hội chủ nghĩa” [20,tr.7].

21


Theo giáo trình Chính sách Kinh tế - Xã hội của trường đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội định nghĩa: “Tài chính là những quan hệ thu chi tiền tệ, qua
đó hình thành nên những quỹ tiền tệ tập trung (như ngân sách nhà nước) và
không tập trung (vốn của các doanh nghiệp, hộ gia đình,…) và sử dụng
những quỹ tiền tệ đó để thực hiện những mục tiêu nhất định (mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội tích lũy và tiêu dùng…)” [47,tr.180].
Ngoài ra, có thể xem xét tiếp cận phạm trù này dưới hai góc độ sau: Một
là về hình thức, “tài chính là sự vận động của các dòng tiền tệ gắn liền với
quyền sở hữu hoặc chiếm dụng của mỗi chủ thể trong những khoảng thời
gian nhất định. Sự vận động của các dòng tiền thuộc mỗi chủ thể được nhìn
nhận rõ nét nhất thông qua hai mặt hoạt động thu, chi quỹ tiền tệ của chính
mỗi chủ thể đó”. Hai là về mặt nội dung, “tài chính là tổng thể các mối quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính thông qua
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau
của các chủ thể trong xã hội trong những không gian, thời gian nhất định”.
Tóm lại, tài chính là phương thức phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm của các
chủ thể trong nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu [7,tr.201].
“Tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước được hiểu là các hoạt
động thu và chi bằng tiền của các cơ quan nhà nước để đảm bảo hoạt động
thường xuyên của cơ quan nhà nước, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ mà
Nhà nước giao phó”[7,tr.264].
Các cơ quan, đơn vị Nhà nước hoạt động theo dự toán được cấp có thẩm
quyền giao, dựa vào nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp toàn bộ hoặc

một phần và các nguồn khác dựa trên nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp.
“Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước là quá trình
áp dụng các công cụ và phương pháp quản lý nhằm tạo lập và sử dụng các
quỹ tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước để đạt những mục tiêu
đã định”[7,tr.266].
22


Như vậy, quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước mang
những đặc điểm chung về quản lý tài chính đồng thời có những đặc thù riêng,
quan trọng nhất vẫn là phải đạt mục tiêu đề ra trong khi nguồn lực về tài
chính thì luôn có giới hạn, đòi hỏi các cơ quan hành chính nhà nước vừa phải
hoàn thành chức năng nhiệm vụ đồng thời đảm bảo một phần thu nhập cho
cán bộ, công chức và người lao động làm việc trong cơ quan nhà nước.
1.1.4. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các
cơ quan hành chính nhà nước
Hiện nay ở Việt Nam, cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành
chính nhà nước là cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và
kinh phí quản lý hành chính theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP
ngày 17/10/2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính
nhà nước.
Mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm[12]
- Tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước chủ động hơn trong việc
sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính một cách hợp lý nhất để
hoàn thành các chức năng và nhiệm vụ được giao.
- Thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong việc sử dụng lao động, kinh phí quản lý hành chính.
- Nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí quản lý hành chính,
tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.

- Thực hiện quyền tự chủ đồng thời gắn trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị và
cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của
pháp luật.
Nguyên tắc thực hiện cơ chế:
- Đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
23


×