Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
MỤC LỤC
DANH SÁCH NHỮNG TỪ VIẾT TẮT...................................................................2
MỞ BÀI.....................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................3
I.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung
3
1.
Khái quát về trả hồ sơ điều tra bổ sung.....................................................3
2.
Căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung..........................................................5
II. Thực tiễn thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam...................................................................................................7
1. Đánh giá chung về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo pháp luật tố
tụng hình sự năm 2003......................................................................................7
2. Nguyên nhân của tình trạng trả hồ sơ để ĐTBS giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng.....................................................................................................10
III. Một số giải pháp góp phần hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung..............12
1. Hoàn thiện sửa đổi bổ sung các điều luật trong luật tố tụng hình sự năm
2003.................................................................................................................12
2. Nâng cao trách nhiệm và năng lực, trình độ nghiệp vụ của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán...............................................................................13
3. Xử lý trách nhiệm đối với những người tiến hành tố tụng khi để xảy ra
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung....................................................................14
4.
Quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung...............................................14
5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để hạn
chế việc trả lại hồ sơ ĐTBS.............................................................................15
KẾT LUẬN.............................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................18
Page 1
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
DANH SÁCH NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
VKS
: Viện kiểm sát
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV
: Điều tra viên
HĐXX
: Hội đồng xét xử
KSV
: Kiểm sát viên
BLHS
: Bộ luật Hình sự
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ĐTBS
: Điều tra bổ sung
Page 2
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
MỞ BÀI.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu quan trọng đối với
việc làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án hình sự, tạo cơ sở cho việc
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội
và không bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các nước
trên thế giới, đều quy định chặt chẽ về chính trị, thủ tục điều tra vụ án hình sự. Tuy
nhiên, do hoạt động điều tra có bản chất là hoạt động nhận thức về sự kiện phạm
tội đã xảy ra trong quá khứ nên không thể tránh khỏi những sai lầm. Trong một số
trường hợp không thu thập được đầy đủ tài liệu chứng cứ để kết luận tội phạm và
người phạm tội do vi phạm các quyết định của pháp luật tố tụng hình sự làm cho
việc điều tra vụ án không được khách quan, đã dẫn đến trường hợp viện kiểm sát
với tư cách là cơ quan truy tố tội phạm hoặc Tòa án tư cách là cơ quan xét xử vụ
án phải trả hồ sơ vụ án điều tra bổ sung nhằm khắc phục những thiếu sót, tồn tại
trong giai đoạn điều tra trước đó để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Chính vì
vậy, luật một số nước trong đó có Việt Nam còn có chế định “ Trả hồ sơ để điều
tra bổ sung” giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
NỘI DUNG.
I. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ
sung
1. Khái quát về trả hồ sơ điều tra bổ sung
Những nguyên tắc được xác định trong tố tụng hình sự là tiền đề và cơ sở để
xây dựng nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều
1 BLTTHS năm 2003 quy định : “Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và các mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”. Do đó, mỗi cơ
quan tiến hành tố tụng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định nhưng có
quan hệ phối hợp với nhau, chế ước lẫn nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự.
Đối với nhiệm vụ “ điều tra bổ sung” theo yêu cầu của VKS hoặc tòa án yêu
cầu CQĐT, ĐTV thực hiện theo đúng yêu cầu đã nêu trong quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của VKS và Tòa án.
Page 3
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
Điều 168 BLTTHS năm 2003 quy định về việc VKS ra quyết định trả hồ sơ cho
CQĐT để điều tra bổ sung. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được thực hiện
trong thời gian truy tố quy định tại Khoản 1 Điều 166 BLTTHS.
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm ra quyết
định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong thời hạn quy định tại điểm b
Khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Trong quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, Thẩm
phán cần nêu rõ thuộc trường hợp nào quy định tại các điểm a,b,c Khoản 1 Điều
179 BLTTHS và những vấn đề cụ thể cần điều tra.
CQĐT có trách nhiệm điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án; nhưng khi Tòa
án trả hồ sơ theo quy định tại Điều 179 BLTTHS thì Tòa án phải ra quyết định trả
hồ sơ cho VKS mà không trả trực tiếp cho CQĐT. Nếu kết quả điều tra bổ sung
dẫn đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì CQĐT, VKS ra quyết định đình chỉ
theo thẩm quyền quy định tại Điều 164 và Điều 169 BLTTHS. Nếu kết quả điều tra
bổ sung không làm thay đổi quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án; nếu
kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi quyết định truy tố thì VKS ra cáo trạng mới
thay thế cáo trạng cũ và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử.
Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX cũng có thể ra quyết định yêu cầu điều tra bổ
sung, quyết định này phải tuân thủ theo quy định tại Điều 199 BLTTHS. Quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án
và lập thành văn bản.
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không được BLTTHS năm 2003 đặt
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nhưng Khoản 1 Điều 246 BLTTHS có quy định “
..”. Vấn đề “ bổ sung chứng cứ mới” cũng được phân chia thành hai giai đoạn
trước khi xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm và cũng do hai chủ thể VKS
và Tòa án đưa ra yêu cầu. Về bản chất thì vẫn là việc VKS và Tòa án yêu cầu bổ
sung chứng cứ và nếu Tòa án yêu cầu bổ sung chứng cứ mới thì Tòa án phải trả hồ
sơ để CQĐT thực hiện bổ sung chứng cứ mới, nhưng Luật không quy định bổ sung
chứng cứ mới phải thực hiện bằng một quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trong quyết định, bản án của mình Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án
sơ thẩm hoặc xét xử lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà
cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. ( Điều 250 BLTTHS)
Page 4
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
Trong thủ tục giám đốc thẩm cũng không đặt ra vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhưng Hội đồng giám đốc có quyền hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại ( Điều 287 BLTTHS).
Trong thủ tục tái thẩm, Hội đồng tái thẩm có quyền hủy bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại ( Điều 298 BLTTHS).
Mặc dù mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng
đều có một trách nhiệm, mục đích chung là “ Xác định sự thật của vụ án” ( Điều 10
BLTTHS)
Xác định sự thật của vụ án vừa là nội dung vừa là bản chất của hoạt động tố
tụng, là mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nên khi yêu cầu điều tra bổ
sung thì cơ quan có yêu cầu phải biết rõ yêu cầu điều tra bổ sung về nội dung gì;
cần điều tra làm rõ tình tiết nào trong vụ án; cần thu thập thêm chứng cứ, tài liệu
nào để đáp ứng yêu cầu chứng minh tội phạm mà không được yêu cầu điều tra bổ
sung một cách chung chung.
Như vậy, trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định của luật tố tụng hình sự quy
định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc cơ quan
điều tra để điều tra thêm vụ án hình sự. Theo các căn cứ được quy định trong Bộ
luật Tố tụng hình sự nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án hình sự, để Tòa án xét xử
một cách công minh, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
2. Căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để bỏ sung khi
nghiên cứu hồ sơ vụ vụ án phát hiện thấy:
Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát
không thể tự mình bổ sung được;
Căn cứ này được quy định tại Khoản 1 Điều 168 và điểm a Khoản 1 Điều
179 BLTTHS. Chứng cứ trong hồ sơ một vụ án hình sự là yếu tố quyết định để kết
luận hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Theo Thông tư liên tịch số 01/ 2010/
TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC Hướng dẫn thi hành quy định của Bộ Luật
tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung quy định: “ “Chứng cứ quan trọng
đối với vụ án” quy định tại Khoản 1 Điều 168 và điểm a Khoản 1 Điều 179
BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một
Page 5
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này
thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật”.Khi
nghiên cứu hồ sơ, Điều tra viên, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải
phân biệt cái gì là chứng cứ còn vẫn đề nào thuộc lĩnh vực đánh giá chứng cứ để
quyết định việc có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không. Nếu tổng hợp các
chứng cứ thu được chưa đủ để xác định đối tượng chứng minh theo quy định của
Điều 63 BLTTHS thì VKS, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Nếu thấy thiếu chứng cứ quan trọng mà Tòa án có thể tự mình bổ sung được
thì không phải trả hồ sơ điều tra bổ sung. Không trả hồ sơ nếu thiếu chứng cứ quan
trọng nhưng vẫn có thể truy tố xét xử được hoặc chứng cứ quan trọng không thể
thu thập được nữa.
Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng
phạm khác.
Căn cứ này được quy định tại Khoản 2 Điều 168 và điểm b Khoản 1 Điều
179 BLTTHS. Bị can, bị cáo phạm một tội khác là khác với tội mà Cơ quan điều
tra khởi tố, Viện kiểm sát truy tố. Mà không phải bị cáo phạm một tội khác mà
ngoài tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo còn phạm thêm tội hoặc bị cáo phạm tội
khác bao gồm cả trường hợp bị cáo phạm tối khác với tội Viện kiểm sát đã truy tố
và bị cáo thêm tội.
Có đồng phạm khác: trong nghiên cứu hồ sơ, KSV, Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa phát hiện còn có đồng phạm khác chưa khởi tố, truy tố ( người
phạm tội khác là đồng phạm với bị cáo) thì ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Nếu phát hiện có phạm tội, nhưng người này lại không phải đồng phạm theo
quy định tại Điều 20 BLHS thì VKS, Tòa án không được trả hồ sơ bổ sung mà chỉ
có quyền khởi tố tại phiên tòa theo điều 104 BLTTHS.
Mặt khác, trong những trường hợp nếu trên đã có quyết định tách vụ án của Cơ
quan điều tra hay có căn cứ tách vụ án thì không trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Khi pháp hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Được quy định tại Khoản 3 Điều 168 BLTTHS và điểm c Khoản 1 Điều 179
BLTTHS. Ngoài ra còn được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/ 2010/
TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC Hướng dẫn thi hành quy định của Bộ Luật
Page 6
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung quy định: “ vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng được hiểu là trong quá trình, điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng ,
không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy dịnhđã xâm hại
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện”.
II.
Thực tiễn thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
1. Đánh giá chung về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo pháp luật tố
tụng hình sự năm 2003.
a) Thực trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Theo báo cáo của VKS nhân dân Thành phố Hà Nội từ năm 2003 – 2007, Tòa
án thành phố Hà Nội và Tòa án các quận, huyện thuộc Thành phố Hà Nội trả hồ sơ
để điều tra bổ sung cụ thể từng năm như sau : Năm 2003: 8,47 % ( 297 vụ/ 3505
vụ); Năm 2004: 6, 25 % ( 233 vụ/ 3724 vụ); Năm 2005: 8, 11% ( 330/ 4067 vụ);
Năm 2006: 5,96 % ( 278 vụ/ 4657 vụ); Năm 2007: 5,62% ( 248 vụ/ 4412 vụ). Lý
do Tòa án các quận, huyện trên Thành phố trả hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng
cứ chiếm tỷ lệ 62%; bổ sung về tố tụng: 12,30%; để yêu cầu khởi tố bổ sung hoặc
thay đổi tội danh: 11,54%; trả hồ sơ vì lý do khác: 14,14%; trong đó có 151 vụ án
khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã dẫn đến đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Bên cạnh đó, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại VKS đã được VKSNDTC
thống kê trong 6 năm qua như sau: từ năm 2002 đến năm 2007 VKS các cấp đã trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung 16.704 vụ, chiếm tỷ lệ 5,22% trên
tổng số 318.396 vụ cho Cơ quan Điều tra để điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy
tố. Viện kiểm sát các cấp trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để điều tra bổ sung có
chiều hướng tăng, cụ thể: Năm 2002 chiếm tỷ lệ 3,78%, năm 2003: 3,62%; Năm
2004: 6,39%; Năm 2005: 5,84%; năm 2006: 5,76% và năm 2007: 5,86%. Lý do trả
hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng cứ chiếm tỷ lệ 73,76%, bổ sung về tố tụng:
11,92%, để yêu cầu khởi tố bổ sung hoặc thay đổi tội danh: 7,98%, vì lý do khác:
6,74%, có 121 vụ sau khi tiến hành điều tra bổ sung đã dẫn đến đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án.
Page 7
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
a) Những kết quả đạt được.
Về căn cứ việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là có căn cứ theo quy định pháp
luật, đáp ứng được yêu cầu làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Có nhiều vụ án
sau khi điều tra bổ sung đã làm rõ thêm chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội cho bị
can, bị cáo, truy tố thêm kẻ phạm tội mà trước đó CQĐT đã đình chỉ điều tra. Có
một số vụ án sau khi kết thúc điều tra bổ sung phải đình chỉ điều tra vì không đủ
chứng cứ hoặc hành vi của bị can bị điều tra không cấu thành tội phạm.
- Việc điều tra bổ sung của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo
đúng trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS năm 2003. Ví dụ: việc trả hồ sơ đề
điều tra bổ sung được thực hiện bằng một văn bản tố tụng là quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng ký và khi kết
thúc điều tra bổ sung, CQĐT ban hành bản án kết luận điều tra bổ sung.
- Việc giao nhận hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng được lập thành văn
bản có chữ ký của người giao và người nhận.
- Việc áp dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn trong thời hạn điều tra bổ
sung được thực hiện kịp thời theo đứng quy định của BLTTHS.
- Đối với yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ hoặc không rõ ràng đã
được CQĐT hoặc VKS trả lời bằng văn bản và trả lại hồ sơ cho cơ quan có yêu
cầu điều tra bổ sung.
Những kết quả đạt được này trong việc thực hiện chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đã góp phần có hiệu quả vào việc chứng minh tội phạm, làm rõ sự thật vụ án
và ý thức tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình dự.
Theo báo cáo của VKS nhân dân Thành phố Hà Nội từ năm 2003 – 2007, Tòa
án thành phố Hà Nội và Tòa án các quận, huyện thuộc Thành phố Hà Nội trả hồ
sơ để điều tra bổ sung cụ thể từng năm như sau : Năm 2003: 8,47 % ( 297 vụ/
3505 vụ); Năm 2004: 6, 25 % ( 233 vụ/ 3724 vụ); Năm 2005: 8, 11% ( 330/ 4067
vụ); Năm 2006: 5,96 % ( 278 vụ/ 4657 vụ); Năm 2007: 5,62% ( 248 vụ/ 4412 vụ).
Lý do Tòa án các quận, huyện trên Thành phố trả hồ sơ để điều tra bổ sung về
chứng cứ chiếm tỷ lệ 62%; bổ sung về tố tụng: 12,30%; để yêu cầu khởi tố bổ
sung hoặc thay đổi tội danh: 11,54%; trả hồ sơ vì lý do khác: 14,14%; trong đó có
151 vụ án khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã dẫn đến đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
vụ án.
Page 8
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
b) Những bất cập, hạn chế.
Một là: nhận thức pháp luật đối với một số quy định trong chế định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất nên việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung phải trả đi trả lại nhiều lần.
Ví dụ: trong các Điều 168, 179 BLTTHS năm 2003 đều quy định về trường hợp
trả hồ sơ điều tra bổ sung là “ có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng”.
Nhưng thế nào là “ vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng” thì các cơ quan
tiến hành tố tụng lại nhận thức khác nhau về quy định này. Cụ thể là: trong thời
gian điều tra vụ án CQĐT có vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm đó CQĐT cho là
không nghiêm trọng, nhưng Tòa án lại xác định là vi phạm nghiêm trọng trong thủ
tục tố tụng. Ví dụ: trong biên bản lấy lời khai không ghi hộ tên ĐTV mà chỉ ghi họ
tên Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT. Như vậy là không đúng với quy định
của Pháp lệnh Điều tra vụ án hình sự và không đúng với quyết định của CQĐT
phân công ĐTV thực hiện điều tra vụ án. Sự nhận thức khác nhau giữa cơ quan
tiến hành tố tụng có thể dẫn đến kết quả là hồ sơ vụ án phải trả đi trả lại nhiều lần,
thậm chí có vụ án phải có sự can thiệp của cấp trên của mỗi cơ quan mới giải quyết
được việc điều tra bổ sung
Hai là: có biểu hiện lạm dụng chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để hợp
lý hóa thời gian tố tụng, để thực hiện chỉ tiêu thi đua hàng quý, hàng năm về giải
quyết vụ án.
Ví dụ: thời gian điều tra vụ án gần kết thúc, nếu điều tra đầy đủ thì vi phạm
thời hạn điều tra nên CQĐT không tiếp tục củng cố chứng cứ mà ra bản kết luận
điều tra để chuyển hồ sơ lên VKS. Sự lạm dụng này ở VKS và Tòa án cũng được
thể hiện, nhất là vào thời điểm cuối tháng 6 và tháng 9 hàng năm, vì thời điểm này
là thời điểm tính điểm thi đua về số vụ án đã giải quyết tại các cơ quan tiến hành tố
tụng
Ba là: trình tự thủ tục điều tra bổ sung còn nhiều trường hợp thực hiện
không đúng.
Ví dụ: sau khi kết thúc điều tra bổ sung CQĐT ra bản kết luận điều tra, trong
bản kết luận điều tra bổ sung có tình tiết thay đổi nhưng cáo trạng vẫn giữ nguyên
dẫn đến việc là tình tiết vụ án trong bản cáo trạng khác với tình tiết vụa án trong
bản kết luận điều tra bổ sung.
Page 9
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
Bốn là: Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam trong thời gian điều tra
bổ sung gặp lúng túng. Vì có trường hợp thời hạn tạm giam để điều tra vụ án theo
quy định tại Điều 120 BLTTHS đã hết mà vụ án lại có yêu cầu điều tra bổ sung của
VKS hoặc Tòa án, nếu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư
trú nhưng lại có căn cứ để xác định là bị can sẽ trốn khỏi địa phương gây khó khan
cho việc điều tra bổ sung, nếu áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì không
biết căn cứ vào văn bản pháp luật nào.
2. Nguyên nhân của tình trạng trả hồ sơ để ĐTBS giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng.
a) Nguyên nhân chủ quan.
- Quá trình điều tra và lập hồ sơ vụ án, chưa có sự nhận thức thống nhất các
quy định của pháp luật hoặc việc chấp hành các thủ tục tố tụng chưa nghiêm, ở
nhiều vụ án các vi phạm, thiếu sót về tố tụng còn lặp lại như: không mời Luật sư
bào chữa trong trường hợp pháp luật quy định phải có người bào chữa; chưa xác
minh được việc thi hành án, xóa án tích, trưng cầu giám định; không lập biên bản
giao quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn, quyết định khởi tố.
- Một số vụ án trong quá trình điều tra, Kiểm sát viên không bám sát vụ án
nên không đề ra yêu cầu điều tra kịp thời dẫn đến Điều tra viên để hồ sơ dài ngày
không điều tra, khi hết thời hạn điều tra chuyển hồ sơ sang VKS nhưng không truy
tố hoặc chưa đánh giá đúng bản chất hành vi phạm tội của bị can để xác định đúng
tội danh hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội.
- Ý thức trách nhiệm của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
chưa cao. Trong đó, Điều tra viên chưa làm hết trách nhiệm của mình trong việc
thu thập chứng cứ ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự; chưa cung cấp đầy đủ kịp
thời, hồ sơ, tài liệu để Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ của mình; Kiểm sát viên
chưa chủ động đề ra yêu cầu điều tra trong quá trình điều tra vụ án, còn thụ động
chờ chờ án kết thúc điều tra chuyển đến VKS mới nghiên cứu hồ sơ, chậm phát
hiện những thiếu sót về tố tụng, chứng cứ trong vụ án, một số Thẩm phán chưa có
ý thức trách nhiệm cao trong trường hợp không cần thiết phải trả hồ sơ để ĐTBS
nhưng để hợp lý hóa thời hạn hoặc do “ nặng” về thành tích nên vẫn trả hồ sơ để
ĐTBS.
- Một số địa phương, nhất là cấp huyện số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán còn thiếu, năng lực của người tiến hành tố tụng còn hạn chế, không
đồng đều, nhận thức pháp luật chưa thống nhất.
Page 10
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
- Lãnh đạo một số cơ quan tiến hành tố tụng chưa quan tâm sâu sắc trong
công tác chỉ đạo tố tụng, quản lý hành chính, nghiệp vụ; chưa phát hiện để khắc
phục, bổ sung kịp thời những thiếu sót, vi phạm trong quá trình điều tra giải quyết
vụ án.
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chặt chẽ, chưa
làm hết trách nhiệm hoặc điều tra không đúng thẩm quyền; chưa phân định rõ trách
nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để ĐTBS; có trường
hợp còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong xử lý vụ án; có trường hợp nhận thức,
đánh giá về chứng cứ tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng khác nhau nhưng chưa có sự phối hợp, thống nhất để giải quyết.
- Đối với các vụ án do Viện KSNDTC thụ lý hầu hết là những vụ án lớn, phức
tạp nhưng công tác điều tra, thu thập chững cứ, tài liệu và việc lập hồ sơ còn nhiều
thiếu sót, hạn chế. Trong đó chủ yếu là chưa làm rõ được những vấn đề cần chứng
minh trong vụ án, chưa tiến hành tổng hợp, đánh giá chứng cứ tài liệu ngay sau khi
thu thập, chưa xác định đúng tội danh hoặc đối tượng phải khởi tố ngay từ đầu, dẫn
đến việc điều tra, thu thập chứng cứ không toàn diện, đầy đủ, đúng hướng và triệt
để.
b) Nguyên nhân khách quan.
- Tính chất, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, gây khó khan cho việc thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm; lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập của
nước ta, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, nhiều vụ án lien quan đến các hoạt
động kinh tế, chuyên nghành rất phức tạp hoặc lien quan đến nước ngoài với thủ
đoạn phạm tội và che giấu hành vi phạm tội tinh vi, dẫn đến việc điều tra, thu thập
chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội gặp nhiều khó khan, lung túng; mặt khác,
một số quy định của BLHS chưa cụ thể nhưng chưa được các cơ quan có thẩm
quyền hướng dẫn để thống nhất thực hiện.
- Đối với các vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc có nhiều bị can,
trong giai đoạn điều tra, truy tố mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng tuy đã làm hết trách nhiệm nhưng không có điều kiện chứng minh
được hoặc không phát hiện được những tình tiết mới tại thời điểm điều tra, truy tố,
nên sau đó phải trả hồ sơ để ĐTBS.
- Một số quy định của BLTTHS còn bất cập chưa được hướng dẫn cụ thể, nhất
là khái niệm “ chứng cứ quan trọng đối với vụ án” và “ vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng” một số trường hợp trả hồ sơ để ĐTBS vì lý do khác nhưng BLTTHS
Page 11
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
hiện hành không quy định cụ thể, dẫn đến nhận thức không thống nhất và quá trình
thực hiện còn tùy tiện, lạm dụng làm cho việc giải quyết vụ án kéo dài.
Cơ chế pháp lý trong việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng chưa
được quy định chặt chẽ, nhất là giữa CQĐT và VKS trong quá trình điều tra vụ án
hình sự, dẫn đến công tác phối hợp còn nhiều bất cập và chưa hiệu quả.
Thực hiện cải cách tư pháp và bảo đảm dân chủ trong hoạt động tố tụng hình
sự, cùng với sự tham gia tố tụng ngày càng nhiều của luật sư, người bào chữa trong
các vụ án hình sự trong những năm gần đây đã đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng
cao hơn trong hoạt động tố tụng hình sự.
III.
Một số giải pháp góp phần hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
1. Hoàn thiện sửa đổi bổ sung các điều luật trong luật tố tụng hình sự năm
2003.
- Về căn cứ: tại điểm b Khoản 1 Điều 179 BLTTHS quy định Tòa án có thể
trả hồ sơ để điều tra bổ sung “ khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một số tội
khác hoặc có đồng phạm khác” là không phù hợp Tòa án trả hồ sơ để yêu cầu VKS
điều tra bổ sung vì lý do bị cáo phạm một tội khác thì rõ rang “ tội khác” phải nặng
tội mà VKS truy tố bị cáo ra trước Tóa vì nếu bị cáo phạm tội nhẹ hơn thì Tòa án
có thể xét xử mà không cần phải trả hồ sơ. Trả hồ sơ với lý do có đồng phạm khác
là đồng nghĩa với việc Tòa án yêu cầu VKS truy tố them bị cáo, thêm người phạm
tội mới. Cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Tòa án chỉ trả hồ so để điều tra bổ sung
trong các trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ
sung tại phiên tòa được và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Số lần trả hồ sơ: quy định 121 BLTTHS quy định thì Tòa án chỉ được ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần trong quá trình nghiên
cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. BLTTHS không có quy định số
lần Hội đồng xét xử được yêu cầu điều tra bổ sung, do đó dẫn đến tình trạng Hội
đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần.
Nên quy định cụ thể VKS không được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần,
Tòa án chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần duy nhất để nâng cao trách
nhiệm của VKS, HĐXX đảm bảo giải quyết kịp thời không kéo dài vụ án.
- Thời hạn điều tra: thời hạn điều tra được quy định tại Điều 19 BLTTHS bao
gồm ba thời gian điều tra ban đầu cộng với thời gian gia hạn đối với tội phạm rất
Page 12
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà không liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều địa phương. Và vụ án nhiều bị can phạm nhiều tội cộng với phương
tiện, trình độ điều tra của điều tra viên thì thời gian 12 tháng và 16 tháng là không
đáp ứng được yêu cầu điều tra ban đầu. vì vậy, đề nghị tăng thời gian điều tra đối
với các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
2. Nâng cao trách nhiệm và năng lực, trình độ nghiệp vụ của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán.
Bố trí đủ lực lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để tiến hành tố
tụng ; đồng thời, phải có biện pháp cụ thể để nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực
trình độ nghiệp vụ của Điều tra viên, Kiểm sát viên và thẩm phán các cấp. trong
đó, việc nâng cao ý thức trách nhiệm phải được đặt lên hàng đầu. bên cạnh đó phải
thường xuyên chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhập những kiến thức
pháp lý và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho những người tiến hành tố tụng.
Mặt khác, Liên nghành pháp luật Trung ương tăng cường tổ chức hội nghị sơ kết,
tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ hoặc tập huấn lien nghành về việc áp dụng
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cho Điều tra viên, Kiểm sát viên Thẩm
phán để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Để tạo ra sự thống nhất về nhận thức pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đề nghị Lãnh đạo
Liên nghành bộ Công An, VKSNDTC, TANDTC tang cường tập huấn và rút kinh
nghiệp nghiệp vụ liên nghành. Coi đây là hoạt động định kỳ, thường xuyên ở các
cấp tiến hành tố tụng. Thông qua hoạt động này không những bảo đảm sự thống
nhất về nhận thức pháp luật nói chung cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán các cấp mà còn tạo điều kiện thuận lợi để những người tiến hành tố
tụng nâng cao trình độ nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm công tác, phân định rõ
trách nhiệm tiến hành tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng công tác tư pháp, hạn
chế và khắc khục ĐTBS.
Cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của
Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nhằm rút kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ.
Page 13
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
3. Xử lý trách nhiệm đối với những người tiến hành tố tụng khi để xảy ra
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cần xem xét trách nhiệm đối với Điều tra viên được phân công thụ lý điều tra
vụ án khi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra của Kiểm sát
viên trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án, dẫn đến KSV phải trả hồ sơ ĐTBS đối
với những vấn đề đó; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nội dung yêu cầu
điều tra theo quy định trả hồ sơ để ĐTBS của VKS dẫn đến phải trả hồ sơ để
ĐTBS lần thứ hai đối với những vấn đề đó.
Cần xem xét trách nhiệm đối với Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều
tra vụ án theo quy định của nghành Kiểm sát nhân dân nếu có sai phạm do không
đề ra yêu cầu điều tra trong quá trình điều tra vụ án dẫn đến sau khi kết thúc điều
tra, nhận hồ sơ mới trả hồ sơ để BSĐT; Quyết định trả hồ sơ ĐTBS không có căn
cứ hoặc không cần thiết và CQĐT giữ nguyên kết luận điều tra mà VKS quyết định
truy tố như đề nghị của CQĐT.
Cần xem xét trách nhiệm đối với Thẩm phán theo quy định cuat ngành TAND
nếu có sai phạm trong những trường hợp trả hồ sơ bổ sung không có căn cứ hoặc
không cần thiết mà VKS giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó TA xét xử vụ án
như đề nghị của VKS. Trả hồ sơ ĐTBS khi đã hết thời hạn chuản bị xét xử, trừ
trường hợp phát sinh những vấn đề mới.
Cần xem xét trách nhiệm đối với Hội thẩm nhân dân theo quy định của Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp biểu quyết tại phiên tòa về việc
trả hồ sơ để ĐTBS không có căn cứ và không đúng pháp luật.
4. Quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
CQĐT, VKS, Tòa án có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc trả hồ sơ để ĐTBS ở
cấp mình. VKS có trách nhiệm chủ trì quản lý về số vụ, số lần trả hồ sơ ĐTBS của
cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp.
Định kỳ ( 6 tháng, một năm) các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá, phân
tích tình hình trả hồ sơ ĐTBS của Tòa án và VKS. Trong đó phải nêu rõ số vụ hồ
sơ để ĐTBS về chững cứ, về tố tụng hoặc liên quan đến việc khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; số vụ trả có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ; nguyên nhân và trách nhiệm
của CQĐT, VKS, Tòa án trong việc trả hồ sơ để ĐTBS và đề ra biện pháp khắc
phục.
Page 14
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
Cần quy định cụ thể để thống nhất cách tính tỉ lệ trả hồ sơ ĐTBS của VKS và
Tòa án.
Đối với trường hợp cùng một vụ án nhưng VKS, Tòa án trả hồ sơ để ĐTBS hai
lần, thì tính chung là 1 vụ và trả nhiều lần
Đối với những vụ án do Tòa án trả hồ sơ ĐTBS, sau đó VKS lại trả hồ sơ yêu
cầu CQĐT bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, thì tính là 1 vụ và trả 1 lần vụ án
được tính do Tòa án trả hồ sơ để ĐTBS.
5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để hạn
chế việc trả lại hồ sơ ĐTBS.
VKS phải chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT ngay từ khi phân loại, xử lý
tố giác, tin báo về tội phạm trong suốt quá trình điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ
án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, kịp thời.
Kiểm sát viên phải thường xuyên nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu
ký các tài liệu, chứng cứ do Điều tra đã thu nhập để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra;
chủ động phối hợp với Điều tra viên để làm rõ các vấn đề cần điều tra ngay từ khi
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, khám nghiệm hiện trường. Đồng thời kiểm sát chặt
chẽ các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ của CQĐT, bảo đảm việc điều tra vụ
án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ.
Trong trường hợp chưa đủ căn cứ để khởi tố vụ án, phê chuẩn khởi tố bị can,
Kiểm sát viên phải báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKS, của Thủ trưởng đơn vị kiểm sát điều tra.
Điều tra viên phải lập sổ nhật ký điều tra vụ án. Hàng đầu, Điều tra viên phải
chủ động thong báo cho Kiểm sát viên về kết quả điều tra vụ án, kịp thời báo cáo
Lãnh đạo cho ý kiến chỉ đạo giải quyết những khó khan, vướng mắc. Trong trường
hợp bị can kêu oan, hoặc lúc nhận tội, lúc không nhận tội thì Điều tra viên phải
phối hợp với Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can và kiểm tra, đánh giá các
chứng cứ đã thu nhập được để làm rõ căn cứ buộc tội hoặc gỡ tội bị căn.
Trước khi kết thúc điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên thụ lý vụ án phải lập
bản cung tổng hợp đối với các bị can; đồng thời đánh giá các tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ vụ án bảo đảm tính hợp pháp , tinh đầy đủ để làm sang tỏ sự thật vụ án
một cách khách quan, toàn diện hay chưa; nếu phát hiện có mâu thuẫn hoặc còn
Page 15
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
thiếu chứng cứ, sai sót về thủ tục tố tụng thì có biện pháp khắc phục kịp thời. trong
trường hợp hồ sơ chứng cứ chưa đầy đủ và hợp pháp thì Điều tra viên thống nhất
với Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo hai nghành để kết thức điều tra vụ án; nếu hồ
sơ vụ án còn có những vướng mắc chưa đủ cơ sở để kết thúc điều tra vụ án; nếu hồ
sơ vụ án còn có những vướng mắc chưa đủ cơ sở để kết luận điều tra thì báo cáo
lãnh đạo hai nghành cho ý kiến chỉ đạo giải quyết.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên
cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục tố tụng, tính đầy đủ các tài liệu,
chững cứ của vụ án. Đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng phức tạp thì phải
trực tiếp phục cung tổng hợp đối với các bị can trong vụ án. Nếu thấy hồ sơ vụ án
có vi phạm thủ tục tố tụng, thiếu tài liệu, chứng cứ mà tự mình có thể bổ sung được
thì Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên tiến hành một số hoạt động điều tra để
khắc phục kịp thời.
Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ án có những vấn đề phức tạp về chứng cứ,
tội danh, điều khoản của BLHS cần áp dụng, Kiểm sát viên phải báo cáo Lãnh đạo
VKS trao đổi với Lãnh đạo Tòa án để thống nhất ý kiến và biện pháp giả quyết.
Nếu thấy việc ĐTBS phức tạp, VKS chủ động tổ chức họp lien ngành để thống
nhất những vấn đề cần ĐTBS đúng trọng tâm yêu cầu và triệt để. Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử, nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy còn thiếu tài liệu, chứng cứ, phạm
vi thủ tục tố tụng, bị can phạm vào tội khác hoặc có đồng phạm khác, thì Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa trao đổi với Kiểm sát viên và Thẩm phấn
không thống nhất ý kiến, thì báo cáo lãnh đạo liên nghành chỉ đạo giải quyết.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử làm rõ
những tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Trong trường hợp phát sinh những vấn đề mới hoặc phức tạp mà không bổ sung
được, thì Hội đồng xét xử mới trả hồ sơ để ĐTBS.
Trong trường hợp phát hiện có căn cứ để ĐTBS theo quy định tại Điều 168,
Điều 179 của BLTTHS thì VKS, Tòa án cấp dưới được giao nhiệm vụ giải quyết
vụ án hình sự cần thống nhất trước khi báo cáo VKS cấp trên đã chuyển vụ án để
xem xét, quyết định việc ĐTBS.
Page 16
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
KẾT LUẬN.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định đặc biệt trong tố tụng nước ta và một
số nước khác, có phân biệt chức năng độc lập của Cơ quan điều tra và kiểm sát
điều tra của VKS. Giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài quan hệ chế ước còn
có quan hệ phối hợp vì nghĩa vụ đấu tranh phòng chống tối phạm chung. Chế độ
hồ sơ để điều tra bổ sung ít được đề cập trong các công trình khoa học nhưng đây
cũng là một vấn đề đang được dư luận và nhiều ngành quan tâm. Bài viết của em
đang con nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý và giúp bài viết của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin cảm ơn!!..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự. Trường đại học Luật Hà Nội
2. Khóa luận tốt nghiệp “ chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn”. Nguyễn Thị Minh Ngọc.
Page 17
Bài tập học kỳ luật tố tụng hình sự
3. Thông tư liên tịch số 01/ 2010/ TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC
Hướng dẫn thi hành quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều
tra bổ sung
4. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. GS.TS Võ Khánh Linh. Nxb. Tư pháp.
5. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. GS.TS Nguyễn Ngọc
Anh ( chủ biên). Nxb. Chính trị Quốc gia
Page 18