Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.6 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Để bảo vệ tối đa q uyền và lợi ích của mỗi cá nhân tổ chức … mỗi khi các
quyền và lợi ích xâm hại, các cá nhân tổ chức đều có quyền yêu cầu nhà nước bảo
vệ. Một trong những phương thức yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là quyền khởi
kiện . Với hành vi khởi kiện như vậy, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can
thiệp kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc
phục, ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi phục lại mối quan
hệ thiện chí, cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời sống dân sự. Về vấn đề khởi
kiện vụ án dân sự thì một vấn đề đucợ quan tâm khá nhiều đó là điều kiện khởi
kiện vụ án dân sự

. Trong phạm vi bài là này em xin làm rõ vấn đề “ điều kiện

khởi kiện vụ án dân sự

và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ”
NỘI DUNG

I. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Tòa án chỉ thụ
lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Điều 161 ( Cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
1


khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền
để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.) Bộ luật tố tụng dân sự


(BLTTDS) không chỉ ghi nhận quyền khởi kiện dân sự mà còn quy định các điều
kiện về thủ tục khởi kiện, yêu cầu khởi kiện. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự có
những điều kiện như sau :
1.

Về chủ thể khởi kiện

Căn cứ Điều 161 BLTTDS đã quy định:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi
chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.” Như vậy các chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ
thể theo quy định của BLTTDS được tham giam vào quan hệ pháp luật TTDS. Các
chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện
do pháp luật quy định.
- Đối với cá nhân khi có quyền lợi bị xâm phạm thì được khởi kiện vụ án
dân sự nhưng phải có năng lực hành vi TTDS (Năng lực hành vi tố tụng dân sự là
khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho
người đại diện tham gia tố tụng dân sự.)
- Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi
cần phải được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải do
người đại diện thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án. Pháp luật cũng đòi hỏi
cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm (Điều 161BLTTDS) .
- Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của người khác. Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh
chấp. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trường
hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác được khởi kiện những vụ án về hôn nhân
2



và gia đình theo quy định tại các điều 55, 56 LHN&GĐ, BLTTDS còn quy định các
cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách (Điều 162).
2 . Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án
Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án là thẩm quyền theo quy định
của Bộ Luật tố tụng dân sự phân định cho các Tòa án thực hiện giải quyết các vụ án
tranh chấp dân sự và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan tổ
chức theo đúng quy định pháp luật.Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án
được quy định tại các Điều 25,27,29,33,34,35,36 BLTTDS bao gồm thẩm quyền
theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt
động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm
quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của
mình và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án
được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực
hiện nhiệm vụ của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các
bộ phận trong một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các
đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để vụ án được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng Tòa án có thẩm
quyền giải quyết, xét xử. Khi xác định tranh chấp dân sự có thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình hay không, trước hết phải xác định tranh chấp đó có thuộc thẩm
quyền chung về dân sự của Tòa hay ko? Nội dung tranh chấp yêu cầu Tòa án giải
quyết phải được quy định tại các điều 25,27,29 BLTTDS; phải đúng thẩm quyền
theo lãnh thổ quy định tại các điều 33 và 34 BLTTDS và đúng thẩm quyền theo
lãnh thổ quy định tại các điều 35, 36 BLTTDS. Trong trường hợp người khởi kiện
có quyền lựa chọn Tòa án theo Điều 36 BLTTDS thì yêu cầu đương sự cam kết
không khởi kiện tại các tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết

thì phải kiểm tra tính hợp pháp của thỏa thuận.

Những tranh chấp thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án được quy định khác đầy đủ và chi tiết, khi nhận đơn
3


khởi kiện Tòa án căn cứ vào yêu cầu của đương sự mà đối chiếu nội dung loại việc
đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình hay ko? Khi xác định thẩm
quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại hay lao động để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy
định.
3. Điều kiện về thời hiệu
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được
quyền khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà đương
sự được quyền yêu cầu cơ quan tòa án giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quy định về thời hiệu khởi kiện buộc các
đương sự phải ý thức được việc bảo vệ quyền lợi của mình và sớm có yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, tránh tình trạng khởi kiện tuỳ hứng.
Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện,
thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ
ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. Như vậy, để xác định đúng thời hiệu khởi kiện,
phải xác định được quan hệ tranh chấp đó có được văn bản pháp luật nào khác quy
định về thời hiệu khởi kiện hay không. Điều quan trọng thứ hai là phải xác định
đúng ngày nào được coi là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm để bắt
đầu tính thời hiệu khởi kiện.

Quy định thời hiệu khởi kiện góp phần quan trọng vào việc ổn định các quan
hệ kinh tế – xã hội, hạn chế việc lạm dụng quyền khởi kiện. Tùy thuộc vào tính
chất của mỗi loại tranh chấp pháp luật quy định thời hiệu.

4


4 . Vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu
lực pháp luật của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp
có quy định khác của pháp luật
Nếu một vụ án đã được tòa án của Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay
quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối với
vụ án đó nữa, trừ các trường hợp sau đây:
- Bản án, quyết định của tòa án bác đơn xin ly hôn;
- Yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường
thiệt hại;
- Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ mà tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Các trường hợp khác pháp luật quy định.
Ngoài ra, trường hợp Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy
định tại điểm c, e và g khoản 1 Điều 92 BLTTDS bao gồm: người khởi kiện rút đơn
khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi
kiện; nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; đã có
quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một
bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (khoản 1 Điều 193 BLTTDS) thì đương sự có
quyền khởi kiện lại. Do vậy, Tòa án chỉ được thụ lý giải quyết bằng bản án, quyết
định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu
lực pháp luật. Điều kiện này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn
định của các quan hệ xã hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại

nữa để tránh tình trạng chồng chéo cũng một sự việc mà nhiều cơ quan giải quyết
và tránh việc cố tình kéo dài việc khiếu kiện của đương sự.

5


II. Những hạn chế về thực hiện vấn đề điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
trên thực tế
Thứ nhất , còn rất nhiều trường hợp do không hiểu đầy đủ quy định của
pháp luật nên ko thực hiện đúng đc các quyền, nghĩa vụ TTDS của họ về quyền và
lợi ích qua đó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích đáng ra mình được hưởng .
Trên thực tế, đã không ít trường hợp đương sự khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự ko đúng thẩm quyền của Tòa án nên đã bị trả lại đơn khởi
kiện. Trong nhiều vụ việc dân sự, đương sự không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ
trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên yêu cầu
không được Tòa án chấp nhận.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 57 BLTTDS thì đương sự là người từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản
riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc liên quan đến quan hệ
lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Tuy vậy trên thực tế đương sự này tham gia tố
tụng thường không tốt vì nhận thức pháp luật và năng lực tham gia tố tụng của họ
rất hạn chế.
Thứ hai , Thực tiễn cho thấy do không hiểu biết về pháp luật nên tình trạng
người đi khởi kiện đã xác định và khởi kiện không đúng người mà mình có quyền
khởi kiện theo quy dịnh của pháp luật là phổ biến , qua đó đánh mất đi quyền khởi
kiện của mình cũng như làm cho lợi ích chính đáng của mình bị xâm phạm .
Thứ 3 , Các quy định về thời hiệu khởi kiện trong pháp luật nước ta hiện nay
khá rắc rối, không tập trung tại một văn bản cụ thể, thống nhất mà dàn trải ở nhiều
văn bản khác nhau, gây khó khăn cho người dân trong việc tìm hiểu để biết vụ việc
của mình ra sao. Việc xác định mốc thời điểm bắt đầu tính thời hiệu hiện nay, luật

cũng quy định khác nhau, trong pháp luật dân sự, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu
tòa giải quyết là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; thời
hiệu giải quyết việc chia thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Còn tranh
chấp lao động, thời hiệu khởi kiện là một năm kể từ ngày mỗi bên tranh chấp thấy
rằng quyền, lợi ích của mình bị vi phạm...
6


III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về điều
kiện khởi kiện vụ án dân sự .
1. Sửa đổi và hoàn thiện chế định về điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án
dân sự
Cần sửa đổi quy định về năng lực hành vi tố tụng của đương sự tại Điều 57
BLTTDS theo hướng đương sự có năng lực hành vi tố tụng dan sự phải là người từ
đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự . Đối với những đương sự là người chưa thanh niên từ 15
đến 18 tuổi, Tòa án có thể triệu tập đến tham gia tố tụng nhưng bắt buộc phải có
người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia tố tụng.
Ngoài ra , cần phải sửa đổi pháp luật theo hướng quy định các cơ quan tổ
chức khởi kiện để duy trì trật tự của pháp luật cũng được coi là nguyên đơn dân sự.
Trong điều kiện dân trí nước ta còn hạn chế như hiện nay, để người dân hiểu biết
pháp luật và xác định đúng được tư cách bị đơn trong một số trường hợp rất khó
khăn. Vì vậy, cần có sự quan tâm và vào cuộc của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật.
2.

Hoàn thiện điều kiện về thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong việc
giải quyết vụ án dân sự


Để tránh tình trạng khởi kiện không đúng người mà mình có quyền khởi
kiện theo quy dịnh của pháp luật thiết nghĩ nên bổ sung vào BLTTDS một quy định
theo hướng là khi nhận đơn khởi kiện thì bên cạnh việc kiểm tra các điều kiện thụ
lý, Tòa án có thể định hướng cho nguyên đơn xác định lại chủ thể mà họ có quyền
khởi kiên. Việc định hướng của Tòa án sẽ tránh được thời gian giải quyết vụ kiện bị
kéo dài và các tổn phí tố tụng không đáng có mà nguyên đơn phải gánh chịu do hậu
quả của việc xác định không đúng bị đơn trong vụ kiện.

7


3. Hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Cần xây dựng lại các quy đinh về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự sao cho
thống nhất , cụ thể . Thiết nghĩ, quy định của pháp luật nên theo hướng mềm dẻo
hơn, về khoảng thời gian dài ngắn như thế nào là tùy vào mỗi loại vụ việc.
Hơn nữa, mốc bắt đầu tính thời hiệu nên có quy định lại là từ ngày đương sự
nhận biết hoặc buộc phải nhận biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm như quy định của pháp luật về lao động là hay hơn, bởi trên thực tế không
phải lúc nào người dân cũng nhận biết được quyền lợi của mình bị xâm phạm. Đến
khi họ biết để nhờ pháp luật xử lý thì đã hết thời hiệu khởi kiện.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức cán bộ
Công tác tuyên truyền đóng một vai trò khá lớn trong việc pháp luật được
thực thi một cách đúng đắn trên thực tế vậy nên để những quy định về quyền khởi
kiện được thực thi trên thực tế, Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng như hoàn thiện chế định quyền khởi kiện
hiện hành. Trên cơ sở các quy định pháp luật, chúng ta nên quan tâm hơn nữa đến
vấn đề phổ biến pháp luật ở cơ sở. Cụ thể là công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tư
pháp xã, phường, thị trấn có năng lực cũng như trình độ để hướng dẫn và giải đáp
những thắc mắc của người dân liên quan đến vấn đề khởi kiện, giúp cho họ thực
hiện tốt quyền khởi kiện của mình, khởi kiện đúng bị đơn theo quy định của pháp

luật. Tiếp theo là công tác đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp trong bộ phận
tiếp nhận hồ sơ ở Tòa án. Đây là một trong những khâu khá quan trọng trong quá
trình thực hiện quyền khởi kiện của người dân. Chúng ta nên chú trọng đào tạo đội
ngũ cán bộ tiếp nhận hồ sơ có đầy đủ năng lực, phẩm chất và hơn nữa là tâm huyết
với nghề nghiệp. Có như vậy, quyền khởi kiện của người dân và vấn đề xác định tư
cách đương sự mới được thực hiện triệt để ngay từ khâu đầu tiên là thụ lý vụ án.
KẾT LUẬN
Vấn đề “điều kiện khởi kiện vụ án dân sự” là một vấn đề không mới, việc đề
cập đến nó không chỉ định hướng cho quá trình giải quyết vụ án dân sự được nhanh
chóng và đúng đắn mà còn đảm bảo cho quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng
8


khác của BLTTDS diễn ra thuận tiện. Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về
khởi kiện vụ án vẫn còn nhiều vướng mắc, nhưng hi vọng trong thời gian tới, sẽ có
những sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn đời sống dân sự.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình luật tố tụng dân sự,Nxb.CAND,Hà
Nội,2009.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
3. Ths. Liêu Thị Hạnh, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thụ lý vụ án dân sự, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”.
4. Phùng Thị Tuyết Trinh, khóa luận tốt nghiệp “Quyền yêu cầu và thay đổi yêu cầu
của đương sự trong tố tụng dân sự” năm 2010
5. TS.Nguyễn Công Bình, luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền bảo vệ của Đương sự

trong TTDSVN”.
6. Đặng Anh Tuấn, Khoá luận tốt nghiệp “Quyền khởi kiện và việc xác định tư
cách đương sự trong tố tụng dân sự”- Hà Nội, 2010.
7. Luật gia Nguyễn Thị Hằng Nga, Một số quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
8. Liễu Thị Hạnh, Luận văn thạc sĩ luật học “Thụ lý vụ án dân sự một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”

10



×