Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Tội phạm tham nhũng theo quy định của bộ luật hình sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.65 KB, 73 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Các TPTN một vấn đề nhức nhối của mọi quốc gia, là một hình thức tự diễn
biến tự chuyển hóa và để lại những hậu quả xã hội nghiêm trọng, gây tổn hại về
kinh tế, suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội, làm gia tăng bất công trong xã
hội, mai một niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tội phạm
về tham nhũng gây nên tác động tiêu cực đến niềm tin của các đối tác nước ngoài,
làm cản trở hoạt động đối ngoại và giảm các nguồn đầu tư từ nước ngoài. Ở nước
ta, trong 10 năm (2008 đến 2017), các TPTN đã gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức
và công dân với tổng tài sản có giá trị gần 60.000 tỷ đồng.
Công cuộc PCTN thời gian qua đã được cả cả hệ thống chính trị quyết liệt
thực hiện. Hàng loạt vụ án tham nhũng lớn đã được đưa ra xét xử, nhiều cán bộ cấp
cao bị xử lý, kỷ luật và thông tin rộng rãi đến quần chúng nhân dân để thể hiện
quyết tâm loại trừ tội phạm tham nhũng của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Theo
chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) 2017 do Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) vừa
công bố cho thấy, chỉ số của Việt Nam đã tăng nhẹ trong 2 năm liên tiếp (20162017), đạt 35/100 điểm, xếp hạng 107/180 quốc gia toàn cầu 1, đây là những tín hiệu
tích cực đối với các nỗ lực PCTN của Nhà nước ta.
BLHS cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác về PCTN ở Việt Nam là
vũ khí sắc bén, hữu hiệu trong công tác PCTN ở Việt Nam. Kể từ khi BLHS 1985 ra
đời cho đến nay, công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội này nhìn chung cơ
bản đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần quan trọng về
việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Tuy vậy, với tính đa dạng, phức tạp về hành vi; tinh vi, xảo quyệt về

1 Xem: Bài viết “Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI 2017: Việt Nam có tín hiệu tích cực”, Cổng
thông tin điện tử Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 15/7/2018 tại địa chỉ
/>
1


thủ đoạn phạm tội, giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng lớn (Ví dụ: Vụ Giang


Kim Đạt - Công ty TNHH MTV Vận tải Viễn Dương (Vinashinlines) phạm tội
Tham ô tài sản với số tiền bị chiếm đoạt lên đến 260 tỷ đồng…), việc xét xử loại tội
này trên thực tiễn cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xác định
tội danh và quyết định hình phạt áp dụng đối với người có hành vi phạm tội.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp Việt Nam đối với các TPTN cho thấy, các tội
danh này đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã thông
qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số
100/2015/QH13 và ban hành Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Luật số
12/2017/QH14 (sau đây gọi là BLHS 2015). Tại các lần sửa đổi này, cơ quan lập
pháp tiếp tục có một số sửa đổi về cấu thành tội phạm, cũng như có sự sửa đổi về
mặt kỹ thuật lập pháp đối với các TPTN, qua đó giải quyết kịp thời các vướng mắc,
bất cập mà thực tiễn xét xử đã đặt ra. Bởi vậy, việc đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu
pháp lý của loại tội này một cách thấu đáo, qua đó làm sáng tỏ hơn nữa những vấn
đề lý luận thực tiễn xét xử, góp phần thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật là
việc làm hết sức cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Với lý do đó, tôi lựa chọn đề
tài”Tội phạm về tham nhũng theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn xét xử ở
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các TPTN không phải là một đề tài mới, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, bài viết của nhiều tác giả ở các góc độ, phương diện khác nhau. Một số
công trình nghiên cứu mang tính đại cương tiêu biểu như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm
(Chủ biên), Giáo trình LHS Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003 (Chương Các tội phạm về chức vụ); GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ
biên), Giáo trình LHS Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2003 (Chương Các tội phạm về chức vụ); GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ
biên), Giáo trình LHS Việt Nam, Tập II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010
(Chương Các tội phạm về chức vụ); Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Huy Hoàng (Chủ
biên), Pháp luật chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hóa Dân
2



tộc, 2003; ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm, Tập
V - Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; GS.TSKH. Phan
Xuân Sơn, TS. Phạm Thế Lực (Đồng chủ biên), Nhận diện tham nhũng và các giải
pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008...
Một số công trình nghiên cứu cấp Nhà nước như: “Luận cứ khoa học cho
việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh PCTN cho
đến năm 2020” do Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ thực hiện năm
2004; “Những nghĩa vụ chủ yếu và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam sau khi phê
chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng” do Thanh tra Chính phủ
thực hiện năm 2005; “Hoàn thiện các quy định của BLHS về tội phạm và hình
phạt” do Vụ Pháp luật hình sự, hành chính - Bộ Tư pháp thực hiện năm 2008…
Một số công trình nghiên cứu sâu từ các góc độ khác nhau của tội phạm tham
nhũng đã được xuất bản hoặc được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như các Luận
án Tiến sỹ, Luận văn Thạc sĩ hay các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí
chuyên ngành. Cụ thể: Luận án Tiến sỹ “Các TPTN theo pháp luật hình sự Việt Nam”
của Th.s Trần Văn Đạt (2012); một số luận văn Thạc sĩ Luật học: “Các TPTN trong
luật Hình sự Việt Nam” của Trần Văn Đạt (2002); “Phòng ngừa các TPTN ở Việt
Nam” của Hoàng Anh Tuyên (2005); “Hoàn thiện pháp luật về PCTN ở Việt Nam
hiện nay” của Trần Anh Tuấn (2006); “Các TPTN trong luật hình sự Việt Nam (Trên
cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lắk)” của Nguyễn Đình Triết (2015); “Các
TPTN theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam
Định)” của Ngô Thị Thanh Đức (2017). Bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: “Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội của PGS.TS. Trần Văn
Độ đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 1993; “Một số vấn đề về tội tham ô
tài sản XHCN” của PGS.TS. Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân năm
1997; “Những nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng ở nước ta hiện nay” của
PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 2001; “Các
tội đưa và nhận hối lộ của Luật hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với Luật hình sự
Việt Nam” của Trần Hữu Tráng, tạp chí Luật học Số 12/2010, tr. 51 - 60; “TNHS đối

3


với các TPTN từ những qui định của pháp luật hình sự hiện hành đến thực tiễn áp
dụng” của Nguyễn Ngọc Tính, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 1/2016, tr.
31 - 37…
Trong quá trình lấy ý kiến đóng góp xây dựng BLHS 2015 cũng có một số
bài viết như: “Một số ý kiến đóng góp về chương XXIII các TPTN trong dự thảo
BLHS (sửa đổi 2015)” của Trương Thế Nguyễn, Tạp chí Thanh tra chính phủ, Số
9/2015, tr. 35 - 36; “Góp phần hoàn thiện một số quy định đối với các TPTN trong
BLHS 1999” của Nguyễn Ngọc Tính, Tạp chí Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số
22/2015, tr. 23 - 29, 42…
Các công trình khoa học và bài viết nêu trên đều có giá trị to lớn về mặt lý
luận và thực tiễn áp dụng để xử lý các TPTN theo quy định của BLHS. Kể từ khi
BLHS 2015 được thông qua cho đến nay (20/6/2017), cũng có một số bài viết như:
“Những điểm mới về tham nhũng theo quy định của BLHS 2015” của tác giả
Nguyễn Thu Nga, Viện Khoa học Thanh tra, đăng trên cổng thông tin điện tử Bộ
Giao thông vận tải” ngày 28/02/2018; “Một số nội dung mới quan trọng về tội
phạm chức vụ, tham nhũng trong BLHS 2015” của Nguyễn Hà Thanh, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật (2018), tr. 180 - 190…. Tuy nhiên, các bài viết trên chỉ tập trung
nêu một số điểm mới của BLHS 2015 nói chung và các TPTN nói riêng. Qua việc
tổng quan tình hình nghiên cứu chúng tôi thấy, việc nghiên cứu đề tài “Những dấu
hiệu pháp lý của các TPTN và thực tiễn xét xử” là vấn đề không mới nhưng lại khá
cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhất là khi BLHS 2015 (sửa đổi năm 2017) có
nhiều sửa đổi quan trọng cả về chính sách hình sự lẫn kỹ thuật lập pháp với loại tội
này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về các TPTN; quy định của BLHS 1999 và
BLHS 2015 về các các tội danh này; một số vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong

thực tiễn xét xử thời gian qua và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng quy
định của pháp luật trong thời gian tới.
4


Phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu lý luận, chuyên đề tập trung làm rõ khái niệm tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và lịch sử lập pháp của các tội danh này từ năm 1945
đến nay. Khi nghiên cứu các nội dung pháp lý, chuyên đề tập trung nghiên cứu các
dấu hiệu định tội và quy định của BLHS 1999 về các tội danh này; đồng thời, phân
tích những điểm sửa đổi, bổ sung của BLHS 2015. Khi nghiên cứu thực tiễn,
chuyên đề tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử Tòa án các cấp để chỉ ra những
điểm còn vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật. Về phần giải
pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật đề tài tập chung nghiên cứu nhóm giải
pháp hoàn thiện văn bản hướng dẫn của cơ quan nghiệp vụ có thẩm quyền.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy
vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm, chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: nghiên cứu tài liệu
kết hợp với phân tích, so sánh, tổng hợp logic lịch sử, tổng hợp, phân tích, thống
kê...
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề có mục đích làm rõ dấu hiệu pháp lý của các TPTN theo quy định
của BLHS 1999, từ đó so sánh, đối chiếu với quy định của BLHS 2015 về các các
tội danh này; chỉ ra những điểm bất cập còn tồn tại, những quy định còn chưa rõ
trong quy định của pháp luật hình sự dẫn đến những cách hiểu khác nhau giữa các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

trong việc áp dụng quy định tại Mục 1 Chương XXIII BLHS 2015 trong thời gian
tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Mặt lý luận: Chuyên đề xây dựng khái niệm “Các TPTN”. Đồng thời, phân
5


tích đặc điểm cơ bản các dấu hiệu pháp lý của các tội danh này theo quy định của
BLHS 1999 trong sự so sánh với quy định của BLHS 2015. Qua đó, chỉ ra được
những điểm còn chưa cụ thể, dẫn đến những cách hiểu khác nhau và đề xuất giải
pháp trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định tại Mục 1 Chương XXIII
BLHS 2015.
Mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của
ngành Tòa án, chúng tôi đưa ra những điểm còn vướng mắc, bất cập, có cách hiểu
khác nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trong việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự. Đồng thời,
chúng tôi cũng chỉ ra những điểm cần có hướng dẫn cụ thể để thống nhất cách hiểu,
áp dụng. Góp phần thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng một cách chính xác khi xử lý người
phạm các TPTN.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Phân tích chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, cơ sở và ý nghĩa của TNHS
đối với các TPTN.
- Phân tích, so sánh đối chiếu quy định về các TPTN trong BLHS 1999 và
BLHS 2015, từ đó chỉ ra những điểm khoa học, tiến bộ hơn của BLHS 2015 về kỹ
thuật lập pháp hình sự cũng như đường lối xử lý hình sự của Nhà nước đối với các
TPTN.
- Phân tích những bất cập còn tồn tại về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật liên quan đến vấn đề TNHS đối với các tội tham nhũng.
- Kiến nghị hướng dẫn của các cơ quan nghiệp vụ có thẩm quyền về những

điểm còn có cách hiểu, áp dụng khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
xét xử của Tòa án đối với các TPTN.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn sẽ được đề
cập trong ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về các TPTN.
6


Chương 2: Những dấu hiệu pháp lý và quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về các TPTN.
Chương 3: Thực tiễn xét xử và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng quy
định của BLHS 2015 đối với các TPTN.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TPTN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các TPTN
1.1.1. Khái niệm các TPTN
Các TPTN bao gồm 07 điều được quy định từ Điều 353 đến Điều 359 thuộc
mục 1 Chương XXIII BLHS 2015 (mục 1 Chương XXIII BLHS 1999). Trong khoa
học luật hình sự, việc xây dựng khái các TPTN còn chưa được quan tâm nghiên cứu
thỏa đáng. Cả BLHS 1999 và BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đều chưa
đưa ra khái niệm pháp lý của các TPTN mà chỉ đưa ra khái niệm đối với nhóm các
tội danh về chức vụ. Trong quá trình nghiên cứu, cũng có một số tác giả đưa ra khái
niệm đối với các tội danh tham nhũng trong các công trình nghiên cứu khoa học của
mình. Theo PGS.TS. Trần Văn Đạt, “Tội phạm tham nhũng là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm uy tín và hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân do người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện trong khi thi hành
công vụ nhằm mục đích vụ lợi”2. Theo tôi, đây là khái niệm mang tính khoa học và

đầy đủ, khái niệm đã phản ánh đầy đủ cấu thành tội phạm của các TPTN. Tuy
nhiên, kể từ khi BLHS 2015 được thông qua thì phạm vi xử lý tội phạm tham nhũng
không chỉ ở khu vực công như trước mà còn xử lý cả ở khu vực tư đối với hai tội
danh “Tham ô tài sản” và “Nhận hối lộ”. Như vậy, khái niệm các TPTN cũng cần có
sự điều chỉnh cho phù hợp các quy định của pháp luật hình sự.
2 Xem: PGS.TS. Trần Văn Đạt (2012), Luận án “ Các TPTN theo pháp luật hình sự Việt Nam”,
tr.18.

7


Theo tôi, để xây dựng khái niệm các TPTN cần xác định một cách đầy đủ nội
hàm của các cụm từ có trong các tội danh này.
Thứ nhất, các TPTN thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ, cho nên, trước hết
cần phải thống nhất cách hiểu thế nào là tội phạm về chức vụ. Khái niệm người có
chức vụ được quy định tại khoản 2 Điều 352 BLHS 2015 (Điều 277 BLHS 1999)
như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ,
nhiệm vụ”. Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định một
người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác…Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức nào mà gắn những
quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như vậy, trong khái niệm
này theo chúng tôi người có chức vụ có thể được hiểu một cách ngắn gọn là người
được giao thực hiện nhiệm vụ (mang tính chất hợp pháp) và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ đó. Chẳng hạn: Thư ký Tòa án tiếp nhận hồ sơ vụ án,
Điều tra viên lấy lời khai của bị can… Tất cả những người này đều được coi là
người có chức vụ bởi vì họ được giao thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung của
doanh nghiệp hoặc toàn xã hội và có những quyền năng nhất định trong khi thi hành
nhiệm vụ.

Thứ hai, khái niệm “tội phạm” theo quy định tại Điều 8 BLHS 2015 được
hiểu “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có
năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nên văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
XHCN mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. So với khái niệm
tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 1999 thì BLHS 2015 đã bổ sung thêm
phần chủ thể của tội phạm bao gồm “pháp nhân thương mại”. Tuy nhiên, pháp nhân
8


thương mại không phải là chủ thể có hành vi vi phạm nhóm các tội phạm chức vụ.
Do vậy, có thể hiểu khái niệm tội phạm trong các TPTN vẫn tương tự như đối với
BLHS 1999.
Thứ ba, “tham nhũng” được hiểu là “hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước tập
thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”3. Theo cách
hiểu về tham nhũng như trên là hoàn toàn phù hợp theo quy định của BLHS 1999,
tuy nhiên BLHS 2015 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” trong cấu thành các tội
“Nhận hối lộ” (Điều 354) và tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối
với người khác để trục lợi” (Điều 358). Cho nên, theo tôi tham nhũng ở đây phải
được hiểu là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hưởng lợi ích vật chất hoặc phi
vật chất một cách trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản hoặc uy tín của Nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân để thống nhất với các quy định của BLHS 2015.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm các TPTN như sau: “Tội
phạm tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, gây thiệt hại cho tài sản hoặc uy tín của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân do người có chức vụ đã lợi dụng quyền hạn của

mình thực hiện trong khi thi hành nhiệm vụ, nhằm mục đích hưởng lợi ích vật chất
hoặc lợi ích phi vật chất một cách trái pháp luật”.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của các TPTN
Các TPTN nhìn chung có 04 đặc điểm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, các TPTN xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Chủ thể bị loại tội phạm này xâm hại là các cơ quan, tổ chức, Nhà nước và
công dân bị người có chức vụ, quyền hạn hướng tới để vụ lợi cá nhân. Chính hành
vi đó làm sai lệch hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức và hạ thấp uy tín
của chính cơ quan, tổ chức đó; ngoài ra đã xâm hại trực tiếp đến lợi ích chính đáng
được PLHS bảo vệ của Nhà nước và công dân. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
3 Xem: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, tr.695.

9


hội, ở mỗi giai đoạn khác nhau, PLHS quy định mức độ xâm hại đến các quan hệ xã
hội của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn cũng
khác nhau. PLHS chỉ điều chỉnh các hành vi của những người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi trái với công vụ
được giao nhằm mục đích vụ lợi, và những lợi ích đó có giá trị vật chất đáng kể còn
nếu là những lợi ích vật chất nhỏ, hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến các quan hệ
xã hội được PLHS bảo vệ thì hành vi đó không xác định là tội phạm về tham nhũng
mà sẽ xử lý dân sự hoặc hành chính.
Thứ hai, chủ thể của các TPTN là người có chức vụ, quyền hạn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 352 BLHS 2015, người có chức vụ, quyền
hạn là người được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương và có quyền hạn nhất định đối với nhiệm vụ đó. Đối với người
trong khu vực công thì chức vụ, quyền hạn phải gắn với quyền lực Nhà nước trong
các lĩnh vực và các cơ quan khác nhau: Cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ

quan tư pháp, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế Nhà nước hoặc lực lượng vũ trang từ trung ương
đến địa phương… Còn đối với khu vực tư, thì chức vụ, quyền hạn có được là do
hợp đồng giao kết giữa cá nhân người đó với tổ chức nơi họ làm việc hoặc quyền
hạn được giao trong khi thực hiện một nhiệm vụ cụ thể.
Đây là dấu hiệu phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm
pháp luật khác tuy cũng có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là tham nhũng vì nó
được thực hiện bởi những người không có chức vụ, quyền hạn như hành vi trộm
cắp, lừa đảo, buôn lậu… tuy nhiên, những người không phải là người có chức vụ,
quyền hạn hoặc không được giao nhiệm vụ nhưng đã có hành vi tiếp tay cho người
thực hiện hành vi tham nhũng (xúi dục, giúp sức, tổ chức) thì được coi là đồng
phạm tham nhũng.
Thứ ba, các hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn là hành vi trái
với công vụ, nhiệm vụ

10


Hành vi trái với công vụ, nhiệm vụ là dạng hành động hoặc không hành động
trái quy định mà người có chức vụ, quyền hạn phải làm để thực hiện nhiệm vụ được
giao. Nếu những mong muốn lợi ích vật chất hoặc phi vật chất mà người có chức vụ
quyền hạn mong muốn đạt được nhưng nó chỉ nằm trong tư tưởng của họ mà không
trở thành hành vi cụ thể thì sẽ không bị xác định là tội phạm tham nhũng. Hoặc nếu
những hành vi trái với công vụ, nhiệm vụ nhưng không có mục đích vụ lợi thì cũng
không xác định hành vi đó có dấu hiệu tội phạm tham nhũng
Thứ tư, hành vi trái công vụ của người có chức vụ quyền hạn là hành vi cố ý
và có mục đích vụ lợi.
Khoản 5, Điều 2 Luật PCTN của Việt Nam năm 2005 quy định: “Vụ lợi là
lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt
được thông qua hành vi tham nhũng”. Như vậy, chỉ được xem là hành vi tham

nhũng khi người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
nhằm đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần có tính chất cá nhân. Có thể hiểu là,
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng quyền hạn có được từ chức vụ để thực
hiện các hành vi không xuất phát từ nhu cầu công việc mà vì những lợi ích của
riêng của mình như nhận tiền hoặc tài sản hoặc một lợi ích phi vật chất nào đó,
thậm chí dùng ảnh hưởng của mình để mang lại lợi ích cho những người thân thích.
Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng cơ bản, không thể thiếu của tội phạm tham
nhũng.
Mục đích tham nhũng là kết quả hay giới hạn cuối cùng mà chủ thể mong
muốn đạt được. Thông thường mục đích mà các chủ thủ tham nhũng muốn đạt được
chủ yếu là những giá trị. Trong nhiều trường hợp rất khó xác định bởi lợi ích vật
chất được ẩn nấp dưới nhiều hình thức và có sự chuyển hoá từ dạng này sang dạng
khác. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc được thu hồi để đánh
giá lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được là không đầy đủ. Ngoài ra, trong
một số trường hợp cụ thể các lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất đan xen lẫn
nhau, cho nên việc xác định mục đích tham nhũng ở những lợi ích phi vật chất rất
khó khăn.
11


Việc chứng minh được dấu hiệu mục đích vụ lợi nhằm truy cứu trách nhiệm
đối với người phạm tội luôn là vấn đề phức tạp trong các vụ việc có dấu hiệu tham
nhũng. Như vậy, dấu hiệu vụ lợi đối với các hành vi tham nhũng được xác định,
không chỉ riêng trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được lợi ích nhìn
thấy định lượng được cả lợi ích vật chất và tinh thần mà còn bao gồm cả trường hợp
người đó sẽ đạt được lợi ích trong tương lai.
Lợi ích vật chất có thể xác định được một cách rõ ràng và có các tiêu chí cụ
thể để xác định. Theo PLHS Việt Nam, thì lợi ích về vật chất đối với các TPTN
được xác định là có giá trị ở mức từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng thuộc một số trường hợp nhất định (đã bị kết án về một số tội tại mục 1

Chương XXIII BLHS chưa được xóa án tích mà còn vi phạm v.v...).
Lợi ích về tinh thần là một khái niệm chưa được xác định một cách rõ ràng và
khó có thể đưa ra tiêu chí chung để xác định. Tuy nhiên, có thể kể đến một số danh
hiệu như huân chương, huy chương, bằng khen, thậm chí là một số danh hiệu cao quý
như “Anh hùng lao động”, “Anh hùng lực lượng vũ trang” hoặc một số hình thức
khen thưởng khác cho những người không xứng đáng được hưởng nhưng do họ đã
đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn nên họ được khen tặng. Đặc biệt quyền
lực có được do tham nhũng mà có cũng là một dạng lợi ích về tinh thần. Trường hợp
quan hệ tình cảm của một người có chức vụ, quyền hạn trong việc giải quyết công
việc cho một cá nhân, cơ quan, tổ chức được đưa ra như một điều kiện để người có
chức vụ, quyền hạn giải quyết công việc, đó cũng có thể coi là lợi ích về mặt tinh
thần.
Đối tượng thụ hưởng những lợi ích có được từ hành vi tham nhũng cơ bản là
chính bản thân người thực hiện hành vi tham nhũng nhưng cũng có thể là những
người thân, những người có liên quan hoặc cơ quan, tổ chức, địa phương của người
thực hiện hành vi tham nhũng.
Trong thực tiễn, việc xử lý các TPTN chủ yếu dựa trên kết quả xác định lợi
ích vật chất mà chủ thể đã đạt được để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi tham nhũng. Theo quy định của BLHS 2015, thì các TPTN được xác định
12


trên cơ sở giá trị tài sản tham nhũng, từ đó xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi và quyết định hình phạt, điều này chưa thực sự phù hợp với thực tiễn và
cũng không phù hợp với quy định của Luật PCTN, với tư cách là một đạo luật gốc
điều chỉnh các vấn đề về phòng ngừa và xử lý các hành vi tham nhũng. Trong điều
kiện kinh tế - xã hội hiện nay, việc xác định lợi ích vật chất đối với hành vi tham
nhũng nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng nếu chỉ căn cứ vào giá trị
tiền, tài sản phát hiện hoặc thu hồi được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm vào đó, sự
đan xen giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cũng là một yếu tố khó xác định và

phân biệt.
1.2.1. Ý nghĩa của việc quy định các TPTN trong LHS Việt Nam
Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 đã liệt kê 11 hành vi tham nhũng
được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS ngày
10/5/1997 về các tội tham nhũng bao gồm: tham ô tài sản XHCN; nhận hối lộ; dùng
tài sản XHCN làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới
hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài
sản XHCN; lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân; lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; lạm quyền trong
khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi; lập quỹ trái phép; giả mạo trong công tác để
vụ lợi [39, tr.25].
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng BLHS 1999, Ban soạn thảo đã xem xét
lại, những hành vi đích thực là tham nhũng thì quy định trong Mục 1 Chương
XXIII, còn lại các hành vi tuy có lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không được
coi là tham nhũng thì đưa về các chương khác cho phù hợp với tính chất của hành
vi phạm tội.
Để phù hợp với quy định tại BLHS 1999, ngày 28/4/2000, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

13


Pháp lệnh PCTN, trong đó chỉ còn quy định bảy hành vi được coi là tham
nhũng và tương đương với bảy tội danh được quy định trong Bộ luật này, bao gồm:
tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi
thi hành công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác để vụ lợi.

Tuy nhiên, do yêu cầu của công cuộc đấu tranh PCTN trong tình hình hiện
nay, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua
Luật PCTN. Điều 3 của Luật này đã quy định 12 hành vi tham nhũng chứ không
phải là 11 hành vi hay bảy hành vi như các pháp lệnh trước đó của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội. Theo Điều 3 của Luật PCTN năm 2005 thì các hành vi tham nhũng
bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; lạm quyền
trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng
đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác để vụ lợi; đưa hối lộ, môi
giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc
của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền
hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không
thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho
người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào
việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Như vậy, quy định của BLHS thành một mục riêng các TPTN có ý nghĩa
chính trị - pháp lý, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho cuộc đấu tranh chống tham
nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang tích cực tiến hành; là cơ sở cho việc xây
dựng, hoàn thiện pháp luật chống tham nhũng. Các quy định của BLHS cũng là cơ
sở nghiên cứu hoạch định chính sách chống tham nhũng của Nhà nước trong thời
gian tới.
1.2. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các TPTN

14


Các TPTN là một hiện tượng mang tính lịch sử xã hội, nó ra đời, tồn tại gắn
với sự tồn tại của Nhà nước. Đó không chỉ là sự băng hoại đạo đức, bất công xã hội
mà còn có thể làm suy vong những quốc gia hùng mạnh nhất, sụp đổ cả thể chế
chính trị. Đặc biệt, các tội về tham nhũng chức vụ làm xói mòn nền pháp quyền và

gây tổn hại đến uy tín của Nhà nước, cũng như làm giảm niềm tin của người dân
vào hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan Nhà nước. Lịch sử loài ngừời đã chứng
minh rằng tham nhũng là mặt trái của quyền lực nhưng song hành với quyền lực.
Xã hội nguyên thủy không có tư hữu, của cải dùng chung hoặc chia đều; không có
giai cấp với đặc quyền, đặc lợi, không áp bức, bóc lột nên không có các tội về tham
nhũng, tham nhũng. Chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà nước đã tạo ra quyền lực với
các loại chức tước, đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi... Quyền lực đó không được giám
sát chặt chẽ sẽ xảy ra hiện tượng độc quyền, cửa quyền, lạm quyền…là nguồn gốc
của tham nhũng và các TPTN. Tham nhũng là một căn bệnh của Nhà nước. Do đó,
nghiên cứu tham nhũng, PCTN chủ yếu là nghiên cứu Nhà nước, phương thức tổ
chức và thực thi quyền lực Nhà nước. Vậy nên việc kiểm soát và tiêu trừ các tội
phạm liên quan đến tham nhũng là mục tiêu của hầu hết các chính quyền, Nhà
nước. Nhưng đến nay, có thể khẳng định chưa có Nhà nước nào trên thế giới dám
tuyên bố đã có thể kiểm soát và tiêu trừ được hoàn toàn các TPTN [19, tr21]. Do
đó, đối mặt và tuyên chiến với các TPTN, tham nhũng là vấn đề của mọi quốc gia,
dân tộc. Bởi lẽ tham nhũng luôn gắn liền với quyền lực, gắn liền với Nhà nước nên
khi còn quyền lực, còn Nhà nước thì còn tham nhũng, còn tội phạm về tham nhũng.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến nhất thế giới cũng cần thường xuyên PCTN. Việt
Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó và đã có một lịch sử lập pháp lâu dài ghi
dấu những nỗ lực đấu tranh chống tham nhũng và các TPTN khác như được ghi
nhận dưới đây.
2.1.1 Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Ở nước ta, ngay từ trong xã hội phong kiến, việc đấu tranh phòng, chống các
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội đã được đặt ra như một yêu cầu tất
yếu để bảo vệ chế độ và bộ máy Nhà nước phong kiến đương thời. Các đạo luật
15


quan trọng trong lịch sử như: Bộ luật Hình thư (Nhà Lý), Bộ Quốc triều Thông lễ
(Nhà Trần), Bộ Quốc triều Hình luật (Nhà Lê), Bộ luật Gia Long (Nhà Nguyễn) đều

có ghi nhận và trừng trị những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội của
những người có chức vụ, quyền hạn trong xã hội thời bấy giờ. Nổi bật trong đó là
Bộ Quốc triều Hình luật đã đặt ra các quy định trừng trị nhiều hành vi phạm tội
tham nhũng, tội phạm liên quan đến tham nhũng như: nhận hối lộ, đưa hối lộ, làm
trung gian hối lộ, lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản; v.v... Hành vi nhận hối lộ
được Quốc triều Hình luật quy định chung tại Điều 138 - quan lại ăn hối lộ với
khung hình phạt nghiêm khắc: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan
đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ
20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người
có tài dự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì phạt tiền 50
quan; từ 10 đến 19 quan thì phạt tiền 60 quan đến 100 quan, từ 20 quan trở lên thì
xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho” [11, tr 12]. Bên cạnh
quy định chung này, Bộ luật còn có quy định về các hành vi nhận hối lộ trong lĩnh
vực cụ thể như: Điều 170 về nhận hối lộ trong việc tuyển đinh, tráng vào quân đội;
Điều 197 về nhận hối lộ trong khi mật tra của quan Liêm phóng; Điều 229 về nhận
hối lộ để không tâu với quan trên về hành vi khinh nhờn; .... Như vậy, có thể khẳng
định rằng, những quy định này khá chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, xác định ra các
mức khung hình phạt rạch ròi, từ thấp đến cao, tương ứng với mức độ nghiêm trọng
của hành vi nhận hối lộ. Tuy nhiên, đằng sau đó vẫn ẩn chứa tính bất bình đẳng khi
ít nhiều nương nhẹ cho tầng lớp quý tộc, hoàng thân, quốc thích phạm tội bằng việc
đặc cách cho áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn quy định. Đồng thời
với trừng phạt hành vi nhận hối lộ, Quốc triều Hình luật cũng có những quy định
tiến bộ về xử lý cả hành vi đưa hối lộ, trung gian, môi giới hối lộ. Điều 137 quy
định: “Những kẻ đến cầu cạnh với quan chủ ty việc trái pháp luật và kẻ vì người
khác mà đến cầu cạnh thay, đều xử tội biếm hay phạt; quan chủ ty nghe theo thì
phải ghép vào tội làm trái pháp luật, việc chưa thi hành thì xử tội biếm hay phạt.
Việc làm trái pháp luật ấy thuộc về tội nặng thì quan chủ ty phải ghép tội ăn tiền
16



mà xóa tội hay gán tội cho người ta trái sự thực; kẻ vì người mà đến cầu cạnh thì
xử tội nhẹ hơn quan chủ ty ba bậc; tự mình có tội mà đến cầu cạnh thì xử tội nhẹ
hơn quan chủ ty hai bậc”. Ngoài ra, Điều 140 quy định: “Những người đưa hối lộ
mà xét ra việc của họ có trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật
oan khổ, vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người nào không phải
việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc.
Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng xử tội như thế. Của hối lộ
phải nộp vào kho” [22, tr 32]... Những quy định này đã đặt ra những giả định rất cụ
thể, sát với tình huống trong đời sống thực tế (hối lộ, giúp hối lộ, nhận hối lộ, đưa
hối lộ vì muốn giải oan, nhận hối lộ nhưng chưa thực hiện việc được yêu cầu…);
cũng như phân hóa TNHS sâu sắc tương ứng với từng loại chủ thể và tính chất của
hành vi (người đưa hối lộ, người trung gian, người nhận hối lộ); thể hiện tinh thần
nhân đạo với những tình tiết giảm nhẹ TNHS hợp lý, hợp tình. Ngoài hành vi nhận,
đưa, trung gian đưa hối lộ, Quốc triều Hình luật còn quy định một số hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn khác để trục lợi như: quan giám quản tự tiện dùng dân
đinh làm việc riêng cho mình (Điều 166); quan thu thuế giấu bớt thuế đã thu hoặc
thu thêm thuế để làm của riêng (Điều 206); ... Như vậy, có thể nói rằng những quy
định của Quốc triều Hình luật về các TPTN, tham nhũng là một điểm sáng trong
lịch sử lập pháp Việt Nam.
Sau đó, Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc
từ pháp luật phong kiến Trung Hoa nhưng cũng vẫn tiếp thu được một phần những
tiến bộ đó trong quy định các TPTN, tham nhũng. Luật này quy định về các hành vi
nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ nhũng nhiễu nhân dân và đều bị xử lý nghiêm
khắc. Chẳng hạn, Chương IX - Nhận hối lộ, Quyển XVII quy định chín điều luật để
xử lý như: Điều 1 - Quan lại nhận tiền của; Điều 2 - Tọa tang chí tội; Điều 3 - Sau
công việc mới nhận tiền; Điều 4 - Quan lại hứa nhận tiền của; Điều 5 - Có công việc
dùng tiền của cầu cạnh; Điều 6 - Làm quan lại sách nhiễu vay mượn tiền của của
dân; Điều 7 - Cho người nhà sách nhiễu tiền của; Điều 8 - Nhận việc công bắt dân
đóng góp và Điều 9 - Lưu giữ tang vật ăn trộm. Điều 1 quy định quan lại nhận tiền
17



của nêu rõ: “Phàm quan lại mà nhận của thì tính hết tang vật mà định tội. Quan thì
bị truy thu bằng sắc và bị cấm không được dùng các danh hiệu quan chức hoặc
phẩm hàm, lại thì bị bãi chức dịch, đều không được tiếp tục sử dụng... Theo lệ thì
các quan viên phạm tội từ phạt 100 trượng đều bị bãi chức, không được tiếp tục sử
dụng, riêng phạm tội nhận hối lội chỉ từ 1 lạng trở xuống, nếu uổng pháp phạt 70
trượng, nếu bất uổng pháp phạt 60 trượng, đều bị bãi chức…” [22, tr 23]; Điều 4
quy định về quan lại hứa nhận tiền của nêu: “Phàm quan lại đồng ý cho đem tiền
của tới, tuy chưa tiếp nhận, nhưng nếu là trường hợp việc bị xử sai, chuẩn theo
điều uổng pháp mà luận tội…”; Điều 6 quy định về làm quan lại sách nhiễu, vay
mượn tiền của dân nghiêm trị “phạm quan lại cấu kết với đồng bọn cường hào sách
nhiễu, vay mượn tiền của của dân sở tại thuộc mình cai quản, thì tính toàn bộ tang,
chuẩn theo điều bất uổng pháp mà luận tội. Nếu là cưỡng mức thì chuẩn theo điều
uổng pháp mà luận tội, tiền của trả lại cho chủ…”; Điều 9 quy định trường hợp
“phàm quan tuần bố đã bắt được bọn trộm cướp kèm theo tang vật mà lưu giữ tang
vật không đưa lên quan thì phạt 40 roi. Nếu bỏ túi tính tang thì lấy bất uổng pháp
luận tội...”. Thậm chí, ngay cả các quan lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng dân
đinh, phu thợ làm việc riêng cũng bị xử lý. Điều 9 (Chương I - Hộ dịch, Quyển VI)
quy định: “Phàm các quan ty sai khiến dân sở tại làm việc riêng cho mình và quan
giám công sai dân thợ làm việc riêng cho mình ở nơi xa ngoài 100 dặm hoặc sai
khiến lâu ngày ở nhà mình, thì đối với quan ti cứ sai khiến 1 tên dân là bị xử đánh
40 roi, cứ 5 tên lại tăng thêm một mức, tội nặng nhất cũng chỉ đánh 80 trượng…”.
Tiếp đến, cả việc gây khó dễ ở cửa quan, bến đò cũng bị xử lý nghiêm khắc. Điều 3
(Chương III - Quan ải, Quyển XI) quy định: “Người và thuyền bè qua lại nơi cửa
quan, bến đò mà thủ bá không lập tức xét hỏi, kiểm tra rồi quan đi qua mà vô cớ
gây cản trở, thì cứ chậm một ngày bị xử phạt 20 roi, thêm một ngày thì xử tăng một
mức, tội chỉ tới mức 50 roi. Nếu nhận hối lộ thì chiếu theo lệ quan lại làm việc nhận
hối lộ thì người hữu sự, luận tội uổngpháp, tính theo số tang vật mà xử tội...”. Đặc
biệt, để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tham ô, Bộ luật còn quy định tại Ðiều 5 Tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản (Chương II - Ruộng đất, Quyển

18


VI) nêu rõ: “Phàm quan lại đương chức không được mua tậu ruộng đất, nhà cửa ở
khu vực mình cai quản. Nếu vi phạm, xử phạt 50 roi, bãi nhiệm, ruộng đất nhà cửa
đem sung công”; Điều 7 - Vay mượn riêng tiền lương của công (Chương IV - Kho
tàng, Quyển VIII) quy định: “Phàm giám thủ, chủ thủ đem các loại tiền lương của
Nhà nước mượn riêng hoặc chuyển cho người khác vay mượn, tuy có văn tự, đều bị
tính theo tang vật mà xử vào tội giám thủ tự lấy trộm... Nếu đem đồ vật của mình
thay thế đổi lấy đồ vật của Nhà nước thì cũng xử tội như thế. Đồ vật của riêng đó
đem sung công...” [22, tr41]...
Tóm lại, trong xã hội phong kiến Việt Nam, việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm chức vụ và các TPTN đã được các triều đình quan tâm sâu sắc. Mặc dù pháp
luật phong kiến quy định về các tội phạm mà đối tượng là quan lại hoặc những
người có chức sắc nhất định có thể còn chứa đựng sự bất công, phân biệt đẳng cấp
(về sau đặc biệt là trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược) hoặc chịu ảnh hưởng chi
phối của pháp luật Trung Hoa nhưng cơ bản đã đạt được các thành tựu nhất định
trong đấu tranh PCTN , lãng phí, tiêu cực mà những điểm tiến bộ của chúng có thể
kế thừa để hoàn thiện pháp luật (hình sự) Việt Nam hiện đại.
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành BLHS Việt Nam năm 1985
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà giành được độc lập,
Đảng, Nhà nước ta đã rất chú ý đến vấn đề tham nhũng, các quy định về chống tham
nhũng, lãng phí, thực hiện tiết kiệm và ngăn cấm chiếm hữu tài sản công được đặt
ra. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản để bảo vệ tài sản của Nhà nước
và của nhân dân, bảo vệ hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, ngăn ngừa sự
vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, Đảng viên. Tội phạm về tham nhũng giai
đoạn này vẫn chưa được quy định một cách cụ thể và có hệ thống trong các văn bản
pháp luật hình sự mà chủ yếu được quy định bằng các sắc lệnh, pháp lệnh, Nghị
quyết.

Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển
thủ công quỹ. Theo quy định tại Sắc lệnh này, chủ thể của tội phạm tham nhũng
19


không những là công chức mà còn có nhân viên trong Chính phủ, trong Ủy ban
hành chính các cấp, các cơ quan do dân bầu. Các hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội rất nghiêm khắc, thể hiện sự quyết liệt, không khoan nhượng đối với
loại tội phạm này. Ví dụ như đối với tội đưa hối lộ (Điều 1), người phạm tội có thể
bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản; các đồng phạm và tòng phạm
cũng bị phạt như trên.
Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1946, quy định trừng trị những âm mưu hoạt
động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở
việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước.
Nghị quyết số 163/CP, ngày 25/10/1963 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận
động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ
thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Với việc ban hành Nghị quyết này, thể hiện
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác đấu tranh PCTN.
Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Trừng trị
các tội phạm xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh Trừng trị các tội phạm xâm
phạm tài sản riêng của công dân. Theo quy định tại các Sắc lệnh này, một số tội
phạm về tham nhũng được quy định là: Tội tham ô tài sản XHCN (Điều 8); Tội cố ý
làm trái nguyên tắc chính sách về kinh tế, tài chính gây thiệt hại tài sản XHCN
(Điều 12); Tội lạm dụng chức quyền chiếm đoạt tài sản riêng của công dân (Điều 8).
Sắc luật số 03/SL, ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm
thời Miền Nam Việt Nam quy định một số tội phạm trong đó có cả việc trừng trị các
tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tội đưa và nhận hối lộ.
Pháp lệnh Trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20/5/1981, tại pháp
lệnh này lần đầu tiên các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ được quy định thành một điều
độc lập. Pháp lệnh này đã giúp cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa TNHS được

chính xác.
Trong giai đoạn này, số lượng các văn bản pháp luật về tội tham nhũng tuy
chưa nhiều, việc quy định những tội phạm này chưa được đầy đủ, thống nhất nhưng
điều này cũng đã thể hiện được sự nhận thức của Đảng, Nhà nước về sự nguy hiểm
20


của loại tội phạm này. Muốn bảo vệ chính quyền non trẻ và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên cả nước thì phải kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi tệ tham nhũng ra
khỏi đời sống xã hội.
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 cho đến trước khi ban
hành BLHS 1999
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các
TPTN ngày càng diễn biến phức tạp, tính chất, mức độ và hậu quả ngày càng gia
tăng. Các văn bản pháp luật ban hành trước năm 1985 ngày càng trở nên lạc hậu,
không còn phù hợp. Đứng trước tình hình đó, ngày 27/6/1985, BLHS đầu tiên của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được ban hành. Kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình
sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm những giai đoạn trước đó, BLHS
năm 1985 đã dành một Chương quy định về các tội phạm về chức vụ. Khái niệm tội
phạm về chức vụ tại Điều 219 quy định như sau: “Tội phạm về chức vụ là những
hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội
do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thi hành nhiệm vụ”. Điều 219
cũng diễn giải khái niệm “người có chức vụ” là người “do bổ nhiệm, do dân cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực
hiện công vụ”.
Các tội phạm về chức vụ được quy định ở chương IX BLHS năm 1985 bao
gồm 08 Điều (từ Điều 220 đến Điều 228). BLHS năm 1985, không tách các TPTN
ra thành một mục riêng mà quy định chung là nhóm tội phạm về chức vụ. Những tội
có dấu hiệu cấu thành tội phạm của các TPTN cũng đã được mô tả một cách tương

đối cụ thể. Hình phạt đối với các tội phạm này được quy định nghiêm khắc và đa
dạng, tuy nhiên hình phạt tiền nhằm thu hồi tài sản vốn rất quan trọng trong việc
khắc phục hậu quả của tham nhũng lại chưa được đề cập tới.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông
qua ngày 10/5/1997, tại Điều 1 quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS về
các TPTN, trong đó lần đầu tiên LHS sử dụng thuật ngữ tội phạm tham nhũng và
21


nêu tên tội danh cụ thể về tham nhũng, đó là các tội: Tội tham ô tài sản XHCN
(Điều 133); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN
(Điều 134a); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản XHCN (Điều
137a); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều
156); tội lập quỹ trái phép (Điều 175); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm
quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221); Tội lạm quyền trong khi thi hành
công vụ (Điều 221a); tội giả mạo trong công tác (Điều 224); tội nhận hối lộ (Điều
226); tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ (Điều 227); tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 228a).
Ngoài ra, bổ sung cho BLHS năm 1985, Nhà nước ta còn ban hành Pháp lệnh
PCTN năm 1998 quy định khá cụ thể về khái niệm tham nhũng, các hành vi tham
nhũng và các hành vi phạm tội chức vụ khác. Bên cạnh đó, hàng loạt các văn bản
khác của Nhà nước cũng tiếp tục ban hành để tạo hệ thống văn bản đồng bộ trong
công tác đấu tranh chống tham nhũng như: Quyết định số 240-HĐBT ngày
26/6/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống tham nhũng; Chỉ
thị số 416-CT ngày 03/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường
công tác thanh tra, điều tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu; Chỉ thị số 08CT/TATC ngày 06/12/1990 của Tòa án nhân dân tối cao về triển khai chống tham
nhũng, chống buôn lậu qua biên giới và một số tội phạm kinh tế khác; Quyết định
số 114-TTg ngày 21/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng và buôn lậu; Nghị quyết của
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư ngày 30/12/1993

về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu...
Mặc dù vẫn có một số hạn chế nhất định nhưng BLHS năm 1985 là một văn
bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm
nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng. Các quy định của Bộ luật đã thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là xử lý nghiêm khắc, không
khoan nhượng đối với loại tội phạm này. BLHS năm 1985 đã đánh dấu bước phát

22


triển tiến bộ về lập pháp hình sự nước ta, là cơ sở nền tảng cho việc hoàn thiện các
quy định đối với các TPTN sau này.
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 cho đến nay
Kể từ khi BLHS năm 1999 được ban hành, 11 hành vi của Pháp lệnh Chống
tham nhũng đã được quy định cụ thể trong 07 tội danh về tham nhũng trừ hành vi
“lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ” được quy định chung
trong nhóm các tội phạm khác về chức vụ khác.
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua
Luật PCTN (Luật PCTN), luật đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2007 và 2013. Điều
3 của Luật này đã bổ sung thêm hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi” là hành vi tham nhũng, loại hành vi này thường xảy ra trong nhiều lĩnh vực hoạt
động công vụ, như hoạt động thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính, quản lý trật tự
xây dựng, quản lý thị trường... (không lập biên bản vi phạm đối với các hành vi vi
phạm). Về cơ bản, đây có thể chỉ là những hành vi “tham nhũng vặt” 4, BLHS 1999
sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 cũng chưa có quy định để xử lý hình sự đối
với hành vi này.
Kế thừa các quy định của BLHS 1999, BLHS 2015 vẫn giữ 7 tội danh về tham
nhũng như trước tại mục 1 Chương XXIII nhưng đã thừa nhận và mở rộng phạm vi
đối với các TPTN sang lĩnh vực tư; cụ thể hóa các tình tiết định tính; bổ sung thêm
các tình tiết định khung mới và tăng giá trị tài sản bị chiếm đoạt hoặc bị thiệt hại do

các hành vi tham nhũng gây ra theo khung tương ứng của BLHS 1999. Hiện nay, để
phù hợp với các quy định của BLHS 2015 hiện hành và đáp ứng công cuộc đấu tranh
loại trừ tội phạm tham nhũng, Quốc hội đang tiến hành lấy ý kiến thông qua Dự thảo
Luật PCTN sửa đổi, bổ sung.
Tóm lại, cùng với BLHS, hệ thống các văn bản trong lĩnh vực PCTN ở nước
ta đã tạo ra một khung pháp lý tương đối hoàn thiện về loại tội phạm này. Điều này
giúp cho công tác đấu tranh PCTN của nước ta ngày càng hiệu quả. Đồng thời, là cơ
4 Xem: Những hành vi tham nhũng có nguy cơ nảy sinh trong hoạt động công vụ, Cổng thông tin
điện tử Tạp chí Cộng sản, truy cập ngày 03/9/2018 tại địa chỉ: />
23


sở pháp lý để các nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định về tội phạm
tham nhũng trong BLHS 2015 hiện hành.

Chương 2
DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TPTN
THEO BLHS 2015
2.1. DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TPTN THEO
BLHS 2015
Tội phạm theo nghĩa hình sự, đó là hành vi có đủ những yếu tố CTTP do
PLHS quy định. Trên phương diện lý luận, người ta có thể phân chia các tội phạm
ra các bộ phận cấu thành và nghiên cứu chúng. Những yếu tố CTTP là thể thống
nhất giữa các dấu hiệu khách quan, chủ quan, khách thể và chủ thể của tội phạm.
Các dấu hiệu của CTTP chính là các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, được phân chia

24


thành các dấu hiệu bắt buộc, không bắt buộc và được mô tả trong LHS thường rất

khác nhau.
Việc xem xét các dấu hiệu pháp lý và đặc điểm chung của các TPTN giúp
nhà làm luật và các cơ quan tư pháp phân biệt được các TPTN với các loại tội phạm
khác, từ đó quy định và áp dụng những biện pháp phòng, chống một cách phù hợp,
hiệu quả đối với từng loại tội phạm. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất pháp lý của từng
tội phạm về tham nhũng và để phân biệt giữa các TPTN với nhau cũng như phân
biệt từng tội phạm về tham nhũng với các tội phạm cụ thể khác, các loại tội phạm
về tham nhũng được quy định trong PLHS hiện hành cần được xem xét một cách kỹ
lưỡng căn cứ vào các quy định cụ thể. BLHS 2015 đã có sự mở rộng về phạm vi và
cấu thành của các TPTN, trong nội dung chương 2, người viết sẽ phân tích các quy
định của BLHS 2015 về nhóm tội phạm này, đồng thời, có sự so sánh, đối chiếu với
các quy định của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để làm rõ những điểm
mới, tiến bộ trong tư duy lập pháp của các nhà làm luật, cũng như tính khả thi trên
thực tế khi áp dụng các quy định của BLHS 2015.
2.1.1. Khách thể của tội phạm tham nhũng
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại5. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố quan trọng cấu
thành tội phạm, xác định đúng khách thể của tội phạm cũng đồng nghĩa với việc xác
định được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ở đây, khách thể
của tội phạm tham nhũng là những hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, doanh nghiệp; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hoạt động đúng đắn của bộ máy Nhà nước, tổ chức xã hội là khái niệm rất
chung để chỉ mỗi cơ quan tổ chức thực hiện đúng nhiệm vụ của mình của pháp luật
quy định. Tuỳ theo nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao phó mà
hoạt động đúng đắn đó thể hiện ở một lĩnh vực khác nhau. Để bảo vệ có hiệu quả
hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội Luật Hình sự chia chúng

5 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (20029), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Nxb. CAND,
tr.62.


25


×