Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài thu hoạch hạng 3 (tiểu luận 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.79 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Đã từ lâu Đảng và nhà nước ta đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu là bệ
phóng cho sự phát triển của đất nước. Giáo dục có một vị trí và tầm quan trọng
hết sức to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn các quốc gia
cần nhiều lực lượng lao động có chất lượng cao, phục vụ cho yêu cầu công
nghiệp hóa hiện đại hóa. GS Võ Tòng Xuân đã nhận xét :" Trong một nền kinh
tế toàn cầu của thị trường tự do cạnh tranh mãnh liệt, một lực lượng lao động
được đào tạo ở trình độ chất lượng cao là yếu tố sống còn của một nền kinh tế
quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài vào tạo nên việc làm và của cải cho đất
nước. Vì thế chất lượng giáo dục phổ thông bắt đầu từ Tiểu học ngày càng được
công nhận là cơ sở quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và được coi như công
cụ để đạt được những mục tiêu phát triển khác. Các tổ chức phát triển quốc tế đã
và đang tài trợ mạnh cho giáo dục phổ thông tại các nước nghèo chậm tiến vì họ
công nhận hai vai trò của giáo dục: vừa là yếu tố nhằm tăng trưởng kinh tế, vừa
là yếu tố giúp giảm đói nghèo".
2. Xu hướng quốc tế về đổi mới và phát triển chương trình giáo dục phổ
thông
Trong đổi mới GDPT, vấn đề đổi mới chương trình luôn là tâm điểm, nó chi
phối và có tác động to lớn đến nhiều yếu tố khác của toàn hệ thống GDPT.
Chương trình GD được hiểu đầy đủ nhất bao gồm các thành tố: Mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra kết quả học tập.
Một số vấn đề cơ bản về CTGDPT:
- Mục tiêu GD; giới thiệu mục tiêu chung và mục tiêu từng cấp học.
- Chuẩn ; Cấu trúc của chuẩn, cách biểu đạt chuẩn
- Cấu trúc khung; các lĩnh vực môn học ; các mạch nội dung lớn
- Xu thế tích hợp và phân hóa; tích hợp chủ yếu là tích hợp ở các môn khoa
học tự nhiên và tích hợp ở các môn khoa học xã hội. đối với dạy học phân hóa
đó là một xu thế tất yếu của thế giới cũng như của Việt Nam. Phân hóa được
thực hiện qua 2 hình thức phân ban và tự chọn. Đối với dạy học phân ban học



sinh có thể học theo môn, theo cùng một lĩnh vực, nhóm môn, ngành. Đối với
dạy học phân ban có một khoảng thời gian chúng ta bàn luận rất nhiều nên giữ
hay bỏ trường chuyên, lớp chọn. và rồi chúng ta đã bỏ loại hình trường này. Đối
với dạy học tự chọn là HS được chọn học một số môn học, nhóm môn học được
đưa ra. trong dạy học tự chọn lại có thể có các hình thức tự chọn khác nhau:
- Hình thức tín chỉ; HS được chọn các môn học hoặc modul thuộc các môn
sao cho đủ số tín chỉ quy định.
- Chọn các môn thuộc các lĩnh vực khác nhau.
- Chọn các môn học tùy ý theo danh sách các môn học được đưa ra.
- Học một số môn học bắt buộc và một số môn tự chọn.
Tổ chức dạy phân hóa đặc biệt ở cấp PT hình thức phân ban chỉ được một số
ít quốc gia áp dụng, trong khi hình thức tự chọn là xu thế phổ biến hơn. Dạy học
phân hóa được thực hiện theo nguyên tắc phân hóa sâu dần. Cụ thể ở cấp Tiểu
học thường quy định HS học các môn học bắt buộc, đồng thời có một số hoạt
động, chủ đề tự chọn, các hoạt động, chủ đề tự chọn này tích hợp các kĩ năng,
kiến thức của các môn học bắt buộc. Ở cấp THCS học sinh học các môn học bắt
buộc, đồng thời có một số môn chủ đề tự chọn nhiều hơn cấp Tiểu học. Ở cấp
THPT được phân hóa sâu hơn, nhằm tới việc đáp ứng được nhu cầu, nguyện
vọng, xu hướng nghề nghiệp của từng học sinh. Phân luồng trong giáo dục cũng
là một hình thức phân hóa. Đa số phân luồng sau THCS và sau THPT một bộ
phận đáng kể học sinh theo học các trường nghề một số tiếp tục học lên cấp học
cao hơn.
Chính vì vậy đổi mới căn bản toàn diện giáo dục là tất yếu và hợp với xu thế
phát triển của thế giới.


NỘI DUNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊN TIỂU HỌC HẠNG III
1. Khái niệm về năng lực

Có rất nhiều khái niệm về năng lực nhưng tựu chung đều khẳng định năng
lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí của cá nhân, được hình thành và phát triển
trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể; là sức mạnh tiềm tàng của con người trong
giải quyết các vấn đề thực tiễn.
2. Thực trạng năng lực giáo viên Tiểu học
Hiện nay ở cấp Tiểu học có hơn 99% giáo viên đạt chuẩn trở lên. Nhưng một
bộ phận đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí trường Tiểu học còn một số hạn chế,
bất cập; Số lượng cán bộ quản lí có trình độ cao về chuyên môn quản lí còn ít,
tính chuyên nghiệp, kĩ năng dạy học của nhiều giáo viên chưa cao. Nhiều giáo
viên và cán bộ quản lí còn hạn chế về chuyên môn khai thác, sử dụng thiết bị
dạy học để đưa phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận nội dung
sang tiếp cận năng lực người học. Nhiều cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học còn
hạn chế về kĩ năng tham mưu, xây dựng kế hoachjvaf chỉ đạo tổ chức hoạt động
giáo dục theo các mô hình mới, còn bất cập trong kiểm tra, đánh giá chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
3. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học
Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học là sự phát triển nghề
nghiệp mà một giáo viên đạt được do có các kĩ năng nâng cao, qua quá trình học
tập, nghiên cứu, tích lũy kinh nghiện nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của việc
giảng dạy một cách hệ thống.
Giáo viên cần có các năng lực sau:
- Năng lực tìm hiểu học sinh Tiểu học
- Năng lực tìm hiểu môi trường nhà trường Tiểu học
- Năng lực tìm hiểu môi trường xã hội
- Năng lực dạy học các môn học


- Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng xã hội, kĩ năng sống và
giá trị sống cho học sinh Tiểu học
- Năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo

- Năng lực giải quyết các tình huống sư phạm
- Năng lực giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi
- Năng lực tư vấn và tham vấn giáo dục Tiểu học
- Năng lực hiểu biết các kiến thức khoa học nền tảng rộng, liên môn
- Năng lực chủ nhiệm lớp
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hoạt động xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp và năng lực
nghiên cứu khoa học giáo dục Tiểu học.
4. Trên những thực trạng năng lực giáo viên Tiểu học tôi đề xuất một số
giải pháp phát triển năng lực sau:
Một là, thay đổi cách đánh giá giáo viên tiểu học, để tạo điều kiện cho giáo
viên phát huy năng lực sáng tạo trong giáo dục và dạy học của mỗi giáo viên.
Hai là, tăng cường hỗ trợ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới sinh hoạt chuyên
môn để cập nhật những xu hướng mới trong giáo dục. Giải quyết những khó
khăn của giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh.
Ba là, khuyến khích giáo viên tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm, nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học để ứng dụng trong
hoạt động nghề nghiệp.
Bốn là, thường xuyên tổ chức thực hiện phát triển năng lực đội ngũ nhà giáo
để giáo viên không ngừng phát triển và hoàn thiện chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp.
5. Các nhiệm vụ cơ bản để nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên:
Trước hết, cần phải làm cho mỗi giáo viên nhận ra một cách đầy đủ,
sâu sắc các vấn đề liên quan đến phát triển chuyên môn của mình
Hiện nay, nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa
chấp nhận bản thân và đồng nghiệp. Mỗi khi có đánh giá, nhận xét hay xếp loại
chuyên môn trong các kỳ đánh giá xếp loại theo quy định của Phòng, Sở Giáo


dục và Đào tạo, giáo viên thường có xu hướng tự nâng mức bản thân bằng hoặc

cao hơn người khác. Giáo viên thường tự đánh giá mình đạt mức tốt, khá (hiếm
khi tự đánh giá trung bình, yếu). Thực tế, cơ bản họ không muốn đánh giá bản
thân thấp hơn người khác kể cả khi họ hiểu rằng trên thực tế mình chưa đạt được
mức tự đánh giá. Mặt khác, giáo viên có xu hướng bằng lòng với năng lực bản
thân. Đặc biệt, với những giáo viên được coi là giáo viên giỏi luôn bằng lòng với
kết quả đánh giá hiện tại và không tiếp tục phấn đấu, học hỏi chuyên môn. Họ
không phấn đấu đạt được những tiêu chuẩn cao hơn của người giáo viên trong
thời kỳ mới. Thậm chí, ngay cả khi nhu cầu học tập hiện tại của học sinh chưa
được đáp ứng họ cũng chưa nhận ra hoặc chưa quan tâm đến.
Giúp giáo viên có khả năng nhận ra, biết chấp nhận mỗi cá nhân học
sinh
Khi biết chấp nhận học sinh như một cá thể độc lập, họ sẽ biết chấp nhận
bản thân và ngược lại. Chấp nhận học sinh là điều kiện cần để tiến hành giáo dục
theo quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Người giáo viên có biết
chấp nhận học sinh thì mới có thể tạo ra môi trường học tập thoải mái và tiến
hành bài học có ý nghĩa. Họ có thể thể hiện tình yêu thương, trân trọng với tất cả
học sinh như con em của chính mình, nếu một lớp học có 30 em học sinh thì cả
30 em đều được yêu quý như nhau.
Hiện nay, các cấp quản lý giáo dục luôn yêu cầu và mong muốn giáo viên
quan tâm đến mọi đối tượng học sinh (đặc biệt những học sinh có khó khăn
trong học tập) trong quá trình dạy học nhưng nhận ra lúc nào cần phải quan tâm
như thế nào, làm thế nào để học có thói quen tự giác, thường xuyên quan tâm
đến học sinh thì không dễ dàng.
† Giáo viên cần hiểu đúng và áp dụng được phương pháp giáo dục mới
vào thực tế giảng dạy hàng ngày
Thực tế hiện nay đội ngũ giáo viên tiểu học được đào tạo và bồi dưỡng
hàng năm về phương pháp dạy học mới. Nhưng giữa lý thuyết và thực tế, giữa
nhận thức và hành động luôn có khoảng cách lớn. Trong những chương trình bồi
dưỡng vẫn còn nhiều giáo viên chưa hiểu đúng và đủ bản chất vấn đề. Chỉ khi



bắt đầu vào vận dụng thực tế dạy học trên lớp, họ mới thực sự gặp phải khó
khăn.
Nhiều giáo viên có thể biết và hiểu lý thuyết nhưng trong thực hành tác
nghiệp, trước những tình huống đa dạng, phức tạp nảy sinh trong việc học của
học sinh, việc vận dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tế còn nhiều khó
khăn. Thậm chí, do có nhiều giáo viên hiểu chưa đúng, nên số đông trong số họ
còn e ngại và thiếu quyết tâm vận dụng cái mới.
Khi thực hiện Chương trình Giáo dục, nhiều giáo viên vẫn tin rằng chỉ cần
cố gắng dạy học theo đúng, đủ những gì theo SGK, SGV là tốt rồi. Từ đó có ý
thức thực hiện dạy học theo khuôn mẫu một cách thụ động. Khi họ muốn thay
đổi cho phù hợp thực tế nhưng lại gặp khó khăn khi không biết phải thay đổi
như thế nào và làm cách nào để thay đổi.
† Giáo viên cần được khuyến khích và hỗ trợ tự học nâng cao năng lực
và đổi mới phương pháp dạy học
Chủ trương của ngành Giáo dục - Đào tạo khuyến khích giáo viên tự học
nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học, song trên thực
tế thì việc khuyến khích và hỗ trợ giáo viên thực hiện việc tự học còn hạn chế.
Giáo viên sẽ tự học những gì, như thế nào, lúc nào và ở đâu để đảm bảo hiệu quả
thiết thực cho công việc dạy học hàng ngày, đáp ứng tốt việc học của học sinh là
những câu hỏi lớn mỗi giáo viên không thể tự mình giải quyết. Mặc dù hầu hết
giáo viên đều được khuyến khích học để nâng cao trình độ đào tạo (đạt chuẩn và
trên chuẩn trình độ đào tạo) nhưng năng lực chuyên môn đáp ứng đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều hạn chế.
Điều này thể hiện ở thực trạng hiện nay, trước định hướng của các cấp quản lý
giáo dục cho phép và khuyến khích giáo viên vận dụng, điều chỉnh nội dung các
bài học trong SGK cho phù hợp với các đối tượng học sinh nhưng do chưa có
hiểu biết sâu rộng về nội dung bài học đó nên nhiều giáo viên chưa dám hoặc
không có khả năng thực hiện, họ vẫn chỉ dạy những gì có sẵn trong SGK. Mặc
dù tỉ lệ giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn (đã tốt nghiệp đại học, cao

đẳng) khá cao nhưng năng lực chuyên môn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới


hiện nay. Điều đó chứng tỏ cơ hội học tập thực sự có ý nghĩa để nâng cao năng
lực chuyên môn của giáo viên vẫn chưa đảm bảo.
Trong khi cơ hội tự học chỉ có thể được tạo ra và phát huy trên cơ sở tạo
ra các "tình huống học tập cộng tác" giữa các giáo viên. "Tình huống học tập
cộng tác" đó chỉ có thể xuất hiện khi các nhà trường tổ chức cho giáo viên các
buổi để họ "chia sẻ chuyên môn" trong sinh hoạt chuyên môn theo cách tiếp cận
mới. Trong đó, họ có cơ hội được học hỏi bằng quá trình tự trải nghiệm, học hỏi
từ đồng nghiệp nhờ thiết kế giáo án, tiến hành, dự giờ nhiều bài học ở các lớp
học khác nhau. Đó là con đường học tập thiết thực, hiệu quả và phù hợp nhất
hiện nay đối với tất cả các giáo viên.
† Đổi mới cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện sinh hoạt
chuyên môn ở nhà trường
Hiện nay, ở tất cả các nhà trường, hàng tuần và tháng vẫn duy trì truyền
thống và nền nếp tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên. Tuy
nhiên, cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện vẫn chưa thực sự đổi mới,
chưa mang tính chất chia sẻ chuyên môn vì vẫn còn thiên về đánh giá, đối chiếu
so với tiêu chuẩn hoặc có tính "làm mẫu" của giáo viên giỏi. Trong khi thực tế
năng lực mỗi cá nhân giáo viên khác nhau, hoàn cảnh và điều kiện dạy học khác
nhau, việc học của học sinh ở các giờ học lại luôn luôn biến đổi. Do đó, tất cả
các giáo viên cần được tham gia vào quá trình học tập bằng thực tế theo phương
thức chia sẻ chuyên môn.
Người giáo viên luôn luôn cần được trau dồi, bổ sung, và nâng cao khả
năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người học, sự biến đổi
của các yếu tố trong quá trình giáo dục (nội dung chương trình, phương pháp,
người học,...).
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, cần có một cách tiếp cận mới, quan
trọng và có ý nghĩa để phát triển các năng lực chuyên môn giáo viên đó là tạo cơ

hội cho giáo viên được thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn. Đây là
cách tiếp cận mới giúp giáo viên học tập lẫn nhau trong thực tế và qua thực tế
thông qua trải nghiệm thực sự vào quá trình dự giờ-quan sát-suy ngẫm và chia sẻ


thực tế việc học của học sinh để phát triển các năng lực mới và cần thiết, đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Hơn thế nữa, thực tế đã
chứng minh, sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp nâng cao năng lực chuyên
môn cho mỗi giáo viên mà còn xây dựng được "tính đồng nghiệp" tốt đẹp trong
một "cộng đồng học tập"; giúp họ tìm thấy ý nghĩa và những giá trị mới và sự
thú vị của nghề nghiệp, qua đó khích lệ sự say mê chuyên môn, tích cực và chủ
động xây dựng lại và đổi mới nhà trường.


KẾT LUẬN
Quá trình dạy học cần coi trọng đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt
động trải nghiệm để hình thành và phát triển ở người học năng lực tư duy độc
lập, vận dụng tổng hợp và linh hoạt tri thức để giải quyết có hiệu quả các vấn đề
trong học tập và cuộc sống. Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của
học sinh phải bảo đảm sự thống nhất, tương tác. Trong đó, giáo viên giữ vai trò
chỉ đạo, hướng dẫn, trọng tài; học sinh không chỉ là đối tượng của hoạt động dạy
mà cũng chính là chủ thể của hoạt động học.
Để giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực học sinh thật sự phát huy hiệu
quả cần thay đổi từ SGK theo mô hình thuyết trình (mỗi bài học được trình bày
dưới dạng một văn bản thuyết trình hoàn chỉnh, cuối bài có câu hỏi hoặc bài tập
để hình thành, củng cố, vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng) sang mô hình
hoạt động. Đổi mới mỗi bài học được trình bày dưới dạng kịch bản hoạt động
(có phần hướng dẫn hoạt động học của học sinh và có tác dụng gợi ý hoạt động
dạy của giáo viên). Đối với các cơ sở giáo dục phổ thông cần tích cực đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, đánh giá học sinh; xây dựng kế hoạch dạy học

và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn địa
phương và nhà trường.
Người giáo viên hiện nay không chỉ là người dạy học trên lớp, và làm
nhiệm vụ cung cấp thông tin và truyền thụ kiến thức, mà người giáo viên phải
trở thành người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập của người học.
Từ những thay đổi về vai trò, vị trí của người học và người dạy trong
những hoàn cảnh biến đổi nhanh, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải được
trang bị những kiến thức chuyên môn và năng lực sư phạm, khả năng đáp ứng
linh hoạt và hiệu quả trước những yêu cầu mới.
“Theo đó, việc đào tạo giáo viên cần dựa trên phát triển năng lực nghề
nghiệp và nhấn mạnh đến những kiến thức chuyên ngành, năng lực sư phạm mà
người giáo viên cần phải được đào tạo, bồi dưỡng, để có thể thực hiện các hoạt


động giáo dục một cách hiệu quả nhất trong môi trường công tác thực tế, nâng
cao chất lượng dạy và học” - thạc sỹ Lê Đình Bình trao đổi.
Đồng thời ông cho rằng, xuất phát từ đặc trưng của nhà trường hiện đại,
yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên, là chuyển mục tiêu và
nội dung đào tạo từ chủ yếu cung cấp tri thức sang đào tạo năng lực, chuyển
phương thức tổ chức đào tạo theo định hướng tức là hình thành và phát triển
kiến thức, kỹ năng và năng lực sư phạm, phẩm chất, nhân cách nghề của người
giáo viên theo nguyên lý hoạt động, thông qua việc nghiên cứu và giải quyết các
tình huống sư phạm, phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên theo chu
trình: đào tạo - bồi dưỡng thường xuyên.
Cần bồi dưỡng những kiến thức, kỹ năng nền tảng để nâng cao năng lực
nghề nghiệp theo chuẩn nghề nghiệp, đặc biệt bổ khuyết những năng lực mà
giáo viên đang còn yếu, còn thiếu do chưa được đào tạo hoặc bồi dưỡng kịp
thời. Bồi dưỡng theo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Tùy
theo từng ngành cần cập nhật bồi dưỡng kiến thức mới; bồi dưỡng thực hành các
phương pháp, cách thức xây dựng kế hoạch tổ chức dạy học mới; ứng dụng khoa

học - công nghệ vào dạy học…“Các chương trình tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
được phát triển theo hướng đa dạng hóa, có bảo bản in, bản điện tử, video clip,
đĩa CD, cẩm nang hỏi đáp… trong đó chú trọng việc “số hóa”, đưa lên mạng
Internet tất cả các thông tin để tạo điều kiện cho giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục có thể tự học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Hình thức bồi dưỡng, đa dạng hóa
học tập bồi dưỡng. Bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng theo cụm, bồi dưỡng tại
trường, bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng từ xa… Linh hoạt trong cách tổ chức,
tùy vào điều kiện cụ thể”
Đà Bắc, ngày 29 tháng 05 năm 2018
NGƯỜI VIẾT


Trần Thị Ngọc Hà



×