Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.89 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------

MAI THỊ HOÀN

XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG THƠ NÔM
TRÀO PHÚNG NGUYỄN KHUYẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------

MAI THỊ HOÀN

XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG THƠ NÔM
TRÀO PHÚNG NGUYỄN KHUYẾN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS-TS Vũ Thanh



Thái Nguyên – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn

Mai Thị Hoàn


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS Vũ Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn

Mai Thị Hoàn



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................... 1
1.1. Lý do khoa học ..................................................................................................... 1
1.2. Lí do thực tiễn ....................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 3
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ................................ 3
2.2. Nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến..... 6
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ......................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .................................................................. 7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................... 7
4.2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 7
4.2.1. Phương pháp liên ngành ........................................................................ ...7
4.2.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp........................................................... 8
4.2.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học .......................................................... 8
4.2.4. Phương pháp loại hình .............................................................................. 8
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 8
5.1. Phạm vi nội dung .................................................................................................. 8
5.2. Phạm vi tư liệu ...................................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
Chương 1 .................................................................................................................... 10
XUNG ĐỘT VĂN HÓA GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC TRÀO PHÚNG .................................................. 10
1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm trào phúng, tự trào và văn học trào phúng ........................... 10



1.1.2. Khái niệm văn hóa, xung đột văn hóa và xung đột văn hóa trong thơ trào
phúng ................................................................................................................. 11
1.2. Sự hình thành và phát triển xung đột văn hóa trong văn học trào phúng Việt
Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX .......................................................................... 15
1.2.1. Vấn đề xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX ........................ 15
1.2.2. Vấn đề xung đột văn hóa trong văn học trào phúng ............................... 21
1.3. Văn học trào phúng và vai trò của văn học trào phúng trong sự phát triển văn
học dân tộc.................................................................................................................. 23
1.4. Tiểu kết Chương 1 .............................................................................................. 27
Chương 2 .................................................................................................................... 29
NỘI DUNG XUNG ĐỘT VĂT HÓA TRONG THƠ NÔM TRÀO PHÚNG
NGUYỄN KHUYẾN ................................................................................................ 29
2.1. Xung đột giữa văn hóa phương Đông và phương Tây..................................... 29
2.1.1. Giữa tinh thần yêu nước, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc với văn hóa
ngoại lai của kẻ xâm lược ................................................................................. 29
2.1.2. Giữa phong tục, tập quán và lối sống mới trong xã hội thực dân phong
kiến .................................................................................................................... 34
2.2. Sự đối lập giữa truyền thống khoa cử, học vấn lâu đời của dân tộc với thực
trạng xã hội đương thời.............................................................................................. 42
2.2.1. Truyền thống học vấn rực rỡ .................................................................. 42
2.2.2. Thực trạng của các trường thi và danh vị tiến sĩ mới. Sự xuống cấp của
Đạo học ............................................................................................................. 43
2.2.3. Xung đột giữa tầng lớp nho sĩ yêu nước và những kẻ khoác áo nhà nho
làm tay sai, bù nhìn cho kẻ thù.......................................................................... 46
2.3. Xung đột văn hóa dẫn đến những mâu thuẫn trong bản thân nhà thơ............. 51
2.3.1. Giữa học vấn, tài năng, khát vọng và hiện thực xã hội .......................... 51
2.3.2. Hình tượng “con người thừa” và cảm giác cô độc, bất lực của nhà thơ
trước những biến động xã hội ........................................................................... 54



2.4. Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................. 62
Chương 3 .................................................................................................................... 64
NGHỆ THUẬT THỂ BIỂU HIỆN XUNG ĐỘT VĂN HÓA QUA THƠ NÔM
NGUYỄN KHUYẾN ................................................................................................ 64
3.1. Khai thác triệt để các mâu thuẫn, xung đột của đối tượng trào phúng từ góc độ
văn hóa ........................................................................................................................ 64
3.2. Khai thác xung đột nội tâm, đối lập bản thân với thực trạng xã hội ............... 71
3.3. Các phương thức nghệ thuật trào phúng khác thể hiện xung đột văn hóa - xã
hội................................................................................................................................ 76
3.3.1. Khai thác thế mạnh của thể loại và ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật ...... 76
3.3.2. Xây dựng các biểu tượng mang tính xung đột, đối lập ........................... 86
3.4. Tiểu kết Chương 3 .............................................................................................. 91
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 95


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Cuộc chiến tranh xâm lược và chính sách thuộc địa của thực dân Pháp
vào cuối thế kỉ XIX đã chuyển Việt Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội
thực dân nửa phong kiến. Việt Nam có sự thay đổi trên rất nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, quân sự…, trong đó do sự du nhập của văn hóa phương Tây tạo ra
một xã hội “nửa ta, nửa tây” với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm của một
nền văn minh “rởm”. Các giá trị văn hóa truyền thống có nguy cơ bị chối bỏ
thay vào đó là sự đua đòi chạy theo phương Tây của một bộ phận người dân.
Với những diễn biến trên nền văn hóa dân tộc có quá nhiều chuyển biến phức
tạp, có sự đấu tranh giữa văn hóa Đông và Tây, và với mục đích thống trị của

mình, thực dân Pháp sẽ cố lái theo hướng có lợi cho họ vì vậy văn hóa phương
Tây dần lấn át. Nhưng một bộ phận những trí thức, người dân yêu nước sẽ
không chấp nhận thực tại, từ đó tạo nên xung đột văn hóa Đông và Tây. Đó sẽ
là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà nho yêu nước trung vua, thông qua tác
phẩm văn học của mình sẽ nói lên tiếng nói lên án, tố cáo và thể hiện niềm yêu
mến, trân trọng và tiếc nuối những gía trị văn hóa truyền thống, thầm kín bộc
lộ lòng yêu nước.
Trong tiến trình của văn học Việt Nam, văn học trào phúng phát triển
gắn với lịch sử văn hóa và văn học dân tộc. Cảm hứng trào phúng đã xuất hiện
khá sớm trong các sáng tác dân gian nhưng phải đến giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XIX văn học trào phúng mới phát triển thành dòng rộng lớn với các tác gia tiêu
biểu như Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến,… Mảng thơ ca trào phúng đặc biệt
là thơ Nôm trào phúng góp một phần quan trọng làm phong phú đời sống văn
hóa tinh thần. Thông qua tiếng cười trào lộng các nhà nho lên án những bất


2

công suy thoái của xã hội, nhằm thức tỉnh con người và toàn xã hội đẩy lùi cái
xấu và thúc đẩy cái tốt.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, một
tài năng nghệ thuật có những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc, những
đóng góp đó có ý nghĩa sâu sắc và rất đáng trân trọng. Làm nên giá trị thơ văn
của ông là toàn bộ những sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trữ tình cũng như trào
phúng. Nhưng có thể nói, làm nên nét phong cách và hồn thơ đặc sắc của
Nguyễn Khuyến chính là mảng thơ Nôm. Thơ Nôm của Nguyễn Khuyến có
sức hấp dẫn lớn đối với bạn đọc. Thơ chữ Nôm của ông bao gồm cả những bài
thơ trữ tình lẫn trào phúng, là những bài thơ đã bộc lộ được tấm lòng, tâm tư
tình cảm, những nỗi niềm trăn trở, thái độ của ông trước thời cuộc cũng như
thể hiện được nét phong cách riêng của mình. Với những vần thơ Nôm,

Nguyễn Khuyến đã tái hiện một hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam đang
trên hành trình bị văn hóa phương Tây lấn át.
Ý thức được giá trị thơ Nôm Nguyễn Khuyến nói chung, thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến nói riêng và mong muốn nghiên cứu mảng thơ Nôm
này trong ảnh hưởng tác động của văn hóa, người viết đã chọn đề tài Xung đột
văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến để có cơ hội được tiếp cận
thơ Nôm trào phúng Tam nguyên Yên Đổ với kiến thức tổng hợp liên ngành
văn hóa và văn học. Việc tìm hiểu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến là mong muốn chân thành của người viết nhằm phần nào bày
tỏ niềm tri ân trước nhà thơ lớn của văn học dân tộc, đồng thời hướng đến cơ
hội tìm hiểu một tác giả quen thuộc với những phát hiện từ góc nhìn văn hóa.
1.2. Lí do thực tiễn
Nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm văn học ở góc nhìn văn hóa là một hướng
tiếp cận còn tương đối mới mẻ với đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy tại


3

các trường THPT vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn thực hành,
làm quen với một cách khai thác tác phẩm văn học.
Đó là những lí do chúng tôi chọn đề tài Xung đột văn hóa trong thơ Nôm
trào phúng Nguyễn Khuyến cho luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến là một trong những cây đại thụ của nền văn học nước
nhà. Vì vậy, thơ ông luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu văn học.
Trong suốt 100 năm qua, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều công trình nghiên
cứu, các bài viết tập trung tìm hiểu tương đối đầy đủ giá trị thơ văn Nguyễn
Khuyến. Và sau đây chúng tôi xin trình bày khái quát về lịch sử nghiên cứu thơ
văn Nguyễn Khuyến nói chung, thơ Nôm trào phúng nói riêng. Thơ văn

Nguyễn Khuyến được đăng tải đầu tiên là trên tạp chí Nam Phong, đăng trong
mục Thơ ca Yên Đổ nhưng phải đợi đến gần hai chục năm sau thì các công
trình văn học sử trên đường hành trình mới tìm đến Nguyễn Khuyến. Dương
Quảng Hàm trong cuốn sách Việt Nam văn học sử yếu (Nha học chính Đông
Pháp xuất bản, Hà Nội, 1943) đã khẳng định giá trị nổi bật ở mảng thơ trào
phúng trong đó phải kể đến thơ Nôm và xếp Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các
nhà thơ trào phúng nổi tiếng.[9]
Cuốn: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam gồm 3 tập của nhóm Lê Qúy
Đôn, Nxb Xây dựng, năm 1957 là cuốn sách văn học sử đầu tiên của chế độ
mới đã dành 20 trang để nghiên cứu về Nguyễn Khuyến, do Lê Trí Viễn viết,
đề cập chủ yếu đến phần thơ Nôm và tư cách trào phúng của ông.[6]
Đến năm 1958 Văn Tân cho ra đời cuốn Văn học trào phúng Việt Nam,
Nxb Văn Sử Địa, tác giả đã dành một phần lớn số trang đánh giá về ý nghĩa và
giá trị trào phúng của thơ văn Nguyễn Khuyến ở cả hai phương diện nội dung
và nghệ thuật. Người viết đặc biệt nhấn mạnh: “Thơ văn trào phúng của


4

Nguyễn Khuyến cũng như thơ văn của Nguyễn Khuyến nói chung có nhiều
hiện thực tính, nhiều nhân dân tính. Về nội dung, thứ thơ văn đó mang nặng
những tư tưởng yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động, thù ghét quân cướp
nước và bọn quan lại làm tay sai cho chúng”.[32 , tr 159-160]
Trong cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (1978) tập IVA của tập
thể giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội, khi viết về Nguyễn Khuyến, Lê
Hoài Nam nhận định: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng là nhà thơ châm biếm. Nội
dung châm biếm của thơ văn ông bao giờ cũng có một ý nghĩa xã hội và chính
trị phong phú. Động cơ châm biếm của ông xuất phát không phải từ sự bất mãn
về quyền lợi cá nhân mà là từ lòng yêu nước nồng nàn. Cho nên đối tượng đả
kích thường tập trung xung quanh những người, những việc gì có liên quan đến

việc nước hay việc thực dân Pháp đặt quyền thống trị trên đất nước ta” [48, tr
127].
Bài Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX của tác giả Trần Quốc Vượng (Theo Thi hào Nguyễn
Khuyến đời và thơ) khi viết về Nguyễn Khuyến có đưa ra những day dứt trong
nội tâm, và Nguyễn Khuyến giải tỏa bằng nhiều cách và từ đó ông đã trở thành
một nhà thơ châm biếm lớn.[3].
Tác giả Lê Trí Viễn, trong cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế
Xương đã nhận xét về thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến: “Nó có tính cách là
những lời phê phán điềm đạm, bình tĩnh của một nhà nho tuổi tác, có đạo đức
và nhiều tình cảm. Nụ cười, do đó, bề ngoài chỉ nhẹ nhàng nhưng lai lắng vào
bề sâu và pha phách một tí thương hại”.[46]
Nhà thơ Xuân Diệu khi tìm hiểu phong cách thơ trào phúng Nguyễn
Khuyến, đã có những tìm tòi khá kĩ càng. Có thể nhận thấy ngôn ngữ thơ
Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, vừa tự nhiên, vừa hiểm hóc cũng vừa độc đáo, đặc
biệt là nghệ thuật tạo tiếng cười bằng cách vận dụng điệp thanh.[5]


5

Trong Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ do Nguyễn Huệ Chi chủ biên
các tác giả đã đề cập đến bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến. Công
trình nghiên cứu còn cho thấy mối quan hệ đồng cảm giữa tác giả và đối tượng
nghệ thuật, điều này đã làm cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến trở nên chân
thực. Qua đó nhà thơ cũng gửi gắm nỗi buồn thương và tâm sự sâu kín của
mình.[3]
Trong bài nghiên cứu mở đầu cuốn sách Nguyễn Khuyến tác phẩm
(1984) do Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch và giới thiệu người viết đã
đem đến cho bạn đọc sự hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về toàn bộ cuộc đời và
sự nghiệp thơ ca của nhà thơ. Ông đã khẳng định vị trí của Nguyễn Khuyến

trong làng thơ trào phúng trung đại Việt Nam.[12]
Cuối năm 1998, cuốn sách Nguyễn Khuyến, về tác gia tác phẩm do Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1998, tập hợp một cách
rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Khuyễn từ xưa đến nay. Trong cuốn sách này người biên
soạn khẳng định: “Nguyễn Khuyến - Về tác gia và tác phẩm chính là sự tập hợp
một cách rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời
và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay nhằm đem đến cho bạn đọc
một bức tranh toàn cảnh những thành tựu trong việc nghiên cứu một trong
những tác giả văn học lớn nhất cuối thế kỉ XIX. Cuốn sách ra đời vào những
năm cuối cùng của thế kỉ XX với mong muốn trở thành cơ sở cho những bước
tiếp theo trong việc nghiên cứu sự nghiệp của một nhà thơ được cả dân tộc yêu
mến.”[33, tr 28].
Trong tập sách trên có bài viết: Tâm trạng Nguyễn Khuyến qua thơ tự
trào. Ở đó người viết đã đề cập trực tiếp đến hình tượng trào phúng được miêu
tả bằng cách nói phủ định để khẳng định và ngược lại. Tác giả đã chỉ rõ sự biến
đổi tâm trạng Nguyễn Khuyến trong thơ văn. Từ thời điểm Nguyễn Khuyến lui


6

về ở ẩn đã có sự thay đổi cách nhìn, cách cảm. Tác giả bài viết cũng khẳng
định giá trị thơ Nôm trào phúng đặc biệt trong mảng tự trào thể hiện rõ nỗi
lòng của một nhà nho yêu nước trước tình cảnh đất nước bị quân giặc chiếm
đóng. Có thể nói đây là bài viết trực tiếp đề cập đến mảng thơ tự trào của
Nguyễn Khuyến và có những nhận định thật sâu sắc về những vần thơ này.
2.2. Nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến
Các công trình nghiên cứu đã được chỉ ra ở trên được xem là nguồn tư
liệu quý báu mà người viết tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy

nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến thời điểm này chưa có một công trình
nghiên cứu nào tìm hiểu về thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ở góc độ khai
thác các xung đột văn hóa và từ việc phản ánh những xung đột văn hóa đó mà
tìm hiểu những thay đổi trong bút pháp nghệ thuật phản ánh của ông. Chỉ có
một số công trình đã chỉ ra được mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn
Khuyến và cội nguồn văn hóa dân tộc. Gần đây trên tạp chí Giáo dục, số 318
tác giả Dương Thu Hằng – Hoàng Mai Quyên, (2013), có bài Giá trị văn hóa
truyền thống trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Bài viết chỉ ra những giá trị văn
hóa truyền thống thể hiện trong toàn bộ những sáng tác thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến nhưng vẫn không lưu ý đến các xung đột văn hóa trong sáng tác của
ông.
Như vậy có thể nói rằng nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm
trào phúng Nguyễn Khuyến là một vùng đất tương đối mới mẻ. Điều đó tạo
động lực mạnh mẽ thôi thúc người viết khám phá mảnh đất này. Với góc nhìn
từ xung đột văn hóa, người viết hi vọng rằng chúng ta sẽ có được cái nhìn mới
về thơ Nôm trào phúng của Nguyễn Khuyến.


7

3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề văn hóa được phản ánh qua văn
học. Cụ thể là xung đột văn hóa trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX qua
thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu xung đột văn hóa trong văn học Việt Nam cuối thế
kỉ XIX giúp chúng ta nhận thấy mâu thuẫn giữa văn hóa Đông – Tây, từ đó là
sự thay đổi của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội trước sự phôi pha của những
giá trị đạo đức văn hóa truyền thống tốt đẹp qua tác phẩm thơ Nôm trào phúng

đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến từ góc độ phản ánh
những xung đột văn hóa trong thời đại của mình.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng một
số phương pháp:
4.2.1. Phương pháp liên ngành
Người viết sử dụng phương pháp này để tìm hiểu khái niệm và biểu hiện
xung đột văn hóa của các ngành khoa học như: triết học, nghệ thuật, xã hội
học, tâm lí học, văn hóa học… để soi chiếu vào văn học từ đó thấy được mâu
thuẫn, xung đột được nhìn từ góc độ văn hóa.


8

4.2.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu các bài thơ làm sáng tỏ xung
đột văn hóa từ đó chỉ ra được những đổi mới của Nguyễn Khuyến ở phương
diện nội dung và nghệ thuật.
4.2.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Phương pháp này người viết tìm hiểu các vấn đề của bộ môn thi pháp
học như: không - thời gian nghệ thuật, cách khai thác mâu thuẫn – xung đột,
ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật… Từ đó giúp người viết thấy được cách tân
nghệ thuật trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến.
4.2.4. Phương pháp loại hình
Áp dụng những kiến thức lí luận về tác giả, đặc trưng thể loại, về nội
dung đề tài, các phương diện nhân vật, ngôn ngữ…Chúng tôi chỉ ra những
điểm khác biệt giữa Nguyễn Khuyến với các nhà thơ cùng thời. Đồng thời thấy

giá trị thơ văn của ông trong nền văn học Trung đại Việt Nam cả về nội dung
và nghệ thuật.
Ngoài sử dụng những phương pháp trên trong quá trình nghiên cứu
người viết còn sử dụng thêm thao tác thống kê, khảo sát và phân loại…
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu những xung đột văn hóa thể hiện cụ thể trong thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến.
5.2. Phạm vi tƣ liệu
Nghiên cứu toàn bộ thơ trào phúng chữ Nôm của Nguyễn Khuyến dựa
trên các tài liệu sau:


9

Tác phẩm: Nguyễn Khuyến tác phẩm. Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên
dịch, giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
Sách nghiên cứu:
Nguyễn Khuyến - về tác gia, tác phẩm, Vũ Thanh tập hợp, biên soạn,
giới thiêu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, chuyên luận của Biện Minh
Điền, Nxb Đại học Quốc gia, 2008.
Và các tài liệu bổ trợ khác.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua luận văn bạn đọc có thể nhận thấy cách tiếp cận, tìm hiểu,
cảm nhận thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ở góc nhìn văn hóa. Thấy được
những xung đột văn hóa biểu hiện trong nội dung và những tác động đến hình
thức nghệ thuật thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến. Đó là một đóng góp nhỏ
của luận văn.
7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, hướng triển khai Nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và sự phát
triển của văn học trào phúng.
Chương 2: Nội dung xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện xung đột văn hóa qua thơ Nôm Nguyễn
Khuyến


10

Chƣơng 1
XUNG ĐỘT VĂN HÓA GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC TRÀO PHÚNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm trào phúng, tự trào và văn học trào phúng
1.1.1.1. Khái niệm trào phúng
Trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ “trào phúng” là từ gốc Hán bao gồm
hai từ tố được giải nghĩa như sau: Trào nghĩa gốc là cười (cười nhạo), giễu (chế
giễu). Phúng nghĩa là nói bóng gió, nói ví. “Trào phúng” có nghĩa là nói ví để
cười nhạo, là châm biếm giễu cợt. “Trào phúng” cũng có nghĩa mượn lời bóng
gió để tạo ra tiếng cười châm biếm, giễu cợt.
Trào phúng là nói ví để cười nhạo, dùng lời nói có tác dụng gây cười
nhằm châm biếm, phê phán. Trào phúng luôn bao hàm cả hai yếu tố đan xen
lẫn nhau: yếu tố tiếng cười, cái cười và yếu tố răn bảo, đấu tranh chống lại điều
lỗi, cái xấu [49, tr.29].
1.1.1.2. Khái niệm tự trào
Cho đến hiện nay vẫn chưa có một khái niệm đầy đủ, rõ ràng và chính
xác nào về tự trào. Nhưng qua nghiên cứu và tìm hiểu có thể đưa ra cách hiểu

một cách khái quát chung nhất. “Tự trào” được xem là một mảng của thơ ca
trào phúng Việt Nam, trong đó đối tượng trào phúng là chủ thể (Chủ thể ở đây
được hiểu là chính bản thân tác giả). Muốn hiểu được khái niệm “tự trào”,
trước hết chúng ta phải thông qua khái niệm trào phúng như đã nói ở trên. Từ
đó, ta có thể suy rộng ra nghĩa của từ “tự trào”: Tự có thể hiểu là tự mình, tự
chính bản thân mình. Trào là cười (chế nhạo), giễu (chế giễu). Như vậy, “tự
trào” là tự cười mình, tự chế giễu mình. Thơ tự trào là thơ làm ra để tự cười
mình mà đối tượng được cười nhạo trong thơ tự trào chính là chủ thể. Nói cách


11

khác, đối tượng cười nhạo trong bài thơ là chính tác giả. Cũng có thể nói thơ
tự trào là thơ trào phúng mà trong đó đối tượng trào phúng chính là bản thân
chủ thể trữ tình.
1.1.1.3. Khái niệm văn học trào phúng
Trong Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Trần Khắc Phi cho rằng: “Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng
bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào
phúng gắn liền với phạm trù mĩ học cái hài với các cung bậc hài hước, châm
biếm. Văn học trào phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc
khác nhau” [10, tr.363].
Văn học trào phúng được coi là “một loại hình đặc biệt của sáng tác văn
học, gắn liền với phạm trù mĩ học cái hài, với các cung bậc tiếng cười, hài
hước, châm biếm, đả kích…”. Chính mối quan hệ nhân quả giữa cái hài và cái
bi sẽ tạo nên chiều sâu nhận thức trong cảm hứng trào phúng của tác phẩm văn
học.
Từ đó có thể hiểu thêm, thơ trào phúng là một loại hình đặc biệt của văn
học trào phúng, đó là “loại tác phẩm hợp nguyên các trạng thái trái ngược
nhau, những rung động cảm xúc sáng tạo, sự phê phán và tiếng cười. Các

trạng thái tâm lí này hòa trộn, thẩm thấu lẫn nhau triệt tiêu nhau tạo nên hiệu
quả Katharsis nghệ thuật. Và như vậy về mặt định vị thể loại, thơ trào phúng
mang tính phức hợp pha trộn nhiều loại hình thể loại – vừa trữ tình vừa tự sự,
vừa mang cả “chất kịch”. Trong đó, tiếng cười là yếu tố cơ bản quyết định
những loại hình (văn) thơ trào phúng khác” [22, tr.35].
1.1.2. Khái niệm văn hóa, xung đột văn hóa và xung đột văn hóa trong
thơ trào phúng
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa


12

Thuật ngữ khoa học: văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh “ Cultus” mà
nghĩa gốc gắn liền với gieo trồng, trau dồi, bồi dưỡng cây trồng, trồng người.
Con người sinh ra không phải tự nhiên mà có văn hóa, văn hóa có được nhờ
quá trình tu dưỡng, đào tạo, giáo dục. (Khái niệm văn hóa được hiểu theo nghĩa
rộng).
Thuật ngữ văn hóa với nghĩa “canh tác tinh thần” được thịnh hành vào
thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí canh tác nông nghiệp. Vào
thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được các nhà nhân học phương Tây sử dụng
như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế
giới có thể phân loại từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực
và sự vươn lên sự phát triển này tạo thành văn minh.
Hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn quan
niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết, truyền lại bằng
biểu tượng và nó hình thành, thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại
hình khác trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người tạo ra. Các học giả Mỹ
cho rằng “văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống
của một cộng đồng dân tộc”, ở trung tâm của văn hóa quyển là hệ tư tưởng

cũng được xem là hệ văn hóa. [30, Dẫn theo tr 18]
Các học giả Việt Nam nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa cũng đưa ra cách
phân loại văn hóa.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử [52].
Phan Ngọc đưa ra định nghĩa văn hóa theo tinh thần thao tác luận khác
biệt với định nghĩa trước đó: “Văn hóa là một quan hệ, nó là quan hệ giữa thế
giới biểu tượng với thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa
chọn riêng của một dân tộc người, một cá nhân so với một dân tộc người khác,


13

một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau tạo
thành nền văn hóa khác nhau đó là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một dân tộc
người tiếp thu hay sáng tạo riêng ở một lĩnh vực khác và rất khác độ khúc xạ ở
một dân tộc khác” [27, tr.68].
Tuy nhiên, có thể coi định nghĩa văn hóa của UNESCO là toàn diện và
sâu sắc hơn cả: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quy định tính
cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống giá trị, những tập tục tín ngưỡng” [27, tr.68].
Từ nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về văn hóa như vậy
chúng ta có thể tạm quy định có hai loại định nghĩa về văn hóa: được hiểu theo
nghĩa rộng văn hóa là lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử… được hiểu theo nghĩa
hẹp là văn hóa nghệ thuật, kĩ thuật, học vấn… Tùy từng trường hợp, hoàn cảnh
chúng ta có thể có những cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Và
trong luận văn này, người viết sử dụng định nghĩa văn hóa theo nghĩa hẹp:
Văn hóa được hiểu đó là văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây, văn hóa

nông nghiệp, văn hóa công nghiệp, văn hóa du mục…
1.1.2.2. Khái niệm xung đột
Xung đột hiểu theo nghĩa căn bản nhất là sự đối lập tranh chấp một cách
gay gắt và quyết liệt. Theo Từ điển tiếng Việt của Hồ Ngọc Đức giải thích
“xung đột” là:
Đánh nhau, tranh chấp, chống đối lại một cách dữ dội.
Chống đối nhau do sự trái ngược hoặc có mâu thuẫn gay gắt.
Như vậy, xung đột là nói đến mâu thuẫn và khi mâu thuẫn đạt tới đỉnh
điểm thì sẽ có thoái trào giải quyết mâu thuẫn. Người ta có thể nói tới các loại


14

xung đột như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, quyền giành lợi ích, xung đột cũmới…
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới thì cho rằng: “xung đột” là hệ quả
của sự căng thẳng mâu thuẫn ở bên trong cũng như bên ngoài, có thể đạt tới độ
nguy kịch. Xung đột biểu trưng cho khả năng chống đối từ cực mâu thuẫn này
sang cực mâu thuẫn khác, đảo lộn khuynh hướng về phía tốt hay xấu: độc lập nô lệ, đau khổ - vui sướng, đau ốm- khỏe mạnh, chiến tranh - hòa bình, định
kiến- sáng suốt, trả thù - tha thứ, ức chế - phấn đấu, tội lỗi – trong sáng. [2]
Triết học Macxit lại coi mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các yếu tố,
khuynh hướng trái ngược nhau trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng
trong cùng một hệ thống. Và chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến một trình độ nhất
định mới biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức xung đột, có thể nói xung đột là
biểu hiện “bề ngoài” là hiện tượng của mâu thuẫn.
Như vậy có thể nhận thấy, về bản chất, tất cả mọi xung đột xã hội đều
bắt nguồn từ sự khác biệt, không thể dung hòa về mặt quyền lợi giữa các chủ
thể. Và ở mỗi lĩnh vực khác nhau mà khái niệm xung đột được hiểu theo nhiều
cách khác nhau cho nên biểu hiện của xung đột hết sức đa dạng.
1.1.2.3. Khái niệm xung đột văn hóa
Tiến sĩ Phạm Thái Việt của Học viện ngoại giao, trong công trình nghiên

cứu Lí luận văn hóa về xung đột văn hóa cho rằng: Trong vòng vài ba thế kỉ trở
lại đây thuật ngữ xung đột văn hóa đã sử dụng khá nhiều, phổ biến trong các
nghiên cứu về quan hệ quốc tế, trong báo giới cũng như trong chính giới. Tuy
nhiên, khái niệm nội hàm của xung đột văn hóa chưa định hình một cách rõ
ràng bởi các thuật ngữ cấu thành như “xung đột”, “văn hóa” vẫn được luận giải
theo nhiều cách khác nhau. Văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ hiện thực mang
tính người, với nghĩa đó có thể coi mọi xung đột xã hội đều được gọi là xung
đột văn hóa hay đều nhuốm màu sắc văn hóa.


15

Liên quan đến “xung đột văn hóa” hay đụng độ văn hóa học giả Trung
Quốc Guo Jiemin cho rằng “cái gọi là xung đột văn hóa nói khái quát lại chỉ là
sự mâu thuẫn gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các nền văn hóa khác nhau, thực
chất là sự đụng độ giữa các đặc tính khác nhau của loài người. Nhưng đụng độ
về văn hóa trong quan hệ quốc tế cần làm rõ sự khu biệt với nó với đụng độ
văn hóa nói chung. Bởi văn hóa là khái niệm vô cùng rộng, các loại hình đụng
độ dựa trên văn hóa là nhiều, từ góc độ địa lí có đụng độ văn hóa phương
Đông – phương Tây, từ góc độ lịch sử có sự đụng độ văn hóa truyền thống và
hiện đại, từ góc độ quốc gia có sự đụng độ văn hóa ngoại lai và bản địa, từ góc
độ phát triển xã hội có đụng độ văn hóa nông nghiệp với văn hóa công nghiệp.
Hơn thế nữa do khái niệm văn hóa và văn minh không hoàn toàn đồng nhất
hàm nghĩa đụng độ văn minh và đụng độ văn hóa cũng không hoàn toàn giống
nhau” [30, Dẫn theo tr 20].
Từ sự phức tạp và chưa rõ ràng của khái niệm “xung đột văn hóa” đã có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng có thể phân thành hai quan điểm chính:
Thứ nhất, thừa nhận sự tồn tại của xung đột văn hóa như đối tượng có
nội dung độc lập.
Thứ hai, coi xung đột văn hóa chỉ là một chiều cạnh của xung đột nói

chung. Những người đi theo quan điểm sau cho rằng không nên chia tách xung
đột văn hóa khỏi chỉnh thể xung đột nói đúng hơn không phải xung đột văn hóa
mà xung đột từ góc nhìn văn hóa.
1.2. Sự hình thành và phát triển xung đột văn hóa trong văn học
trào phúng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
1.2.1. Vấn đề xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
1.2.1.1. Cơ sở tư tưởng và xã hội của sự xung đột
Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng, là một trong những học
thuyết triết học và chính trị xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học của Trung


16

Quốc. Tư tưởng giáo dục của Nho giáo chứa đựng nhiều giá trị tích cực và đã
có những ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị - xã hội không chỉ của Trung
Quốc mà còn với rất nhiều nước Châu Á khác, trong đó có Việt Nam. Hệ tư
tưởng Nho giáo chính thống đã trải qua hàng ngàn năm tồn tại, góp phần hình
thành nên tư tưởng của dân tộc.
Nho giáo ở Việt Nam cũng để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục
và lịch sử dựng nước ở các triều đình phong kiến thời trung đại. Nhờ Đạo Nho,
người Việt Nam rất coi trọng sự học hành. Văn Miếu được thành lập năm 1070
- Quốc Tử Giám lập năm 1076 có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt
Nam. Nơi đây còn lưu giữ nhiều tấm bia ghi lại tên tuổi các nho sĩ đỗ đạt trong
các kỳ thi khoa bảng Việt Nam cùng nhiều bài văn bia nêu lên triết lý giáo.
Một tầng lớp nho sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và thành thị, nho sĩ
được đề cao đến mức cao nhất. Qua giáo dục và khoa cử Nho giáo thâm nhập
vào xã hội ngày một sâu sắc hơn, tạo được truyền thống ham học, truyền thống
tôn sư trọng đạo, truyền thống coi trọng người có học. Từ đó các kiến thức học
tập được tích lũy, có điều kiện để duy trì và phát triển. Ngoài ra còn tạo cho
con người biết đạo ăn ở, biết quan tâm đến người khác, biết sống có văn hóa

và đạo đức. Tạo được cơ chế tuyển dụng người tài qua thi cử. Bất kể xuất thân
ra sao dù là nông dân, người thợ, lính tráng... chỉ cần học giỏi đỗ đạt thì có thể
ra làm quan giúp nước.
Trong khi đó ở phương Tây thời kỳ này, chức tước chỉ được chuyển
giao nội bộ trong các gia đình quý tộc, dân thường hầu như không thể có được
chức vị. Từ đó tạo nên một tâm lý xã hội: "Không tham ruộng cả ao liền, tham
vì cái bút, cái nghiên anh đồ". Nhiều thanh niên, trai tráng lấy việc học tập, thi
cử làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình. Xã hội nhờ vậy coi trọng sự học
tập và nhờ đó trình độ học vấn cũng được nâng cao. Câu châm ngôn "Tiên học
Lễ, hậu học Văn" đã ghi khắc sâu đậm vào dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn
năm. Chữ "Lễ" luôn nhắc nhở người dân rằng phải học sự lễ độ, thân ái, hòa


17

thuận với mọi người, tôn trọng trật tự, lễ kính với người già và phải có trên
dưới rõ ràng. Còn chữ "Văn" nhắc nhở con người phải học hành để thành người
tài đức. Câu châm ngôn này được phổ biến ở khắp các trường học tại Việt Nam
từ xưa cho đến nay.
Bên cạnh đó tư tưởng Nho giáo hun đúc tinh thần yêu nước, tinh thần
quốc gia, dân tộc. Với quan niệm và mục tiêu của giáo dục Nho giáo có nhiều
yếu tố tiến bộ hướng con người tới những phẩm chất cao quý như nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín. Đó là những giá trị chuẩn mực của con người trong xã hội phong
kiến. Mục đích chính của giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là nhằm đào
tạo ra những con người lý tưởng, có sự hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách
cũng như tri thức, lối sống. Chính vì thế Nho giáo góp phần tạo ra những con
người có lòng yêu nước sâu sắc được biểu hiện qua các thời kì lịch sử khác
nhau: đó là lòng căm thù giặc khi đất nước có giặc ngoại xâm, lòng tự hào về
truyền thống của dân tộc và ý thức bảo vệ giữ gìn nền độc lập chủ quyền đất
nước trong thời bình.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực trên Nho giáo trong quá trình
hình thành phát triển không tránh khỏi những mặt hạn chế. Về nội dung học
tập, Nho giáo chỉ quan tâm đến giáo dục trí và đức vì thế ảnh hưởng tới sự phát
triển toàn diện của con người. Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất
vật chất không được Nho giáo đề cập, coi trọng. Ở thời của Khổng Tử, khoa
học kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển. Do vậy, người học tuy lĩnh hội
đầy đủ tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng các kiến thức
về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại dường như không có. Khi tiếp
xúc với nền văn minh phương Tây mạnh về khoa học kỹ thuật, nếu người xuất
thân Nho học biết tiếp thu những kiến thức khoa học và sản xuất thì sẽ khắc
phục được mặt hạn chế, trở nên "Vừa có tài vừa có đức". Ngược lại nếu không
tiếp thu được những tinh hoa tri thức phương Tây mà chỉ bắt chước lối sống,
du nhập chủ nghĩa tiêu dùng của phương Tây sẽ dẫn đến việc phủ định các giá


18

trị truyền thống, gây chia rẽ xã hội, xem thường Nho giáo vì cho rằng nó lỗi
thời, không phù hợp với điều kiện xã hội hiện đại, do đó càng không thể khắc
phục được hạn chế vốn có mà những giá trị đạo đức Nho học, đồng thời những
giá trị văn hóa dân tộc cũng bị đánh mất. Đạo đức suy đồi, văn hóa thui chột thì
xã hội hỗn loạn, xung đột nảy sinh. Đó là bi kịch chung của những nước bị
"xâm lược", bị phương Tây hóa thiếu định hướng và thiếu chiều sâu như Việt
Nam. Nho giáo Việt Nam thiếu sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh nên
trì trệ. Đaị đa số nhà nho Việt Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi,
thi đỗ thì ra làm quan để lại tiếng thơm với muôn đời. Khi đạt được mục đích
như vậy thì xem như việc học tập đã kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học
để tham gia tranh luận những vấn đề học thuật, triết học, học để kinh bang tế
thế hoặc để phát triển văn hoá, để bản thân đạt đến những tầm cao về tư tưởng.
Vì học tập và tư duy như thế nên Nho giáo Việt Nam ít có cống hiến to lớn

trong lĩnh vực học thuật có thể so sánh với các nước Nho giáo khác. Hạn chế
lớn nhất là tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc của giới nho sĩ
Việt Nam. Trong khi đó bên cạnh Nho giáo còn có nhiều trường phái tư tưởng
khác như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... Giữa các trường phái này luôn có sự
tranh luận, phản bác lẫn nhau. Điều này khiến sự phát triển của Nho giáo Việt
Nam hạn chế. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều. Vì vậy
tầng lớp nho sĩ chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo cho mình là trung
tâm của vũ trụ, khép kín, ít giao thiệp với thế giới bên ngoài, cho thế giới bên
ngoài là man di mọi rợ, “bế quan tỏa cảng”, ức chế thương mại, áp chế các tư
tưởng tiến bộ đã dẫn đến sự lạc hậu, trì trệ, thủ cựu. Chúng ta không thể chối
bỏ giá trị giáo dục sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, tuy nhiên đạo đức của
Khổng Tử trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay và đã gạt ra ngoài nhiều giá
trị đạo đức nhân loại phổ biến. Chính vì vậy các nhà nho đứng trước các tư
tưởng mới luôn bày tỏ thái độ hoặc phản kháng gay gắt hoặc chọn phương cách
trốn tránh đối với hiện thực. Mặt khác quan niệm về người quân tử và kẻ tiểu


×