Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

ĐỀ tài sử dụng hoạt hình trong dạy đạo đức lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.79 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TÊN SINH VIÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: Sử dụng phim hoạt hình trong dạy đạo đức lớp 5

...................... – NĂM …

0


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: Sử dụng phim hoạt hình trong dạy đạo đức lớp 5

Họ và tên học viên:..............................................
Lớp:.......................................................................
Người hướng dẫn:.................................................

1


PHỤ LỤC
A. MỞ ĐẦU..................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.......................................................3


3. 1. Khách thể nghiên cứu............................................................................3
3. 2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................4
5. Giới hạn nghiên cứu...............................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................4
B. NỘI DUNG...............................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
PHIM HOẠT HÌNH TRONG DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5.....................5
1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phim hoạt hình trong dạy môn đạo
đức lớp 5:......................................................................................................5
1.1. Môn đạo đức ở tiểu học:.........................................................................5
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.....................................................................15
2.1. Khái quát quá trình điều tra:.................................................................17
I.

2.2. Kết quả điều tra:...........................................................................23

3. Khả năng ứng dụng trong giảng dạy môn đạo đức:..........................23
CHƯƠNG II: SỬ DỤNG PHIM HOẠT HÌNH TRONG DẠY MÔN ĐẠO
ĐỨC LỚP 5.................................................................................................24
1. Nguyên tắc sử dụng phim hoạt hình trong dạy môn đạo đức lớp 5: 24
2. Quy trình thực hiện một bài dạy đạo đức có sử dụng phim hoạt hình:.24
2.1. Chuẩn bị:..............................................................................................24
2.2. Tổ chức thực hiện:................................................................................24
2.3. Đánh giá:..............................................................................................26
3. Các yêu cầu sư phạm khi sử dụng phim hoạt hình trong giảng dạy
đạo đức cho học sinh lớp 5:......................................................................26
4. Bài học kinh nghiệm:............................................................................26
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ................................................27


2


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN” đó là câu nói mà ai cũng có thể thấy
được ở bất cứ trường học nào nhưng các nhà giáo có thật sự quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức, lễ nghĩa hay không, học sinh đã được “học lễ” như thế nào khi
mà đi đến đâu chúng ta đều nghe những nhà giáo dục tiến bộ than phiền rằng:
“Tình hình đạo đức của học sinh, thanh thiếu niên có nhiều hiện tượng không
bình thường, tạo ra những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội và giữa các thế hệ, vị
trí và uy tín của người thầy sa sút đi nhiều”. Cả xã hội đã và đang gióng lên hồi
chuông báo động về tình trạng xuống dốc đạo đức trong học sinh và việc chú
trọng giáo dục đạo đức cho học sinh lúc này là cần thiết hơn bao giờ hết. Cung
cấp cho học sinh những tri thức đạo đức (hiểu biết về đạo đức, về thái độ phải
có, về nhiệm vụ, về bổn phận phải làm….) là một khâu quan trọng trong việc
giáo dục đạo đức trong nhà trường. Thông qua các giờ học đạo đức học sinh sẽ
được trang bị những tri thức về đạo đức một cách khái quát và hệ thống. Vốn tri
thức này có tác dụng quan trọng ở chỗ giúp học sinh có cơ sở đúng đắn để nhận
ra và phân biệt giữa hiện tượng đạo đức và hiện tượng phi đạo đức biểu hiện
muôn hình vạn trạng xung quanh mình hàng ngày và từ đó giúp các em tăng
thêm tính tự giác trong hành vi đạo đức của mình. Như chúng ta đã biết “Tuổi
thiếu niên” là sự tồn tại giữa tuổi trẻ em và tuổi thanh niên, lứa tuổi này có một
vị trí đặc biệt trong thời kì phát triển của con người. Vị trí đặc biệt này được
phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó: “thời kì quá độ”, “tuổi khó
bảo….. Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi
này trong quá trình phát triển của con người. Cho nên tôi đã luôn tìm cách trả lời
cho câu hỏi “Làm thế nào để giáo dục đạo đức cho học sinh một cách thật sự có
hiệu quả?”. Và cho đến bây giờ tôi nhận thấy rằng những câu chuyện sống động
minh họa bằng phim hoạt hình trong những giờ giáo dục đạo đức những tác

động đạo đức của văn học, nghệ thuật sẽ là những biện pháp hiệu nghiệm tác
động vào tình cảm. Các hình tượng nghệ thuật sống động của câu chuyện, lối
suy nghĩ, cư xử hành động của các nhân vật trong truyện sẽ góp phần rất nhiều
vào sự hình thành thái độ, tình cảm đạo đức của học sinh, do đó dễ chuyển tri
thức đạo đức thành niềm tin đạo đức trong học sinh. Đó là tất cả những gì tôi
muốn thể hiện qua đề tài “Sử dụng phim hoạt hình trong dạy môn đạo đức lớp
5” này.
2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng phim hoạt hình nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
của hoạt động dạy học môn Đạo đức trong các trường tiểu học, đồng thời góp
phần giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh các trường
tiểu học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3. 1. Khách thể nghiên cứu
Ban giám hiệu, giáo viên và học sinh lớp 5 ở trường tiểu học Thanh Ninh.
3


3. 2. Đối tượng nghiên cứu
phim hoạt hình trong dạy môn đạo đức lớp 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp một số vấn đề lí luận làm cơ sở khoa học để tích hợp nội dung sử
dụng phim hoạt hình vào dạy học môn Đạo Đức lớp 5.
- Điều tra thực trạng tích hợp nội dung sử dụng phim hoạt hình vào dạy học
môn Đạo Đức lớp 5.
- Đề ra biện pháp hữu hiệu hướng dẫn tích hợp nội dung sử dụng phim hoạt
hình vào dạy học môn Đạo Đức lớp 5 ở trường tiểu học.
5. Giới hạn nghiên cứu
- Sách đạo đức lớp 5
6. Phương pháp nghiên cứu

a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đọc, phân tích – tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, nghiên cứu SGK
môn Đạo Đức và một số tài liệu có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thống kê toán học
Trong đó phương pháp điều tra và phương pháp thực nghiệm sư phạm là
chủ yếu

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG PHIM HOẠT HÌNH TRONG DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5
1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phim hoạt hình trong dạy môn đạo
đức lớp 5:
1.1. Môn đạo đức ở tiểu học:
1.1.1. Mục tiêu môn đạo đức: Học xong chương trình môn Đạo Đức
lớp 5, học sinh cần đạt được những yêu cầu sau:
- Biết nội dung và ý nghĩa một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật
phù hợp vơi lứa tuổi học sinh lớp 5 trong quan hệ của các em với quê hương,
đát nước, tổ tiên; với phụ nữ, cụ già , em nhỏ; với bạn bè và những người xung
quanh; với hành vi việc làm của bản thân; vơi tài nguyên thiên nhiên.
- Biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, quan niệm, hành vi, việc làm có liên
quan đến chuẩn mực đã học ; biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp trong các tình
huống và biết thực hiện các chuẩn mực đã học trong cuộc sống hằng ngày.

- Yêu quê hương, đất nước ; biết tổ tiên ; kính trọng người già, yêu thương
em nhỏ, tôn trọng phụ nữ ; đoàn kết, hợp tác bạn bè và những người xung
quanh; có ý thức vượt khó, vươn lên trong cuộc sống ; có trách nhiệm về hành
động của mình ; yêu hòa bình ; có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
1.1.2. Nội dung môn đạo đức:
a.Quan hệ với bản thân
Bài 1- Em là học sinh lớp 5
Bài 2- Có trách nhiệm về việc làm của mình
Bài 3- Có chí thì nên
b. Quan hệ với gia đình
Bài 4- Nhớ ơn tổ tiên
c. Quan hệ với nhà trường
Bài 5- Tình bạn
d. quan hệ với cộng đồng, xã hội
Bài 6- Kính già, yêu trẻ
Bài 7- Tôn trọng phụ nữ
Bài 8- Hợp tác với những người xung quanh
Bài 9- Em yêu quê hương
Bài 10- Ủy ban nhân dân xã (phường) em
5


Bài 11 – Em yêu tổ quốc Việt Nam
Bài 12 – Em yêu hòa bình
Bài 13- Em tìm hiểu về Liên Hợp Quốc
e. Quan hệ với môi trường tự nhiên
Bài 14- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
 Chương trình môn Đạo Đức lớp 5 gồm 114 chuẩn mực hành vi đạo đức
phù hợp với lứa tuổi học sinh trong các mối quan hệ của các em với bản thân,
gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên.

 Các chuẩn mực hành vi đạo đức trong chương trình thể hiện sự thống
nhất giữa tính dân tộc với tính nhân loại, tính truyền thống với tính hiện đại, có
tác dụng giáo dục cho học sinh ý thức tự trọng, tự tin, có ý chí vươn lên, yêu
thương, tôn trọng con người, yêu quê hương, đát nước, giữ gìn bản sắc dân tộc,
tôn trọng các dân tộc khác cùng chung sống hòa bình và phát triển.


Nội dung chương trình môn Đạo Đức lớp 5 kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục bổn
phạn của trẻ em. Dưới đây là nội dung một số quyền của trẻ em trong chương trình môn Đạo Đức lớp
5.

Bài
Bài 2

Tên bài
Có trách nhiệm về việc
làm của mình

Nội dung quyền trẻ em cần tích hợp
Quyền trẻ em được tự quyết định về
những việc có liên quan đến bản thân phù
hợp vơi lứa tuổi.

Bài 3

Có chí thì nên

Quyền được phát triển của trẻ em

Bài 5


Tình bạn

Quyền trẻ em được tự do kết giao bạn bè

Bài 7

Tôn trọng phụ nữ

Quyền được dối xử bình đẳng giữa trẻ em
trai và gái

Bài 9

Em yêu quê hương

Quyền được giữ gìn bản sắc văn hóa quê
hương

Ủy ban nhân dân xã
Bài 10
(phường) em
Em yêu tổ quốc Việt
Bài 11 Nam

Bài 12

Em yêu hòa bình

Quyền trẻ em được tham gia đóng góp ý

kiến về những vân đè có liên quan đến trẻ
em
Quyền trẻ em được có quốc tịch, quyền
được giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Quyền trẻ em được sống trong hòa bình,
được quan tâm, chăm sóc, được học tập ,
được vui chơi
6


* Ngoài ra nội dung sách còn dành vài tiết để các trường giải quyết những
vấn đề đạo đức cần quan tâm ở địa phương. Ví dụ như:
- Phòng chống tệ nạn xã hội:
- Bảo vệ môi trường
- Thực hiện luật giao thông
- Đền ơn đáp nghĩa các gia đình thương binh liệt sĩ:
- Ủng hộ nhân dân các vùng bị thiên tai, lũ lụt,…
1.1.3. Những phương pháp đang sử dụng dạy học môn đạo đức trong
trường tiểu học
a. Một số quan điểm chung
- Trong quá trình dạy học môn đạo đức cần đi từ quyền trẻ em đến bổn
phận, trách nhiệm của học sinh. Cách dạy như vậy sẽ giúp cho giờ học Đạo đức
trở nên nhẹ nhàng, sinh động, hạn chế tình trạng áp đặt nặng nề.
- Dạy học môn Đạo đức là quá trình chuyển các giá trị đạo đức xã hội thành
tình cảm, niềm tin và hành động của học sinh. Điều đó chỉ có thể đạt được khi
học sinh hứng thú và tích cực tham gia vào quá trình dạy học, Do đó, giáo viên
cần căn cứ vào mục tiêu bài Đạo đức, căn cứ vào trình độ của học sinh, sở
trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của
trường, của địa phương mà thiết kế tiết học thành các hoạt động phù hợp. Đồng
thời tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm, thói quen

đạo đức đã có đẻ qua đó, các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng mới.
Các hoạt động dạy học Đạo đức ở lớp 5 rất phong phú, đa dạng. Có thể là:
- Phân tích các thông tin, các tình huống, các truyện kể, các tấm gương.
- Quan sát và phân tích tranh ảnh, bằng hình.
- Phân tích đánh giá các hành vi, ý kiến, quan điểm, thái độ.
- Đóng vai, đóng tiểu phẩm.
- Chơi trò chơi.
- Tìm hiểu các vấn đề trong thực tiễn lớp học, nhà trường, địa phương đất
nước có liên quan đến chủ đề bài học.
- Lập kế hoạch hành động của bản thân, của nhóm, của lớp.
- Diễn thuyết, hát múa, đọc thơ, diễn tiểu phẩm, vẽ tranh, triển lãm tranh về
chủ đề bài học.
* Dạy học môn Đạo đức cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5
nói riêng phải gắn với cuộc sống của học sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm
gương sử dụng để dạy học Đạo đức phải gần gũi với cuộc sống thực của học
sinh. Đồng thời, phải hướng dẫn học sinh liên hệ và tự liên hệ; phân tích và đánh
7


giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo các chuẩn mục hành
vi đã học; hướng dẫn học sinh điều tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện
trong đời sống Đạo đức của lớp học, của nhà trường, của địa phương… Điều đó
sẽ giúp cho bài học đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động với trẻ.
* Dạy học môn Đạo đức theo tinh thần đổi mới phương pháp khuyến khích
việc sử dụng những tình huống, hoạt hình, truyện kể với kết cục mở để học sinh
tự đưa ra các giải pháp, tự đánh giá kết quả các giải pháp, so sánh và lựa chọn
được giải pháp tối ưu; hạn chế việc sử dụng các khuôn mẫu ứng xử có sẵn, một
chiều.
* Dạy học môn đạo đức ở lớp 5 có thể bắt đầu bằng nhiều cách :

- Phân tích các thông tin sự kiện ( ví dụ: bài 11, bài 12, bài 13, bài 14)
- Xử lí tình huống ( ví dụ : bài 5, bài 6, bài 7, bài 8)
- Quan sát tranh ,ảnh, bang hình và thảo luận ( ví dụ : bài 1, bài 3, bài 5, bài
6, bài 9, bài 11, bài 12, bài 13, bài 14)
- Đóng vai ( ví dụ: bài 5, bài 6)
- Phân tích truyện ( ví dụ : bài 2, bài 4, bài 6, bài 7, bài 8)
- Tìm hiểu và thảo luận, phân tích một sự kiện có thực ở lớp học, ở nhà
trường hoặc ở địa phương ( ví dụ: bài 2, bài 5, bài 8, bài 14)
* Các hình thức và phương pháp dạy học Đạo đức ở tiểu học nói chung , ở
lớp 5 nói riêng rất phong phú, đa dạng. bao gồm các phương pháp truyền thống
như : kể chuyện, đàm thoại, nêu gương, sử dụng đồ dùng trực quan… các
phương pháp hiện đại như : đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chưc trò chơi, xử lý
tình huống, động não, dự án, phim hoạt hình... Bao gồm hình thức học tập lớp,
theo nhóm và cá nhân : hình thức học ở trong lớp ngoài sân trường, vườn trường
hoặc ở một địa điểm ngoài trường có liên quan đến nội dung học tập.
Mỗi phương pháp và hình thức dạy học Đạo đức đều có mặt mạnh và hạn
chế riêng, phù hợp vơí từng loại bài, từng khâu của tiết dạy. Vì vậy không nên
quá lạm dụng hoặc phủ nhận hoàn hoàn một phương pháp hoặc hình thức dạy
học nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài; căn cứ vào
trình độ của học sinh và năng hực, sở trường của giáo viên; căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lớp mà lựa chọn và sử dụng kết hợp các phương
pháp, các hình thức dạy học một cách hợp lí, đúng mức.
b. Một số phương pháp đang sử dụng dạy học môn Đạo đức .
* Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong thời gian ngắn này sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
+ Các bước tiến hành
- Giáo viên nêu vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
8



- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu ( trên bảng hoặc giấy khổ to), không trừ
một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
- Tổng hợp ý kiến của học sinh, hỏi xem có thăc mắc hay bổ sung gì không
+ Các yêu cầu sư phạm
- Phương pháp động não có thể dùng để lí giải bất kì một vấn đề về đạo đức
nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong thực tế
cuộc sống của học sinh.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một vài từ hay một câu thật ngắn
- Tất cả các ý kiến của học sinh cần được hoan nghênh, chấp nhận mà
không nên phê phán, nhận định đúng, sai ngay.
- Cuối giờ thảo luận giáo viên nên nhấn mạnh kết luận cuối cùng là kết quả
của sự tham gia chung của tất cả học sinh.
* Phương pháp kể chuyện
Kể chuyện là phương pháp dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ để mô tra diễn biến
quan hệ giữa các nhân vật, sự việc theo một câu chuyện. Trong giờ đạo đức, đó
là truyện kể về cách ứng xử của các nhân vật trong một tình huống Đạo đức.
+ Các bước tiến hành
- Giáo viên giới thiệu khái quát về truyện kể. Ở đây, giáo viên có thể nêu
đánh giá chung về câu chuyện sắp kể nhằm giúp học sinh định hướng tốt hơn về
nội dung câu chuyện, nhờ đó mà việc lĩnh hội sẽ có kết qủa hơn.
- Giáo viên thuật lại chuyện kể bằng lời, kết hợp với sử dụng điệu bộ, cử
chỉ và đồ dùng trực quan ; sau đó, có thể cho học sinh đọc hay kể lại truyện.
- Giáo viên nêu ra các câu hỏi liên quan đến nội dung câu chuyện để giúp
các em có biểu tượng rõ ràng về chuẩn mực hành vi đạo đức.
+ Các yêu cầu sư phạm
- Nắm vững tư tưởng chủ đạo, yêu cầu giáo dục, các tình tiết cơ bản, các

tình huống đạo đức, các đặc điểm nhân vật của truyện kể; tránh tình trạng biết
được đến đâu hay đến đó.
- Dùng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, giàu hình ảnh và gợi cảm, đảm bảo
cho việc kể chuyện được tự nhiên, sinh động, không khô khan.
- Tái tạo lại những tình huống đạo đức với những tình tiết cơ bản, đặt học
sinh vào những tình huống đó và kích thích các em tích cực theo dõi, suy nghĩ;
tránh kể lan man, dàn đều.
- Kết hợp kể chuyện với sử dụng các phương tiện trực quan thích hợp
( tranh, ảnh, băng hình, con rối,…) hoặc với đóng vai học sinh, tránh kể suông.

9


- Nhập vai vào truyện kể nhằm kể chuyện được tự nhiên, hấp dẫn với giọng
nói điệu bộ, vẻ mặt phù hợp.
* Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại là phương pháp tổ chức trò chơi giữa giáo viên và học sinh về
các vấn đề đạo đức, dựa trên một hệ thống câu hỏi đã được giáo viên chuẩn bị
trước.
+ Các bước tiến hành
-Giáo viên lần lượt nêu từng câu hỏi, học sinh trả lời. Mỗi câu hỏi nên mời
nhiều học sinh phát biểu.
Sau khi học sinh trả lời xong hệ thống câu hỏi, giáo viên hoặc học sinh
( tốt nhất là học sinh) cần tổng kết ngắn gọn về kết quả của đàm thoại.
+ Các yêu cầu sư phạm
- Các câu hỏi cần được chuẩn bị trước thành một hệ thống trên cơ sở tính
đến yêu cầu giáo dục của chủ đề, nội dung truyện kể, đặc điểm tâm sinh lí, trình
độ nhận thức và kinh nghiệm sống của học sinh.
- Các câu hỏi phải tập trung khai thác những khía cạnh đạo đức theo yêu
cầu của chủ đề hoặc truyện kể; tránh biến bài học đạo đức thành bài giảng văn.

- Hệ thống câu hỏi cần bao gồm những câu hỏi chính, cơ bản và những câu
hỏi phụ có tính chất gợi ý cho học sinh trả lời câu hỏi chính.
- Câu hỏi phải rõ ràng chính xác dễ hiểu; tránh những câu hỏi chung chung,
khó hiểu.
- Câu hỏi phải phát huy được tính tích cực, độc lập, tư duy của Học sinh, cụ
thể là yêu cầu các em:
Tập so sánh, đánh gía các hành vi ứng xử khác nhau trong cùng một tình
huống xác định;
Tập giải thích các cách ứng xử trong những tình huống khác nhau.
Tự đề ra và rút kinh nghiệm.
Tự rút ra những nét khái quát từ các sự kiện, hành vi cụ thể,…
- Trong đàm thoại. giảng viên chỉ nên đặt câu hỏi, không nói nhiều, không
trả lời thay cho học sinh. Đối với những câu hỏi mà học sinh không trả lời được,
cần nêu những câu hỏi phụ để gợi ý, giúp học sinh tự tìm ra câu trả lời ; nếu học
sinh trả lời không đầy đủ thì giáo viên đề nghị các em khác bổ sung.
- Cần chú ý đến những học sinh nhút nhát, rụt rè, ngại phát biểu ; tránh hiện
tượng chỉ gọi những em “ quen thuộc’’, những em giơ tay mà bỏ qua những em
không giơ tay phát biểu.

10


*. Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là phương pháp chia học sinh thành các nhóm nhỏ để các
em tự do trao đổi ý kiến, bày tỏ thái độ, chia sẻ kinh nghiệm về các vấn đề đạo
đức nào đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Các bước tiến hành
- Giáo viên nêu chủ đề thảo luận.
- Gv chia lớp thành các nhóm, giao nhiệm vụ và quy định thời gian dành
cho các nhóm thảo luận.

- Các nhóm thảo luận.
- Đại diện mỗi nhóm trình bày. Các nhóm khác có thể chất vấn hoặ bổ sung
ý kiến .
- Giáo viên tổng kết các ý kiến; khen ngợi hay nhắc nhở tinh thần, thái độ
làm việc, sáng tạo của các nhóm trong quá trình tiến hành thảo luận.
+ Các yêu cầu sư phạm
- Cách chia nhóm phải đa đạng và phù hợp vơí đặc điểm của học sinh lớp 5
để gây hứng thú cho học sinh. Ví dụ: có thể chia nhóm theo màu sắc , theo tên
các loại hao, loại quả, tên các con vật mà học sinh yêu thích , theo chỗ ngồi,…
- Số thành viên trong mỗi nhóm phải phù hợp, tốt nhất là từ 2 đến 6 em để
tạo không khí gần gũi, thân thiện và tin cậy nhưng nghiêm túc trong nhóm, giúp
học sinh phát biểu một cách tự nhiên, thoải mái.
- Không nên cố định các nhóm, mà cần thường xuyên thay đổi để tạo điều
kiện cho học sinh có thể giao lưu, học hỏi rộng rãi với nhau trong lớp học. Đồng
thời, cũng tạo điều kiện cho các em được luân phiên nhau làm nhóm trưởng và
thư kí của nhóm.
- Vấn đề thảo luận phải phù hợp với chủ đề bài học, phải thiết thực, gần
gũi, gắn bó và vừa sức với học sinh( nếu câu hỏi khó thì chia thành những câu
hỏi nhỏ có tính chất gợi ý); tránh đưa ra hành vi, tình huống xa lạ hay câu hỏi
quá đơn giản hoặc quá khó đối với các em.
- Cần tạo điều kiện cho mọi học sinh tự do bày tỏ ý kiến của mình, cần
động viên, khen ngợi kịp thời để tạo sự phấn khích và không khí thi đua lành
mạnh giữa các nhóm, giữa các học sinh trong nhóm với nhau.
- Kết quả thảo luận nhóm có thể trình bày bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ
viết( ghi trên giấy khổ to) hoặc bằng tranh vẽ, tiểu phẩm,…; kết quả thảo luận
nhóm có thể do một học sinh đại diện cho nhóm trình bày hoặc cũng có thể do
nhiều học sinh trình bày, mỗi em một đoạn.
* Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh nhập vai vào nhân vật trong
những tình huống đạo đức giả định để các em bộc lộ thái độ, hành vi ứng xử.


11


+ Các bước tiến hành
Có thể tiến hành đóng vai theo các bứơc sau :
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai
cho từng nhóm; quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi
nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Cả lớp thảo luận, nhận xét, thường thì thảo luận bắt đầu từ cách ứng xử
của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ mở rộng phạm
vi thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề mà vở diễn chứng
minh.
- Giáo viên kết luận.
+ Các yêu cầu sư phạm
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa
tuổi, trình độ của học sinh và điều kiện hoàn cảnh của lớp học.
- Tình huống nên để mở, không nên cho trước “ kịch bản”, lời thoại. ( cần
phân biệt giữa phương pháp đóng vai để giải quyết tình huống với diễn tiểu
phẩm để minh họa nội dung các câu chuyện trong SGK)
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống, tiểu phẩm để
không lạc đề.
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
- Nên có hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi
đóng vai.
* Phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi là cách tổ chức cho học sinh thực hiện những thao

tác, hành động, lời nói phù hợp với chuẩn mực hành vi đạo đức thông qua một
trò chơi nào đó.
Trong dạy học môn Đạo Đức ở lớp 5, có thể vận dụng nhiều loại trò
chơi khác nhau như: đố vui, ghép đôi, ghép hoa, ghép chữ , phóng viên,…
+ Các bước tiến hành
- Giáo viên phổ biến, giúp học sinh nắm vững tên trò chơi, nội dung và
cách chơi.
- HS thực hiện trò chơi
- Đánh giá kết qảu trò chơi
- GV hướng dẫn HS thảo luận để rút ra ý nghĩa giáo dục từ trò chơi.
+ Các yêu cầu sư phạm
12


- Nội dung trò chơi phải phù hợp vơi chủ đề bài học, phù hợp vơi đặc điểm
và trình độ của HS, dễ tổ chức và thực hiện, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh,
thực tế của trường lớp( về thời gian, không gian, phương tiện,…)
- Nên có những cơ sở vật chất, phương tiện cần thiết để nâng cao hiệu quả
của trò chơi.
- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho đồng đảo học sinh tham gia, đặc biệt chú
ý đến những em nhút nhát; tránh tập dượt trước mang tính hình thức.
* Phương pháp dự án
Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người
học thực hiện một nhiệm vụ học tập phưc hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết với
thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực
cao trong toàn bộ quá trình học tập , từ việc xác định, lập kế hoạch, đến việc
thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
+ Cách tiến hành
- Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: GV và HS cùng nhau đề
xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề

tài để HS lựa chọn và cụ thể hóa. Trong một số trường hợp , việc đề xuất đề tài
có thể từ phía HS.
- Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện: trong giai đoạn này, dưới sự
hướng dẫn của GV, HS xây dựng kế hoạch cho việc thực hiện đự án. Khi xây
dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thòi gian dự kiến, cách
tiến hành, người phụ trách mỗi công việc,…
- Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề
ra cho nhóm và các nhân.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: kết quả thực hiện đựu án có thể
được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo ( ví dụ: Báo cáo kết quả điều tra về tình
hình thực hiện Luật Giao thông ở địa phương,…). Sản phẩm dựu án cũng có thể
là tranh, ảnh, mô hình,… để triễn lãm , cũng có thể là những sản phẩm phi vật
thể như: diễn một vở kịch, một cuộc tuyên truyền, vận động bảo vệ môi trường
trong cộng đồng; một cuộc quyên góp tiền sách vở, đồ dùng ủng hộ nhân dân
vùng bão lụt,.. Sản phẩm dự án cso thể được trình bày giữ các nhóm HS, có thể
được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội.
- Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh
nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
+ Yêu cầu sư phạm
- Đề tài dự án phải phù hợp với chủ đề bài học và gắn liền với các vấn đề,
tình huống thực tiễn.
- Mục tiêu dự án phải rõ ràng và có tính khả thi.
- Cần tạo cơ hội để tăng cường sự tham gia của học sinh trong dự án. Tuy
nhiên, nhiệm vụ của học sinh phải phù hợp với trình độ và khả năng của các em.
13


c. Đồ dùng dạy học.
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo Đức, tinh thần chung
là khuyến khích sử dụng các đồ dùng, thiết bị dạy học, chống khuynh hướng dạy

chay. Các đồ dùng dạy học sử dụng trong tiết Đạo đức có thể là:
- Tranh, ảnh ( tranh liên hoàn, tranh tĩnh, tranh động, tranh nổi, tranh tình
huống)
- Băng hình, băng cát-sét.
- Phim đèn chiếu, phim chiếu bóng.
- Con rối, mô hình, mẫu vật.
- Đồ dùng để chơi đóng vai, chơi hái hoa dân chủ.
- Phiếu giao việc.
- Giấy khổ to, bút dạ.
Việc sử dụng các đồ dùng, thiết bị trên trong quá trình dạy học sẽ làm tăng
tính hấp dẫn, hứng thú bài học và loại trừ cách dạy lý thuyết khô khan, áp đặt.
Các thiết bị, phương tiện này có thể do Bộ, Sở, Phòng GD và ĐT hoặc nhà
trường trang bị; cũng có thể do GV tự chuẩn bị hoặc hướng dẫn, giúp đỡ học
sinh tự làm. Việc sử dụng các thiết bị, phương tiện trong giờ đạo đức phải hợp lí,
đúng mức, đúng lúc và đúng chỗ, tùy thuộc vào nội dung, tính chất từng bài, tùy
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lớp, từng trường, từng địa phương. Tránh
trình trạng sử dụng các thiết bị, phương tiện một cách hình thức, không hiệu
quả.
1.1.4. Hình thức tổ chức day hoc môn đạo đức
Đánh giá kết quả học tập môn Đạo đức của học sinh phải dựa trên tất cả các
mặt: kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi ứng xử của các em ở gia đình, nhà
trường và cộng đồng.
Hình thức đánh giá là giáo viên nhận xét dựa trên việc tự đánh giá của học
sinh, kết hợp và đánh giá của tập thể học sinh, của cha mẹ học sinh, của phụ
trách Đội, phụ trách Sao.
1.1.5. Sách giáo khoa đạo đức lớp 5:
1. SGK Đạo đức 5 được trình bày theo từng bài, từ bài 1 đến bài 14. Mỗi
bài đều được trình bày theo cấu trúc:
- Thông tin, sự kiện, tranh, truyện, tình huống hoặc tranh tình huống: nhằm
nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, phát hiện nội dung bài học.

- Câu hỏi: để định hướng cho học sinh khai thác các thông tin, sự kiện,
truyện, tình huống trên
- Ghi nhớ: nhằm tóm tắt nội dung bài học.
- Bài tập: nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, tình cảm, thái
độ, luyện tập các kĩ năng cần thiết.
14


- Thực hành: nhằm hướng dẫn học sinh cách thực hành bài học trong cuộc
sống ở nhà, ở trường và ở ngoài xã hội.
2. Các thông tin, sự kiện, tranh, truyện, tình huống trong sách được lấy từ
cuộc sống thực của học sinh nên rất cụ thể, gần gũi, dễ hiểu với các em.
3. Phần ghi nhớ được trình bày ngắn ngọn dưới dạng văn xuôi, văn vần,
đồng dao hoặc ca dao tục ngữ Việt Nam.
4. Phần bài tập bao gồm nhiều dạng hoạt động phong phú, đa dạng như:
- Xử lí tình huống.
- Đánh giá các ý kiến quan điểm, thái độ, hành vi, động cơ hành vi.
- Tự đánh giá hành vi, động cơ hành vi của bản thân.
- Đóng vai.
- Sưu tầm các tư liệu(tranh, ảnh, bài báo,…) có liên quan đến chủ đề bài
học.
- Viết, vẽ tranh, hát múa, đọc thơ, kể chuyện,… về chủ đề bài học.
- Lập kế hoạch hành động các nhân, nhóm, lớp.
5. Với cấu trúc như trên, SGK Đạo đức 5 không chỉ nhằm trang bị kiến
thức cho học sinh mà còn hướng dẫn học sinh phương pháp học tập, giúp các em
tự phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học.
6. SGK Đạo đức 5 có sử dụng kết hợp giữa kênh chữ và kênh hình. Mỗi bài
đều có ít nhất một tranh minh họa.
=> Tất cả các phương pháp dạy học nêu trên đều dẫn dắt học sinh khá
tốt, kết quả được 70% đến 80% học sinh đón nhận.

2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
Đã từ rất lâu, qua các công trình nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục học
danh tiếng, truyện kể luôn được là một phương tiện dạy học và giáo dục đạo đức
tuyệt vời thông qua việc “đem lại những mĩ cảm nghệ thuật, làm phong phú tâm
hồn và niềm vui cho mọi lứa tuổi”.
Trong thực tế, một truyện kể có thể được biểu đạt bằng nhiều hình thức
khác nhau. Sự phong phú, đa dạng về hình thức biểu đạt đóng vai trò quan trọng
trong việc góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng truyện kể trong thiết kế bài
giảng và dạy học trên lớp. Hiện nay, ngoài biểu đạt bằng ngôn ngữ lời nói vốn
mang tính phổ biến, người giáo viên có thể sử dụng hình thức biểu đạt truyện kể
bằng tranh ảnh và phim. Hình thức biểu đạt truyện kể bằng tranh ảnh Đây là
hình thức biểu đạt mà ở đó, giáo viên sử dụng tranh ảnh hoặc một chùm tranh
ảnh có cùng chủ đề để hỗ trợ cho quá trình tường thuật lại các chi tiết của truyện
kể hoặc yêu cầu học sinh nhớ lại nội dung và ý nghĩa của truyện kể mà các tranh
ảnh đó phản ánh. Trên cơ sở đó, giáo viên tiến hành các thao tác sư phạm để
khai thác nội dung và ý nghĩa của truyện kể. Hình thức biểu đạt này có nhiều ưu

15


điểm trong việc kích thích thị giác của học sinh, làm phong phú thêm các kênh
thông tin tiếp nhận truyện kể ở học sinh.
Hiện nay, có rất nhiều truyện kể đã được các họa sĩ vẽ lại dưới dạng tranh
liên hoàn. Theo đó, các chi tiết chính của truyện kể đã được minh họa bằng hình
ảnh. Điều này giúp cho truyện kể được người giáo viên sử dụng trở nên lung
linh và sinh động hơn.
Hình thức biểu đạt truyện kể bằng phim
Đây là hình thức biểu đạt mà ở đó giảng viên khai thác sự hỗ trợ của phim
để thuật lại những tình tiết có trong truyện kể. Ở hình thức này có sự kết hợp
giữa âm thanh và hình ảnh trong một khoảng thời gian xác định thông qua các

nhân vật và lời thoại nhằm phản ánh những nội dung chính yếu nhất của câu
chuyện mà người giảng viên sử dụng.
Có thể nói, đây là biểu đạt đặc biệt nhất so với các hình thức biểu đạt khác
và có khả năng gây được nhiều ấn tượng nhất trong phương cách chuyển tải
truyện kể đến đối tượng học sinh. Cũng vì thế mà hình thức này rất thường được
học sinh yêu thích và hỗ trợ rất đắc lực trong việc nâng cao hứng thú học tập ở
học sinh.
Hiện nay, nhiều truyện kể đã được các nhà sản xuất phim khai thác nội
dung cốt truyện bằng các đoạn phim hoạt hình nổi tiếng. Cũng giống như các
hình thức biểu đạt khác, sau khi đã lựa chọn được truyện kể phù hợp, người giáo
viên có thể tìm kiếm các đoạn phim có thể biểu đạt nội dung của truyện kể để
trên cơ sở đó tiến hành các thao tác sư phạm nhằm khai thác nội dung và ý nghĩa
của nội dung đoạn phim phục vụ cho các mục đích sư phạm nhất định.
Qua nội dung trả lời của học sinh, giáo viên khái quát những biểu hiện của
tấm lòng yêu thương con trẻ đầy cảm động, đặc biệt là đối với những trẻ em có
hoàn cảnh cô đơn, bất hạnh. Qua đó, và nhấn mạnh đến nội dung kiến thức của
bài học về biểu hiện và ý nghĩa của nghĩa vụ đạo đức, lối sống có lương tâm,
nhân phẩm, trách nhiệm với hạnh phúc của người xung quanh.
Việc biểu đạt nội dung truyện kể bằng phim rất cần đến đến sự hỗ trợ của
các thiết bị chuyên dụng như máy tính, màn chiếu và loa tăng âm lượng. Ngoài
ra, nó đòi hỏi một số kĩ năng mang tính kĩ thuật như chỉnh sửa âm thanh, hình
ảnh trong quá trình biên tập, xử lí truyện kể ở hình thức biểu đạt này.
Việc tổ chức cho học sinh tiếp nhận nội dung truyện kể tuy mới chỉ là bước
khởi đầu cho hàng loạt những thác tác sư phạm của người GV để hướng đến
những mục tiêu của bài học nhưng việc đa dạng hóa các hình thức biểu đạt luôn
có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng truyện kể.
Bên cạnh sự biểu đạt bằng ngôn ngữ lời nói, giáo viên có thể khai thác các
kênh hình để bổ sung cho quá trình thể hiện truyện kể. Trong giai đoạn hiện nay,
với sự chia sẻ tài nguyên dạy học một cách sâu rộng và sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin, việc sử dụng tranh ảnh và phim để biểu đạt truyện kể có tiềm năng rất

lớn.
16


Điều đó giúp người giáo viên khai thác tối đa vai trò của truyện kể với tư
cách là một phương tiện dạy học đạo đức đặc thù đối với các bài dạy đạo đức
làm phong phú các kênh tiếp nhận thông tin ở học sinh qua khai thác nhiều giác
quan tiếp nhận (âm thanh, hình ảnh,...); tạo không khí sinh động cho lớp học,...
qua đó thiết lập và duy trì tốt hứng thú, kích thích được tính tò mò, ham hiểu
biết của học sinh, tạo điều kiện tốt cho quá trình tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ
năng và bồi dưỡng tư tưởng, thái độ ở học sinh qua mỗi bài học.
2.1. Khái quát quá trình điều tra:
2.1.1. Mục đích:
Để chứng minh cho đề tài nghiên cứu về Sử dụng phim hoạt hình trong dạy
môn đạo đức lớp 5 có tính ứng dụng cao. Qua đó, học sinh có thể nhanh chóng
tiếp thu bài qua phương pháp thực nghiệm trên
2.1.2.Nội dung điều tra:
Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi tiểu học
Nhận thức cảm tính
a, Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác
đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.
b, Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi
tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành
động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ
thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ
đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết
lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến
khó,...)
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động
mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ

kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
Nhận thức lý tính
a. Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan
hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng
khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết
khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ
đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.

17


b. Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy
nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững
và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những
hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương
đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm
thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này
bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện
tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của
các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có
cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em
vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá

trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
c. Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt
đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt
đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát
triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự
khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm
tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ
nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể
đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục
phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng
hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn
học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể
cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện,
dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn
ngữ phong phú và đa dạng. Hướng trẻ tới những ngôn ngữ mang tính chất
đạo đức chuẩn mực qua các phim hoạt hình.
d. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát,
điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế
hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ
học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có
18


cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền
vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.

Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý
của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ
lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức
toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn
của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm
một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy
định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc
hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý
áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến
tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả giáo dục trẻ.
e. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu
thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ
có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát
hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ
định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của
các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú
của các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái
quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, sử dụng phim hoạt hình giúp các em xác
định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt
nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt
phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
f, Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu

cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen,
quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực
thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến
cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn
thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững,
chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu
phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.

19


Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục
sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha
mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ. Ngoài ra có thể
đưa ra những bộ phim hoạt hình có tấm gương sang trong lao động và học tập
để trẻ noi theo.
Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường
thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút.
Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu
kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp,
chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao
tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn
trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của
gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học và giáo
dục về đạo đức.
g. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền
với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm
xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là

trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so
với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các
năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi
dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui
chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà
giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi
từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng
cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập
vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân
cư,...
h. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường
nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh
dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những
đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và
hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng,
tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng;
nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất
20


của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng
sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang
hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều,
với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì

thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát
triển của mình. Khi giáo dục đạo đức bậc tiểu học đưa học sinh đi đúng hướng
sẽ là nền tảng vững chắc cho nhân cách con người sau này.
Tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh sao cho sinh động, lôi cuốn và
thật sự có hiệu quả
Qua tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi tiểu học tôi nhận thấy rằng
những câu chuyện kể có ý nghĩa giáo dục trong giờ đạo đức là một trong những
phương pháp giáo dục đạo đức khá hay, nó hấp dẫn được mọi đối tượng và học
sinh thật sự hứng thú với những câu chuyện này. Trong giờ đạo đức hàng tuần
chúng ta có thể sử dụng phim hoạt hình để giảng dạy đạo đức. Những câu
chuyện này có thể một đoạn phim ngắn trong “Quà tặng cuộc sống” hay các
thước phim do chính giáo viên dàn dựng từ những bài văn hay được đăng tải
trên báo, những câu chuyện người thực việc thực trong mục “chuyện đời tự kể”,
những câu chuyện rất ngắn trong mục “cửa sổ tâm hồn” hay “những câu chuyện
làm thay đổi cuộc sống” trên các trang báo ra hàng ngày hay trên bất cứ các tạp
chí mà tình cờ đọc được, những câu chuyện mà trước đây tôi đã từng được nghe
các thầy cô của tôi kể. Kết hợp câu hỏi tình huống đặt ra để các em tìm cách giải
quyết.
Tận dụng tính trẻ trung năng động của học sinh để có được những
câu chuyện bổ ích, thú vị
Ngoài những câu chuyện do giáo viên chủ nhiệm kể, chúng ta cũng có thể
cho các em học sinh tự tìm những bộ phim hoạt hình có tính giáo dục trên
internet để kể lại cho cả lớp nghe và chúng ta cho thi đua theo tổ, các học sinh
trong tổ sẽ cùng nhau tìm kiếm một phim hoạt hình giáo dục gần với chủ đề
được học hôm đó để cùng cô giáo chiếu cho cả lớp cùng xem và cuối cùng sẽ
bình chọn câu chuyện có nội dung hay nhất, có ý nghĩa giáo dục nhất, tổ nào có
câu chuyện được bình chọn sẽ được cộng điểm vào điểm thi đua của tổ.
Với hình thức này theo tôi nhận thấy thì tác dụng giáo dục rất cao, các em
sẽ biết tìm xem những câu chuyện hoạt hình hay, các em sẽ biết rút ra những ý
nghĩa giáo dục trong những bộ phim mà mình đã xem, một thói quen rất tốt cho

việc học văn, và các em rất hứng thú với việc làm này, cả lớp sẽ tham gia một
cách rất hăng hái, rất nhiệt tình.
Vai trò của những khách thể trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh theo hình thức này
Nhà trường và phụ huynh học sinh có thể cùng nhau tạo thành một tổ phim
chuyện, thiết kế một số phim hoạt hình theo nội dung bài giảng để áp dụng lâu
dài. Qua đó các em sẽ không phải đọc sách hoặc học đạo đức một cách khô

21


khan. Có hình ảnh minh họa cụ thể, những câu chuyện gần gũi nhất với đời
thường.
Tìm hướng giải quyết những vấn đề gây khó khăn trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh theo cách này
a/ Vấn đề về nguồn phim
Trên internet hiện nay có rất nhiều nguồn phim hoạt hình có nội dung dạy
đạo đức khá hay, tuy nhiên muốn tìm một phim hoạt hình gần nhất với bài giảng
của giáo viên thì cũng khá vất vả. Vậy nên cần phải có những tập phim hoạt hình
rành riêng cho việc giảng dạy theo sách giáo khoa đạo đức lớp 5
b/ Vấn đề về trình độ giáo viên
Để có thể có một đoạn hoạt hình phù hợp với bài giảng khi không tìm được
trên các nguồn internet đòi hỏi giáo viên phải sử dụng tốt tin học để tự thiết kế
một bộ phim hoạt hình ngắn cho bài giảng của mình. Nhưng đa số các giáo viên
còn kém về mặt này. Để khắc phục nhà trường phải thành lập một đội chuyên tin
học thiết kế ra một số bộ phim hoạt hình đơn giản phục vụ cho môn học.
c/ Vấn đề về sức hấp dẫn của những câu chuyện
Có rất nhiều phim hoạt hình giáo dục đạo đức nhưng cần phải có những bộ
phim giáo dục đúng chuẩn mực và phải thu hút sự chú ý của trẻ, gần gũi, dễ hiểu
mới đạt được kết quả cao.

2.1.3. Đối tượng điều tra:
Sử dụng phim hoạt hình trong giảng dạy đạo đức cho học sinh lớp 5
2.1.4. Địa bàn điều tra: lớp 5A Trường TH Ba Hàng thị xã Phổ Yên
tỉnh Thái Nguyên
2.1.5. Dụng cụ điều tra, làm thực nghiệm:
- Video hoạt hình ví dụ bài học trong sách đạo đức lớp 5: Bài học tình bạn
và video kể chuyện hai người bạn và con gấu.
- Phiếu điều tra kết quả
2.2. Kết quả điều tra:
Kết quả phiếu điều tra Sử dụng phim hoạt hình trong giảng dạy đạo đức
cho học sinh lớp 5A với sĩ số là 45 bạn.
TT
1
2
3

NỘI DUNG
Học sinh thuộc bài ngay
tại lớp
Học sinh thấy hứng thú
với tiết học
Học sinh thích các tiết

SỐ HỌC
SINH

ĐỘ HÀI LÒNG
(%)

45


100

45

100

45

100

22

GHI
CHÚ


4

học đều như thế này
Số học sinh trả lời đúng
phiếu khảo sát

45

100

Kết quả khảo sát phiếu cho thấy số học sinh có kết quả tốt là 45/45 tương
ứng với tỷ lệ thành công của tiết học là 100%. Dựa trên kết quả này cho thấy
phương pháp này hoàn toàn hiệu quả với các em.

3. Khả năng ứng dụng trong giảng dạy môn đạo đức:
Thay vì phải đọc các nội dung khá trừu tượng, khó hình dung thì học sinh
được theo dõi các cảnh thú vị, nhân vật cụ thể, hình ảnh rõ ràng... “Đây là cách
thức giáo viên cho học sinh xem phim kết hợp yêu cầu học sinh hoàn thành bài
tập giáo viên thiết kế sẵn, để khai thác nội dung của phim hoạt hình đó.
Với cách học này, phim hoạt hình được xem như một nguồn tri thức sống
động cung cấp cho học sinh. Qua đó tăng sự tập trung của học sinh với bài học,
và giảm bớt sự buồn chán của môn học mà các em đang thờ ơ” - Nhất giải thích.
Qua kết quả khảo sát sau buổi thực nghiệm cho thấy: ở giờ học không sử
dụng phim hoạt hình có 71,1% học sinh cho rằng giờ học bình thường, không
hứng thú. Ngược lại, ở giờ học có sử dụng phim hoạt hình lại có đến 100% học
sinh hứng thú với giờ học đạo đức.
Ở các mức độ tập trung, tham gia hay mức độ hiệu quả, sự cần thiết của
phim hoạt hình trong dạy học đạo đức thì có trên 90% học sinh trả lời ở mức độ
1 (rất tập trung, rất tích cực tham gia, rất hiệu quả, rất cần thiết, rất mong muốn)
và 2 (tập trung, tích cực tham gia, hiệu quả, cần thiết, mong muốn).
Một điều đáng vui hơn nữa là phim hoạt hình không chỉ tạo được hứng thú,
tích cực cho học sinh, mà nó còn được đánh giá là có hiệu quả nâng cao việc học
tập so với dạy học theo lối thụ động.
Tuy nhiên, nhiều giáo viên băn khoăn khi triển khai đề tài này trên thực tế
vì không phải giáo viên nào cũng thiết kế được phim hoạt hình.
Thiết kế phim hoạt hình đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức nhất định về tin
học. Để áp dụng phương pháp này không nhất thiết giáo viên tự mình thiết kế
phim hoạt hình, mà nhà trường có thể lập nhóm chuyên thiết kế tạo nguồn phim
phục vụ việc dạy học. Nhà trường phổ biến những video này đến giáo viên, ai có
nhu cầu có thể sử dụng khi dạy học.

23



CHƯƠNG II:
SỬ DỤNG PHIM HOẠT HÌNH TRONG DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5
1. Nguyên tắc sử dụng phim hoạt hình trong dạy môn đạo đức lớp 5:
Phim hoạt hình phải gần gũi với cuộc sống hằng ngày, phải phù hợp với nội
dung trong sách giáo khoa, phải đúng chuẩn mực đạo đức để giúp học sinh hình
thành và phát triển cảm xúc tích cực, ý thức đúng đắn về cách cư xử, thói quen,
nền nếp cơ bản, cần thiết trong học tập và sinh hoạt phù hợp với giá trị văn hoá,
chuẩn mực đạo đức, quy tắc của cộng đồng, quy định của pháp luật, quy luật của
tự nhiên và xã hội.
2. Quy trình thực hiện một bài dạy đạo đức có sử dụng phim hoạt hình:
2.1. Chuẩn bị:
- Soạn bài giảng
- Lựa chọn video phim hoạt hình có nội dung tương tự bài giảng trong sách
- Phiếu câu hỏi khảo sát
- Chuẩn bị sẵn câu hỏi chia nhóm trả lời
- Dụng cụ trình chiếu gồm loa, máy chiếu, máy tính sách tay, USB chứa
phim hoạt hình.
- Có thể thiết kế thêm một số tranh ảnh bên ngoài.
2.2. Tổ chức thực hiện:
Giáo viên và học sinh cùng thực hiện những công việc sau trong
một buổi học đạo đức có sử dụng phim hoạt hình

NỘI DUNG

DIỄN GIẢI

I. ổn định.

Lớp trưởng lớp thực hiện


II. Kiểm tra.

Giáo viên thực hiện kiểm tra. Giáo
viên gọi bất kỳ bạn học sinh nảo
trong lớp và kiểm tra bài cũ, hỏi một
số kiến thức liên quan đến bài mới
để dẫn dắt các em học sinh vào bài
học mới

- Kiểm tra kiến thức cũ.
- Kiểm tra kiến thức có liên quan đến
bài học.
III. Bài mới.

- Giới thiệu bài, giáo viên chiếu đoạn
phim hoạt hình trên màn hình máy
chiếu để các em theo dõi

1. Giới thiệu bài.
2. Nội dung

- Sau khi xem giáo viên hỏi một số
câu hỏi dẫn dắt để các em tự do phát

2.1. Hoạt động 1: Xử lý tình huống
24


×