Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 171 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN NAM CHUNG

PH¸T HUY VAI TRß CñA §éI NGò TRÝ THøC
TRONG QU¸ TR×NH C¤NG NGHIÖP HãA, HIÖN §¹I Hãa
ë viÖt nam hiÖn nay
Chuyên ngành

: CNDVBC&CNDVLS

Mã số

: 9229002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án đều được
khai thác từ các tài liệu có nguồn gốc rõ ràng; những
phát hiện, đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu
của tác giả luận án.


Tác giả luận án

Đoàn Nam Chung


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Nghiên cứu về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức
1.2. Nghiên cứu về thực trạng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.3. Nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.4. Giá trị của các công trình khoa học và khoảng trống đặt ra tiếp tục
nghiên cứu

5
5
10
21
25

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI
NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

2.1. Lý luận về trí thức, đội ngũ trí thức và công nghiệp hóa, hiện đại hoá
ở Việt Nam hiện nay
2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay
2.3. Những nhân tố tác động đến phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

27
27
52
58

Chương 3: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Số lượng và cơ cấu đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay
3.2. Thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.3. Kết quả rút ra từ quá trình phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

72
72
78
96

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI
TRÒ ĐỘI NGŨ THỨC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

4.1. Phương hướng nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức Việt Nam
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4.2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

118
118
128
148
150
152
162


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

CNH

Công nghiệp hóa

CNH, HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

KH&CN

Khoa học và công nghệ

KH-KT

Khoa học - kỹ thuật

KT-XH

Kinh tế - xã hội

KTTT

Kinh tế tri thức

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
Trang

Bảng 3.1:

Tỷ lệ % nữ được công nhận đủ tiêu chuẩn đạt chức
danh giáo sư, phó giáo sư năm 2000, 2007, 2013, 2014
và năm 2015

Biểu đồ 2.1:

76

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của Việt Nam từ năm
1980 đến năm 2016

64

Biểu đồ 3.1:

Cơ cấu ngành nghề của trí thức

76

Biểu đồ 3.2:

Số lượng giảng viên phân theo trình độ chức danh

84

Biểu đồ 3.3:

Số lượng ngành mới mở trong năm 2017 theo nhóm ngành


84

Hình 1.1:

Mô hình về lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới

41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử đã chứng minh, bất cứ dân tộc nào muốn hưng thịnh đều phải thu
hút và trọng dụng nhân tài (đội ngũ trí thức). Thu hút và trọng dụng nhân tài đã
trở thành quốc sách của nhiều quốc gia. Đối với Việt Nam, nhân tài luôn được
coi là nguyên khí quốc gia. Nhận định về vai trò của nhân tài trong xây dựng đất
nước, Vua Lê Thánh Tông đã nói: "Trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn. Người
có đức, có tài nhậm chức thì trị. Người vô tài, thất đức nắm giữ quyền hành thì
loạn" [38, tr.312].
Với truyền thống trọng dụng nhân tài, không ít các vị vua đã sử dụng nhân
tài mà không căn cứ vào hoàn cảnh xuất thân và địa vị xã hội sang - hèn. Nhiều
vị vua đã ban "Chiếu cầu người hiền tài" nhằm khuyến khích các quan lại tiến cử
người tài. Để khắc phục tình trạng quan lại "tiến cử bừa" nhằm tạo phe cánh và
tham nhũng, nhiều vị vua quy định, nếu quan lại nào tiến cử đúng người hiền tài
thì được triều đình khen thưởng, ngược lại thì bị phạt rất nặng. Cho nên, trải qua
gần mười thế kỷ khoa cử trong lịch sử nhà nước Việt Nam (từ khoa thi Nho học
đầu tiên dưới triều Lý năm 1075 đến khoa thi cuối cùng dưới triều Nguyễn năm
1919), Việt Nam đã có 118 kỳ thi Hội, thi Đình, tuyển chọn được 2.898 tiến sỹ,
(trong đó có 48 người đỗ trạng nguyên, 48 bảng nhãn và 78 thám hoa) [6, tr.20].
Nhiều người đã trở thành nhà kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục, văn hóa...

nổi tiếng trong và ngoài nước. Vì thế, trong mỗi giai đoạn lịch sử, họ đã để lại
dấu ấn quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đất nước.
Đội ngũ trí thức được coi là nguồn lực quan trọng, phản ánh sức mạnh
của mỗi quốc gia, đặc biệt trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hiện nay. Nhận thức
được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước từng bước xây dựng những chủ
trương, biện pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chủ trương này được khẳng định rõ ràng trong Nghị
quyết của Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng khóa X như sau: "Trong mọi thời
đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng
cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng
1


của cách mạng KH&CN hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt
quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển" [3].
Việt Nam đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh việc xây dựng,
phát triển đội ngũ trí thức ở Việt Nam thời gian qua (đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
trí thức; tập hợp, vận động trí thức và thu hút trí thức Việt Nam ở nước ngoài; công
tác sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức). Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để trí
thức phát triển về số lượng, từng bước nâng cao trình độ và năng lực sáng tạo, góp
phần trực tiếp cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin và động lực cho trí thức.
Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, đội ngũ trí thức Việt Nam không ngừng
lớn mạnh, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vì
thế, khi nhấn mạnh về vai trò của đội ngũ trí thức, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng (2008) khẳng định: "Ðội ngũ trí thức
đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con
đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự
nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng
nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản

phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và
công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới" [3].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy vai trò đội ngũ
trí thức ở Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập. Điều đó thể hiện ở chỗ:
đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam còn khiêm tốn hơn so với đội ngũ trí
thức ở các quốc gia trong khu vực và thế giới; công tác phản biện xã hội, nhất là
đóng góp phản biện những chủ trương, quyết sách lớn của đất nước chưa thực sự
được phát huy; việc truyền bá tri thức, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
chưa được đảm bảo; công tác dự báo và định hướng dư luận xã hội còn chưa
cao; hoạt động nghiên cứu, sáng tạo trong khoa học chưa đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; nạn “chảy máu chất xám”
tiếp tục diễn ra ở nhiều ngành, lĩnh vực và địa phương khác nhau;… Có thể thấy,
đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam còn khiêm tốn hơn so với đội ngũ trí
thức ở các quốc gia trong khu vực và thế giới.
2


Do yêu cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH, sự cần thiết phải tăng cường
Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
hiện nay đang đặt ra rất cấp bách để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và
chuẩn bị tiềm lực đón nhận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tác giả chọn đề tài:
"Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành
CNDVBC & CNDVLS.
2. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp thêm luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chủ trương,
chính sách nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong
quá trình CNH, HĐH hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, luận giải một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
Hai là, đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt
Nam trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
Ba là, đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH trong thời gian tới.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội
ngũ trí thức. Ngoài ra, luận án còn kế thừa những quan điểm của các nhà khoa
học trong nước và thế giới về những nội dung liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu: thống kê,
tổng hợp, so sánh, phân tích, trừu tượng hoá, logic - lịch sử để tìm ra những đặc
trưng bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Luận án có sử dụng phương pháp thu thập tư liệu của các cơ quan, tổ chức
của Đảng và Nhà nước trong quá trình phân tích nghiên cứu.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay. (Cụ thể, là nghiên cứu về
các lĩnh vực cơ bản: tham gia xây dựng nhân lực cho đất nước; tham gia hoạch
định chủ trương chính sách và phản biện xã hội; tham gia hoạt động nghiên cứu
khoa học; tham gia vào quá trình sản xuất;...).
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò
đội ngũ trí thức ở Việt Nam trên một số nội dung cơ bản (tiếp thu và truyền bá tri
thức; sáng tạo các giá trị mới của tri thức; đề xuất, phản biện một cách độc lập
các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; dự báo
phát triển và định hướng dư luận xã hội; tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá
trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội;...).
- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò đội ngũ trí thức
trong quá trình CNH, HĐH.
Thứ hai, đánh giá những thành công, hạn chế và nguyên nhân của thành
công và hạn chế trong thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt
Nam trong quá trình CNH, HĐH trên một số vai trò cơ bản của đội ngũ trí thức.
Thứ ba, đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH thời gian tới.
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần tổng kết thực tiễn thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về đội ngũ trí thức trong quá trình CNH, HĐH.
- Cung cấp tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về
đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 04 chương, 12 tiết.
4


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức nói chung và đội
ngũ trí thức Việt Nam nói riêng, có thể chia các công trình nghiên cứu đã được
công bố về vấn đề này theo các nhóm sau đây:
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ TRÍ THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

"Trí thức là gì?" là một vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực từ trước đến nay. Hiện nay, trên thế giới chưa
có thống kê đầy đủ khái niệm về trí thức và cũng chưa có một định nghĩa đầy đủ,
toàn diện về trí thức. Khái niệm trí thức thường biến đổi theo từng thời kỳ lịch sử,
phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử cụ thể của mỗi thời kỳ, phụ thuộc vào nhận thức
của mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa nào thâu
tóm, làm rõ được nội hàm và ngoại diên của khái niệm trí thức.
Thuật ngữ "trí thức" có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Intelligentia (Intelligens
là thông minh, có trí tuệ, có nhận thức, có hiểu biết, có suy nghĩ) là những người
có học thức cao, học vấn sâu rộng.
Tác giả Hidechiro Nakano đã đưa ra quan niệm về trí thức trong bài Về trí
thức và tư tưởng trong xã hội Nhật Bản hiện nay (Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản,
số 1 (5), 1996). Theo tác giả, có nhiều tranh luận khác nhau về trí thức. Có người
cho rằng trí thức là người có kiến thức chuyên môn hóa cao; có ý kiến cho rằng
trí thức là người luôn chỉ trích nhà nước, phê bình trật tự xã hội đã được thiết
lập. Có ý kiến cho rằng, trí thức là những học giả, những nhà nghiên cứu, là
người sử dụng tri thức của mình để cải biến xã hội. Theo tác giả, ở Nhật Bản, trí
thức được coi là người của các ý tưởng, mặc dù không phải tất cả các ý tưởng
của họ đều được "người có quyền lực" tán đồng.
Trong bài viết "Kẻ sĩ xưa và nay" trong cuốn Trí thức Việt Nam xưa và nay
(Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 97-98), tác giả Huỳnh Thúc Minh
cho rằng, trí thức là người lao động trí óc, là anh em sinh đôi của sự phân công
lao động xã hội (phân công lao động trí óc và lao động chân tay). Trí thức bao
5



gồm: nhân viên kỹ thuật, thầy thuốc, giáo viên, những người hoạt động văn học
nghệ thuật… Từ Hán - Việt, "kẻ sĩ" là từ dùng để chỉ những người thuộc tầng
lớp trí thức trong lịch sử, chỉ chung những người lao động bằng trí óc. Theo từ
điển Hán - Pháp thì thành phần những người làm việc trí óc khá phức tạp, bao
gồm cả giai cấp thống trị. Trên thực tế, theo chế độ thi cử xưa thì nhiều học trò,
sau khi đỗ cao thì đã thuộc tầng lớp thống trị rồi. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều
người thi nhưng đỗ thì ít. Do vậy, đại đa số kẻ sĩ gắn với dân chúng hơn. Có thể
thấy, cách quan niệm này của tác giả đứng trên quan điểm giai cấp và phân công
lao động xã hội để định nghĩa về trí thức. Tác giả chưa phân biệt rõ rằng sự khác
nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Vì sao kẻ sĩ khi đỗ cao và làm
quan lại trở thành tầng lớp thống trị? Tại sao họ thuộc tầng lớp thống trị nhưng
bản chất họ vẫn là kẻ sĩ (thuộc tầng lớp lao động trí óc)? Những câu hỏi này
chưa được tác giả làm rõ.
Tác giả Hoàng Phê (Chủ biên) trong cuốn Từ điển tiếng Việt, (Nxb Đà
Nẵng, Hà Nội, 2005, tr.1034) cho rằng: "Trí thức, người chuyên làm việc lao
động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của
mình". Định nghĩa này của tác giả đã chỉ ra được nội hàm của khái niệm trí thức,
theo đó trí thức là người lao động trí óc và có chuyên môn. Tuy nhiên, tác giả
chưa đề cập đến vị trí và vai trò của trí thức đối với sự phát triển của đất nước.
Trong cuốn sách Chiến lược thông minh: Kinh doanh thông minh, tình
báo cạnh tranh, và Quản lý tri thức (Strategic Intelligence: Business
Intelligence, Competitive Intelligence, and Knowledge Management) (Nxb
Auerbach Publications, 2006) của Jay Liebowitz. Trong cuốn sách này, tác giả
chỉ ra rằng tri thức đã trở thành vô giá để cải thiện quá trình ra quyết định chiến
lược của bất kỳ tổ chức, nhà nước nào. Cuốn sách được chia thành hai phần chính,
phần đầu của cuốn sách bàn về sự hội tụ của quản lý tri thức (KM), kinh doanh
thông minh (BI), tình báo cạnh tranh (CI). Phần thứ hai được công nhận trong các
lĩnh vực của KM, BI và CI. Các nghiên cứu trường hợp các tình huống chiến lược
tại Motorola, AARP, Northrop Grumman. Cuốn sách là tài liệu nghiên cứu bổ ích

cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu khoa
học để tổ chức quản lý và phát huy hiệu quả tri thức hiện nay.
6


Trong cuốn Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.11, 15, 16, 17), tác
giả Nguyễn Thị Phượng cho rằng: "Trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm
những người lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn cao,
có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời, truyền bá và ứng dụng tri
thức này vào thực tiễn, góp phần to lớn vào sự phát triển và trình độ văn minh
của nhân loại";… Có thể thấy tác giả đã chỉ ra được nội hàm trí thức, song đây
chỉ là cách tiếp cận của tác giả dưới góc độ chuyên ngành kinh tế chính trị.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các quan niệm về trí thức trước đó, tác giả
Đức Vượng trong cuốn Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014,
tr. 25) cho rằng: 1) Trí thức là người lao động trí óc; 2) Trí thức là người có
trình độ học vấn cao; 3) Trí thức là người có cống hiến "chất xám" cho xã hội;
4) Trí thức là là người có những sáng kiến, phát minh, có những công trình
nghiên cứu khoa học; 5) Trí thức là người sống có nhân cách, gọi là "nhân cách
trí thức", trung thực trong công vụ và trong nghiên cứu, giảng dạy; 6) Trí thức
là người không cơ hội trong chính trị và trong nghiên cứu khoa học; 7) Trí thức
là người biết đào tạo, giúp đỡ, nâng đỡ đồng nghiệp vươn lên trong nghiên cứu
khoa học và trong công vụ; 8) Trí thức là người biết gắn lý luận với thực tiễn đời
sống xã hội; 9) Trí thức là người có tư duy độc lập, có chính kiến rõ ràng; 10)
Trí thức là người biết hòa đồng đời sống riêng tư của mình vào đời sống xã hội. Trí
thức xã hội chủ nghĩa là người yêu Tổ quốc, yêu CNXH, gắn bó với nhân dân, góp
phần cùng với nhân dân nói chung xây dựng xã hội phát triển lành mạnh.
Tác giả Tạ Văn Tú trong luận án tiến sĩ Triết học "Phát huy nguồn nhân lực
trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Ninh hiện nay"

cho rằng: trí thức phải là người có trình độ học vấn cao về một lĩnh vực chuyên
môn. Trình độ học vấn cao là cơ sở để mỗi cá nhân tiếp tục nghiên cứu làm giàu
thêm lượng tri thức của mình phục vụ hoạt động ứng dụng vào thực tiễn (Luận
án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
2008, tr.9). Có thể thấy, cách hiểu của tác giả chưa thống nhất bởi chính trong
luận án tác giả đã chỉ ra trong thực tế hàng ngày không nên tuyệt đối hóa đặc
7


điểm trình độ học vấn cao của người trí thức vì có rất nhiều nhà văn, nghệ sĩ,
nhiều nhà khoa học,… chưa tốt nghiệp đại học nhưng có trí tuệ cao, có ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội.
Cuốn Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo
khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010) của Viện khoa học giáo dục Việt Nam. Cuốn sách
bao gồm 8 chương (Chương 1: Tổng quan về kinh nghiệm của một số nước về
phát triển GD&ĐT, KH&CN gắn với xây dựng đội ngũ trí thức; Chương 2:
Phát triển GD&ĐT, KH&CN gắn với xây dựng đội ngũ trí thức ở cộng hòa
Liên Bang Đức; Chương 3: Phát triển GD&ĐT, KH&CN gắn với xây dựng
đội ngủ trí thức ở Hàn Quốc; Chương 4: Phát triển GD&ĐT, KH&CN gắn với
xây dựng đội ngũ trí thức ở Hoa Kỳ; Chương 5: Phát triển GD&ĐT, KH&CN
gắn với xây dựng đội ngũ trí thức ở Nhật Bản; Chương 6: Phát triển GD&ĐT,
KH&CN gắn với xây dựng đội ngủ trí thức ở Xingapo; Chương 7: Phát triển
GD&ĐT dục và đào tạo, KH&CN gắn với xây dựng đội ngũ trí thức ở Trung
Quốc; Chương 8: Phát triển GD&ĐT, KH&CN gắn với xây dựng đội ngủ trí
thức trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam). Cuốn sách nghiên
cứu về việc phát triển GD&ĐT KH&CN gắn với xây dựng đội ngũ trí thức ở
một số quốc gia tiên tiến trên thế giới; phân tích chính sách phát triển
GD&ĐT, KH&CN với xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước; từ đó đúc rút
các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển

nền KTTT.
Cuốn sách Intellectuals & Society (Trí thức & Xã hội) (Nxb Basic,
02/2010) của Thomas Sowell, tác giả nêu ra những hạn chế trong phản biện xã
hội, phản biện chính sách của đội ngũ trí thức. Tác giả cũng chỉ ra vai trò của đội
ngũ trí thức có ảnh hưởng lớn đến xã hội hiện đại, trong đó ảnh hưởng đến chính
sách phát triển, từ kinh tế đến chiến tranh và hòa bình. Sự ảnh hưởng của trí thức
ngày càng lớn hơn so với thời đại trước. Công trình nhấn mạnh tầm quan trọng vô
cùng lớn của đội ngũ trí thức trong xã hội: giúp người nghiên cứu thấy được sự cần
thiết phải phát huy vai trò hơn nữa của đội ngũ trí thức đối với xã hội, nhất là vai trò
phản biện xã hội.
8


Công trình Intellectuals (Nhà trí thức) của tác giả Martin Kilson (Nxb
Blackstone Audio, Inc; Unabridged edition; 6/2013). Trong công trình này, tác
giả cho rằng, ngay từ thời Voltaire và Rousseau, trí thức đã ngày càng có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Tác giả đưa ra và trả lời những câu
hỏi sau: làm thế nào để trí thức đưa ra được những kết luận thực sự có giá trị của
họ; làm thế nào để họ xem xét, kiểm chứng những kết luận của mình; làm thế
nào để sự thật nghiên cứu của họ nêu ra được tôn trọng? Cách nghiên cứu, lập
luận logic của tác giả khi giải quyết vấn đề này là luận cứ lý thuyết quan trọng
giúp người quản lý khoa học và quản lý đội ngũ trí thức đưa ra những chủ
trương, chính sách, biện pháp cụ thể.
Công trình Origins of the Russian Intelligentsia: The Eighteenth-Century
Nobility (Nguồn gốc của trí thức nước Nga: 18 thế kỷ không ngừng lớn mạnh)
của tác giả Martin Kilson (Nxb Đại học Harvard, 2014). Công trình nghiên cứu
dưới góc độ sử học đã chỉ ra nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của đội ngũ
trí thức ở nước Nga. Tác giả cuốn sách có cách lý giải độc đáo, logic về nguồn
gốc của trí thức nước Nga, coi trí thức là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của
người Nga trong lịch sử cũng như hiện tại. Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo

quan trọng cho người nghiên cứu trên thế giới trong quá trình nghiên cứu về trí
thức và nguồn gốc của trí thức.
Tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc Diệu có cuốn Tôn trọng trí thức tôn
trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2008). Cuốn sách đã trình bày 8 phần. Phần Tổng luận đề cập nguồn gốc lý
luận, nội dung chủ yếu và địa vị lịch sử của tư tưởng Đặng Tiểu Bình về nhân
tài. Cuốn sách còn đề cập đến những vấn đề như: vai trò của nhân tài đối với sự
phát triển; đường lối tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; những tư tưởng
chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; tuyển chọn nhân tài ưu tú; sử dụng
và bố trí nhân tài; tạo môi trường cho nhân tài phát triển; cải cách chế độ nhân sự
trong việc sử dụng nhân tài… Cuốn sách là tài liệu tham khảo có giá trị về lý
luận và thực tiễn, là cơ sở để những nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu, rút kinh
nghiệm, đề xuất luận cứ cho hoạch định chủ trương, chính sách đào tạo, bồi
9


dưỡng và phát huy vai trò của trí thức, nhân tài trong quá trình đổi mới và hội
nhập đất nước.
Tác giả Ikujiro Nonaka trong cuốn Quản trị trí thức (2015, Nxb Thời đại, Hà
Nội, Võ Kiều Linh dịch) cho rằng: hiện nay, nền "kinh tế cơ bắp" (tạo ra giá trị chủ
yếu dựa vào lao động phổ thông, nhân công giá rẻ) và nền "kinh tế đào mỏ" (dựa
vào khai thác tài nguyên thiên nhiên) trở nên lạc hậu, có giá trị thấp gây ra nhiều hệ
lụy cho xã hội. Nền KTTT thực sự nhận được mối quan tâm đặc biệt vì mang lại giá
trị cao và phát triển bền vững. Tác giả cho rằng có bốn loại công ty phổ biến: công
ty đặc quyền (kiếm tiền chủ yếu dựa vào các mối quan hệ để đặc quyền tài nguyên
hay trục lợi chính sách); công ty đầu cơ (kiếm tiền chủ yếu dựa vào giới đầu cơ,
chụp giật, ăn xổi ở thì); công ty cơ bắp (kiếm tiền chủ yếu dựa vào lao động phổ
thông và nhân công giá rẻ); công ty tri thức (tạo ra giá trị cao chủ yếu dựa vào chất
xám, trí tuệ của đội ngũ). Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của các
"công ty tri thức" (knowledge-based company) và "nhân viên tri thức" (knowledge

worker), điều này ít được nhắc đến ở Việt Nam và tác giả còn trả lời cho các câu hỏi
"công ty tri thức" là gì; điểm khác của nó so với các công ty truyền thống; quá trình
xây dựng và vận hành "công ty tri thức" như thế nào?
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI
NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA

Cuốn sách Bàn về cải tạo trí thức (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1957) của tác giả
Lương Duy Trực. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày một số vấn đề cơ
bản: thế nào là người trí thức và đặc điểm của người trí thức; mong đợi của
Trung Quốc mới đối với người trí thức; phân tích tại sao người trí thức phải tự
cải tạo và muốn cải tạo thì phải làm gì; tại sao phải đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản? Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến một số tư tưởng và tác phong sai
lầm mà phần đông thanh niên trí thức mắc phải: chủ nghĩa anh hùng cá nhân;
quan niệm không đúng và thái độ thiên lệch đối với phê bình và tự phê bình, đối
với gia đình, đối với tổ chức và các cấp lãnh đạo;… Cuốn sách là tài liệu tham
khảo có giá trị tham khảo cho Đảng, Nhà nước và các cấp trong việc đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy vai trò của trí thức hiện nay.
10


Tác giả Nguyễn Văn Khánh có cuốn Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước (Nxb Thông Tấn,
2004). Cuốn sách được chia làm bốn phần. Ở phần thứ nhất, tác giả trình bày
khái quát các luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng của giải cấp
vô sản. Phần thứ hai, cuốn sách khái quát về trí thức Việt Nam thời phong kiến,
quá trình hình thành, cơ cấu và quy mô trí thức phong kiến Việt Nam, những
đóng góp của trí thức trong xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, trong
phong trào giải phóng dân tộc (trước khi có Đảng). Ở phần thứ ba, tác giả trình

bày những hoạt động của trí thức Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, những đóng góp to lớn của trí thức trong Cách mạng tháng Tám,
hai cuộc kháng chiến, sự nghiệp xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới. Phần
thứ tư, cuốn sách giới thiệu các quan điểm và đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ của Đảng về vai trò, đóng góp của trí thức cách mạng; các
yêu cầu, nhiệm vụ, phương hướng đào tạo, bồi dưỡng trí thức, tạo điều kiện để
trí thức đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Cuốn Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2008) của tác giả Nguyễn Đắc Hưng. Cuốn sách gồm 4 chương. Trong đó,
Chương 2, tác giả phân tích những vấn đề đặt ra đối với trí thức Việt Nam: khoa
học, công nghệ biến đổi nhanh chóng; xã hội thông tin và xã hội công nghệ
thông tin; những biến đổi cơ cấu xã hội; sự chuyển dịch của nguồn lực trí thức;
thời cơ và thách thức trong môi trường toàn cầu hóa;… Chương 3, tác giả trình
bày thực trạng đội ngũ trí thức; những trăn trở, tâm trạng của đội ngũ trí thức
Việt Nam. Trong Chương 3, khi trình bày về thực trạng, cuốn sách đã tập trung
làm nổi bật trong nhân cách người trí thức Việt Nam là người nặng lòng vì Tổ
quốc và nhân dân, mong muốn đóng góp cho sự phát triển xã hội, nhất là trong
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tác giả Nguyễn An Ninh có cuốn Phát huy tiền năng trí thức khoa học xã
hội Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008), cuốn sách gồm ba
chương. Trong đó, chương 1, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
khai thác tiềm năng trí thức khoa học xã hội, coi đây là xu thế tất yếu hiện nay
11


trên thế giới. Trong chương 2, tác giả làm rõ đặc điểm của trí thức khoa học xã
hội và quá trình phát huy tiềm năng của họ trước và trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam; ngoài ra, trong chương này, tác giả đã đánh giá thực trạng phát huy tiềm
năng tri thức khoa học xã hội trong sự nghiệp đổi mới.
Cuốn Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam ở một số nước Đông

Âu những năm đầu thế kỷ 21 (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) do tác giả
Nguyễn An Hà chủ biên. Cuốn sách bao gồm ba nội dung cơ bản: thứ nhất:
nghiên cứu thực trạng của cộng đồng người Việt Nam và đội ngũ trí thức Việt
Nam tại các nước Đông Âu trong những năm đầu thế kỷ 21; phân tích những
thuận lợi và khó khăn của cộng đồng và đội ngũ trí thức Việt Nam về một số
khía cạnh (pháp lý, ngành nghề, môi trường sống và làm việc;…); thứ hai:
nghiên cứu về bối cảnh và những nhân tố tác động tới cộng đồng người Việt và
trí thức người Việt trong những năm đầu thế kỷ 21’ tập trung vào quá trình hội
nhập Liên minh Châu Âu của các nước Đông Âu; thứ ba: phân tích quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng; đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức Việt Nam ở Đông Âu trong việc củng cố,
phát triển cộng đồng người Việt Nam ở đây, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp
tác toàn diện giữa Việt Nam với các nước này cũng như đóng góp cho công cuộc
CNH, HĐH đất nước.
Cuốn Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ chấn
hưng đất nước (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010) do tác giả Nguyễn Văn
Khánh chủ biên. Cuốn sách bao gồm bốn phần cơ bản. Phần thứ nhất: Trí tuệ và
nguồn lực trí tuệ - Những vấn đề lý luận chung. Trong phần này, tác giả nêu ra
quan điểm về trí tuệ trong lịch sử tư tưởng phương Tây và quan điểm về trí tuệ,
nguồn lực trí tuệ và phát huy nguồn lực trí tuệ trong lịch sử tư tưởng phương
Đông. Phần thứ hai: Nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Trong
phần này, các tác giả nghiên cứu vấn đề đào tạo, phát triển và sử dụng nhân tài
trong thời kỳ phong kiến, thời Pháp thuộc và trong hai cuộc kháng chiến của dân
tộc (1945-1975) và một số vấn đề về nguồn lực trí tuệ dân tộc thiểu số và người
Việt Nam ở nước ngoài. Phần thứ ba: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
12


Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Trong phần này, tác giả tập

trung đi sâu nghiên cứu quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đào tạo, sử dụng và phát huy vai trò nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong sự
nghiệp phát triển đất nước. Phần thứ tư: Phát triển và sử dụng nguồn lực trí tuệ Tiếp cận từ kinh nghiệm nước ngoài. Trong phần này, các tác giả đi sâu nghiên
cứu, tìm hiểu kinh nghiệm phát triển nguồn lực trí tuệ của Trung Quốc và Nhật
Bản. Thông qua cách tiếp cận liên ngành, cuốn sách đã góp phần lý giải một số
vấn đề cơ bản về trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ; đồng thời, đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Cuốn Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012) do
Nguyễn Khánh Bật và Nguyễn Thị Huyền (chủ biên). Cuốn sách gồm hai
chương: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Chương 2: Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi sáng công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH. Cuốn sách đã làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trí thức, nhân
tài, KTTT và nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức; làm rõ
quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò đội ngũ trí thức trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước; đánh giá thực trạng, đưa ra quan điểm, giải pháp
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, đào tạo, phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức ở Việt Nam trong thời kỳ 2011-2020.
Tác giả Trần Hồng Lưu có cuốn Vai trò của tri thức khoa học trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2011). Cuốn sách này, tác giả trình bày gồm ba chương: Chương 1: Tri
thức khoa học và vai trò của nó trong sư phát triển xã hội. Chương 2: Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp CNH, HĐH ở
Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của tri thức
khoa học trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Cuốn sách phân tích khái
niệm, kết cấu, phân loại tri thức khoa học, nhằm đưa ra cách hiểu đúng hơn về tri
thức khoa học; làm rõ thêm vai trò quan trọng của tri thức khoa học trong quá trình
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH dưới sự tác động của toàn cầu hóa và nền KTTT.
13



Tác giả Đức Vượng trong cuốn Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ
trí thức Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014) trình bày ba vấn đề
lớn: trí thức Việt Nam - Lịch sử và lý luận; thực trạng về đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện nay; phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020. Cuốn sách dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài cấp nhà
nước: Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (Mã số:
KX.04.16/06-10). Cuốn sách trình bày: tầm quan trọng của việc xây dựng đội
ngũ trí thức ở Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; các vấn
đề lý luận, thực tiễn liên quan; tình hình đội ngũ trí thức Việt Nam dựa trên một
số lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội (GD&ĐT; KH&CN; lý luận chính trị,
tư tưởng; lập pháp; hành pháp; KH&CN; y tế; quốc phòng - an ninh;…); phương
hướng và giải pháp (giải pháp tổng thể và giải pháp cụ thể ở một số lĩnh vực hoạt
động của trí thức) nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài cấp nhà nước do tác giả Đàm Đức Vượng (chủ nhiệm)"Xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020" (Mã số: KX.04.16/06-10) thuộc
Chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước (KX.04/06-10): "Nghiên cứu
khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2006 - 2010". Mục tiêu nghiên cứu của đề
tài là: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, trong đó, có tham khảo kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ trí thức
ở một số nước phát triển; đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức qua hơn 20 năm đổi
mới và hiện nay; dự báo xu hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm
2020; đề xuất mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng
đội ngũ trí thức giai đoạn 2011-2020; kiến nghị những nội dung cụ thể về xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2020, phục vụ trực tiếp cho việc xây
dựng chiến lược phát triển KT-XH Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và chiến lược
phát triển và trọng dụng nhân tài quốc gia Việt Nam;..

Kỷ yếu Hội thảo "Trí thức với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước" (do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật các tỉnh, thành phố khu
vực miền Bắc, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với
14


Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Yên Bái tổ chức tháng 3/2015).
Hội thảo phân tích hoạt động của trí thức trong những năm qua; thực trạng vai
trò đội ngũ trí thức ở các tỉnh miền núi phía bắc; chủ trương, cơ chế, chính sách
tạo môi trường, điều kiện hoạt động cho đội ngũ trí thức; thực trạng, bài học kinh
nghiệm và giải pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức các tỉnh miền núi phía Bắc
(điển hình là tỉnh Yên Bái); các giải pháp nhằm nâng cao nhiệm vụ tư vấn, phản
biện và giám định xã hội của đội ngũ trí thức. Theo một số tác giả, nhiều tỉnh
miền núi phía Bắc chú trọng mở rộng hình thức tập hợp, lấy ý kiến trí thức; trí
thức đã làm rất tốt chức năng phản biện và giám định xã hội vào các dự thảo
kinh tế xã hội và các dự án ở địa phương.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Trung tâm phát triển phụ nữ Hà Nội, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức
Tháng 7 năm 2015). Hội thảo tiến hành thảo luận về: vai trò của nữ trí thức trong
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; những thuận lợi, khó
khăn, những rào cản và các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ nữ trí thức; các
giải pháp hoàn thiện các chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, nhất
là nữ trí thức; nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ và
đối với đội ngũ trí thức. Hội thảo khẳng định: Đảng ta ngay từ khi ra đời đã xác
định phụ nữ, trong đó bao gồm nữ trí thức, có vai trò, vị trí to lớn, là lực lượng
quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng luôn
quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và xây dựng đội ngũ trí thức… Ngoài ra, Hội
thảo đã đề xuất 9 giải pháp nhằm phát triển đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trong
quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài với sự
nghiệp xây dựng quê hương" (do Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức tháng 8/2015 tại Hà Nội với sự tham
dự của gần 200 người, trong đó có hơn 60 đại biểu ở nước ngoài đến từ 17 nước
như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Australia... và hơn 100 trí thức và đại biểu, các
đại diện của các Bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương). Đây là lần đầu
tiên có một cuộc Hội thảo trao đổi về chính sách đối với trí thức kiều bào. Tại
15


Hội thảo, các cơ quan hữu quan trong nước thảo luận với các nhà khoa học, trí
thức trong và ngoài nước về tình hình chung của đội ngũ trí thức kiều bào, khả
năng, tiềm lực đóng góp của kiều bào đối với đất nước. Tại Hội thảo các trí thức
trong và ngoài nước trao đổi và đưa ra các gợi ý định hướng về ngành nghề mũi
nhọn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập hợp ý kiến;
đề xuất kiến nghị về những chính sách, biện pháp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
trí thức kiều bào đóng góp vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hà với bài "Vấn đề giới và sự phát triển của nữ
trí thức Việt Nam trong thế kỷ XXI" in trong (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ II Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại, Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2007). Trong bài viết này, tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của
phụ nữ trí thức Việt Nam trong lịch sử cũng như trong bối cảnh đổi mới và hội
nhập. Thông qua việc phân tích thực trạng, bài viết đã chỉ ra những vấn đề còn
tồn tại trong việc phát huy vai trò của nữ trí thức Việt Nam so với các nước trong
khu vực và thế giới. Bài viết chỉ ra hai mục tiêu cơ bản cần thực hiện ở Việt Nam
trong giai đoạn tới: khai thác trí tuệ nữ và thực hiện bình đẳng giới. Phần cuối của
bài viết, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết và thực hiện thắng lợi hai
mục tiêu cơ bản đã nêu trên. Bài viết đưa ra một số kiến nghị trong việc phát huy
vai trò của nữ trí thức Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị nghiên cứu hoàn thiện hệ thống lý luận về việc phát huy vai trò
của nữ trí thức nói riêng, trí thức Việt Nam nói chung trong tiến trình hội nhập

và phát triển.
Tác giả Lê Đình Cúc Bài trong bài viết "Trí thức Việt Nam - Những vấn
đề lịch sử để lại" (Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3,2008) cho rằng, để
xây dựng được đội ngũ trí thức đáp ứng được đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ
đổi mới phải tìm ra những yêu cầu, đòi hỏi và những tiêu chí cần có cho đội ngũ
trí thức Việt Nam. Tác giả lý giải vai trò của trí thức trong lịch sử (thời kỳ phong
kiến; giai đoạn cách mạng sau này); ưu và nhược điểm của GD&ĐT, vấn đề đặt
ra từ việc xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam. Bài viết
đưa ra những suy ngẫm có giá trị về xây dựng, sử dụng đội ngũ trí thức và trách
nhiệm của trí thức đối với dân tộc.
16


Tác giả Mạch Quang Thắng trong bài "Về vấn đề trí thức hiện nay" (Tạp
chí Giáo dục lý luận, số 4,2008) cho rằng trí thức là những người lao động trí óc,
họ tạo ra những sản phẩm cho xã hội bằng trí tuệ cao của mình. Tác giả phân
tích một số nét thực trạng trí thức Việt Nam từ hai phía (từ phía Đảng và Nhà
nước và từ phía bản thân tầng lớp trí thức) dưới hai nội dung (tích cực và hạn
chế), từ đó đưa ra một số ý kiến nhằm đổi mới nhận thức xây dựng tầng lớp trí
thức trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trần Đình Huỳnh với bài "Trí thức và cách đối đãi với trí thức của Hồ
Chí Minh" (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6,2008,) đã phân tích quan niệm của
Đảng và Hồ Chí Minh về trí thức và vai trò của trí thức đối với sự nghiệp cách
mạng. Tác giả phân tích cách thức đối đãi với trí thức của Hồ Chí Minh ở năm
nội dung cơ bản: phát triển tinh thần yêu nước và ý thức tự trọng dân tộc của trí
thức; trân trọng trí thức, tìm kiếm người tài đức là nghĩa vụ, bổn phận của người
lãnh đạo; tin dùng, mạnh dạn trao cho người trí thức những chức vụ xứng đáng
với tài năng và đức độ của họ; chăm lo đào tạo đội ngũ trí thức; giữ gìn danh giá
của người trí thức. Nghiên cứu của tác giả về trí thức và cách đối đãi với trí thức
của Hồ Chí Minh là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan chức năng trong

việc đào tạo, trọng dụng và sử dụng hiệu quả trí thức.
Bài "Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của trí thức khoa học xã hội
nước ta" của tác giả Nguyễn An Ninh (Website: dangcongsan.vn, ngày
11/07/2008) nhấn mạnh đến việc phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của trí
thức. Tác giả khẳng định rằng, đội ngũ trí thức khoa học xã hội luôn thể hiện
tinh thần sáng tạo, nhiệt huyết cách mạng trong việc xây dựng đường lối, chính
sách. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định sự cần thiết phải khuyến khích tính tích
cực chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay. Bài báo làm rõ
thêm tầm quan trọng của đội ngũ trí thức ở một khía cạnh đối với đất nước (tính
tích cực chính trị - xã hội); sự cần thiết phải nghiên cứu vai trò của trí thức trong
các lĩnh vực khác để thấy được bức tranh tổng thể về vai trò trí thức và phát huy
vai trò đó trong sự nghiệp cách mạng.
Bài "Mục tiêu chiến lược của Đảng trong giai đoạn mới và tính cấp bách
xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh" của tác giả Trần Ngọc Hiên (Tạp chí Cộng
17


sản, số 7/2008) phân tích mục tiêu chiến lược phát huy mạnh mẽ đội ngũ trí thức
của Đảng đến năm 2020; làm rõ hơn bối cảnh thực hiện mục tiêu chiến lược của
Đảng và yêu cầu xây dựng đội ngũ trí thức ngang tầm nhiệm vụ với thực tiễn đề
ra. Bài viết phân tích thực trạng đội ngũ trí thức và khẳng định vai trò quyết định
của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ trí thức của Việt
Nam. Bài báo đã tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn về mục tiêu chiến lược của
Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức; cung cấp thêm cơ sở lý luận để Đảng nghiên
cứu, hoàn thiện đường lối trong về xây dựng đội ngũ trí thức.
Bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của trí thức trong sự
nghiệp cách mạng" (www.xaydungdang.org.vn, ngày 30/06/2012) của tác giả Lê
Văn Điện làm rõ thêm những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Theo tác giả, Hồ
Chí Minh quan niệm rằng, trí thức là chiếc cầu nối giữa Đảng với các giai, tầng

trong xã hội, là lực lượng quan trọng hàng đầu của cách mạng; trí thức là người
đi đầu trong việc nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà; Đảng và
Nhà nước phải khai thác sức mạnh vô tận của nguồn lực trí thức trong đời sống
xã hội. Ngoài ra, bài viết cũng đưa ra một số khuyến nghị cơ bản cho chính đội
ngũ trí thức trong việc xây dựng, phát huy vai trò của tầng lớp mình trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.
Luận án tiến sĩ "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành
nền kinh tế tri thức ở Việt Nam" chuyên ngành Kinh tế chính trị (Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) của tác giả Lê Thị Hồng Điệp đã hệ thống
hóa và phát triển một số lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
gắn với quá trình hình thành nền kinh tế thị trường; đưa ra một số nội dung, các
tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực để hình
thành nền KTTT; xem xét kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
để thình thành nền KTTT ở một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới; đánh giá quá
trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thình thành nền KTTT ở Việt
Nam từ năm 2011 đến nay theo những tiêu chí và nội dung xác định; từ đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp phát triển nhân lực chất lượng cao để hình
thành nền KTTT ở Việt Nam. Luận án góp phần làm phong phú lý luận về phát
18


triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT thông qua những phân tích
về nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng
này; đánh giá tương đối toàn diện thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để hình thành nền KTTT giai đoạn 2001 -2007; đề xuất một số giải
pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền KTTT ở Việt
Nam trong tương lai. Những đề xuất của luận án góp phần tìm ra con đường,
cách thức hiệu quả để nguồn nhân lực chất lượng cao thực sự trở thành lực lượng
tiên phong trên hành trình hiện thực hóa nền KTTT ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ Triết học "Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam

trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2014) của tác
giả Nguyễn Thị Thanh Hà đã trình bày lý luận chung về trí thức giáo dục đại học
và nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam; phân tích thực trạng vai trò của
đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay; đề xuất một số
quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức đại học Việt
Nam, đây là cơ sở để ngành giáo dục và các ngành khác nghiên cứu, tham khảo
từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách của mình đối với đội ngũ trí thức. Đồng
thời, luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nghiên cứu sinh
về vấn đề này.
Luận án tiến sĩ Triết học "Tri thức khoa học trong quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay" (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2015) của tác giả Nguyễn Thị
Ngọc Thúy làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung về tri thức khoa học và KTTT;
những tác động của tri thức khoa học để phát triển KTTT; thực trạng phát triển tri
thức khoa học ở Việt Nam; nguyên nhân của thực trạng đó; những vấn đề đặt ra đối
với quá trình phát triển tri thức khoa học ở Việt Nam hiện nay; kinh nghiệm phát
triển tri thức khoa học của các nước phát triển và rút ra bài học kinh nghiệm cho
19


Việt Nam. Tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp cơ bản là: nhóm giải pháp về giáo
dục đào tạo; nhóm giải pháp về phát triển thị trường khoa học công nghệ; nhóm giải
pháp phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ICT; nhóm giải pháp về cơ chế,
chính sách. Luận án hệ thống hóa sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về tri thức khoa
học và KTTT, cũng như tính tất yếu phải định hướng xây dựng, phát triển nền

KTTT ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp cơ bản của luận án đề xuất nhằm góp
phần xây dựng nền KTTT ở Việt Nam, đây sẽ là cơ sở lý luận để hoạch định các
chiến lược, chính sách phát triển trong thời đại mới.
Luận án tiến sĩ Triết học "Xây dựng đội ngũ trí thức tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2015) của
tác giả Trương Văn Tuấn phân tích: khái niệm, đặc điểm và vai trò của trí thức
đối với sự phát triển xã hội; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức; quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH; thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, phát triển
đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH. Luận án
làm rõ các nội dung: (i) Tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức ở Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH; những thành tựu,
hạn chế và những yếu tố tác động đến trí thức và công tác xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức; một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ
trí thức Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH; mục tiêu, phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở Thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020. Luận án góp phần làm
rõ thêm những vấn đề lý luận chung về trí thức và vai trò của trí thức đối với sự
phát triển xã hội; khẳng định tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí
thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự
nghiệp CNH, HĐH ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Luận án tiến sĩ Triết học "Vai trò của đội ngũ công nhân trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Đại học Khoa
20


×