Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Kế toán quản trị chi phí tại công ty xi măng COSEVCO 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.09 KB, 108 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đã mang đến cho các
doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội mới để phát triển, nhưng đồng thời chứa đựng
trong lòng nó nhiều thách thức, mà đòi hỏi các DN trong nước cần phải thay đổi
cách nhìn nhận và phải tạo được các chiến lược kinh doanh phù hợp. Để tồn tại và
phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải tận dụng mọi
cơ hội, huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để
đứng vững, chiến thắng trong cạnh tranh và không ngừng phát triển nhằm đạt được
mục tiêu lợi nhuận. Mọi doanh nghiệp luôn phải tối ưu hoá hoạt động, không ngừng
nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở chiến lược, sách lược quản trị doanh
nghiệp đúng đắn, kịp thời để tận dụng cơ hội, hạn chế các rủi ro, hướng tới tồn tại
và phát triển.
Ở nước ta, trước những năm 1990, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
các đơn vị không phải chịu sức ép cạnh tranh nên không thấy nhu cầu cần phải có
hệ thống kế toán quản trị. Cùng với sự đổi mới nền kinh tế sang cơ chế thị trường,
khái niệm về kế toán quản trị và kế toán quản trị chi phí xuất hiện tại nước ta từ đầu
những năm 1990, đến ngày 12/6/2006 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
53/2006/TT-BTC về việc “Hướng dẫn áp dụng KTQT trong doanh nghiệp”, nhưng
việc triển khai, áp dụng cụ thể vào từng loại hình doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn
chế. Thông tin chi phí do KTQT cung cấp chủ yếu phục vụ cho yêu cầu quản lý
doanh nghiệp, nó là bộ não điều khiển toàn bộ hoạt động SXKD của doanh nghiệp,
là cơ sở để nhà quản lý đưa ra các quyết định tối ưu. Chính vì vậy việc đổi mới và
hoàn thiện KTQT chi phí nói riêng và KTQT nói chung là yêu cầu cấp thiết và tất
yếu.
Ngành xi măng là một trong số các ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Muốn tồn tại và phát triển, yêu cầu khắt khe đặt ra cho các doanh
nghiệp xi măng là phải kiểm soát được chi phí và đảm bảo chất lượng sản phẩm
theo tiêu chuẩn của thị trường. Để thực hiện được điều này, mỗi doanh nghiệp cần




2

tổ chức thông tin nội bộ hoàn chỉnh để cung cấp thông tin cho lãnh đạo nhằm nâng
cao chất lượng quản lý. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu về xây dựng cơ bản ngày càng tăng cao và đô thị
hoá nên nhu cầu xi măng cũng tăng theo, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp xi
măng nói chung và Công ty Xi măng COSEVCO 19 nói riêng, tuy nhiên chính nó
cũng đặt ra nhiều thách thức lớn.
Để giải quyết vấn đề này, cần có sự trợ giúp đắc lực của KTQT trong việc
cung cấp thông tin liên quan đến tình hình SXKD của Công ty. KTQT chi phí đóng
vai trò quan trọng trong công tác quản lý kinh tế tài chính ở các doanh nghiệp kinh
doanh xi măng. Do vậy, vấn đề hoàn thiện KTQT chi phí trong Công ty Xi măng
COSEVCO 19 là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu mang tính khách quan cả về lý luận và thực tiễn,
tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Kế toán quản trị chi phí tại Công ty Xi măng
COSEVCO 19” để làm luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề thuộc về lý luận của tổ chức kế toán quản trị chi phí
loại hình sản xuất trong việc phục vụ công tác quản trị doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng của tổ chức kế toán quản trị chi phí tại Công ty Xi
măng COSEVCO 19.
- Vận dụng lý luận để đưa ra giải pháp hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị chi
phí, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị tăng cường năng lực cạnh tranh của
Công ty Xi măng COSEVCO 19.
3. Câu hỏi nghiên cứu:
- Lập dự toán chi phí sản xuất tại Công ty Xi măng COSEVCO 19 được tổ
chức thực hiện như thế nào?
- Việc tổ chức thu thập thông tin chi phí phục vụ cho KTQT tại Công ty Xi

măng COSEVCO 19 có đạt hiệu quả không?
- Công ty Xi măng COSEVCO 19 đã thực hiện kiểm soát chi phí tại đơn vị
như thế nào?


3

- Các giải pháp đưa ra để khắc phục những hạn chế trong KTQT chi phí tại
Công ty Xi măng COSEVCO 19.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tổ
chức KTQT chi phí tại Công ty Xi măng COSEVCO 19. Phương hướng và giải
pháp hoàn thiện tổ chức KTQT chi phí trong Công ty Xi măng COSEVCO 19.
- Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề thuộc tổ chức kế toán quản trị chi phí
trong Công ty Xi măng COSEVCO 19.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp lý luận cơ bản của
khoa học kinh tế làm phương pháp chủ đạo nghiên cứu. Ngoài ra đề tài còn sử dụng
hệ thống phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và kiểm chứng.
6. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của đề tài:
* Về lý luận: Hệ thống hoá và hoàn thiện những vấn đề lý luận về tổ chức kế
toán quản trị chi phí với việc tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp SXKD.
* Về thực tiễn: Thông qua kết quả nghiên cứu, đề tài đưa ra các giải pháp
hoàn thiện phù hợp với thực tế cho việc tổ chức kế toán quản trị chi phí Công ty Xi
măng COSEVCO 19.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh.
Chương 2 : Thực trạng kế toán quản trị chi phí tại Công ty Xi măng

COSEVCO 19.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi phí ở Công ty
Xi măng COSEVCO 19.


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1. Tổng quan về kế toán quản trị
1.1.1. Khái niệm về kế toán quản trị
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kế
toán – một môn khoa học cũng có sự thay đổi phát triển không ngừng về nội dung,
phương pháp nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất xã hội. Vậy kế
toán là nghệ thuật quan sát, ghi chép, phân loại và tổng hợp các hoạt động của tổ
chức và trình bày kết quả của chúng nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra
các quyết định về kinh tế, chính trị, xã hội và đánh giá hiệu quả của một tổ chức.
Khi nền sản xuất xã hội phát triển cao, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc các nhà
quản trị DN phải quan tâm đến thông tin cho quá trình ra quyết định, mà thông tin
hàng đầu là thông tin về chi phí của hoạt động kinh doanh. Từ đó hình thành nên bộ
phận kế toán chi phí, bộ phận này chủ yếu cung cấp thông tin về chi phí cho các nhà
quản trị để sử dụng trong nội bộ. Thông tin mà kế toán cung cấp rất đa dạng và mục
đích sử dụng thông tin kế toán của các đối tượng cũng khác nhau. Sự khác nhau đó
là tiêu thức để chia hệ thống thông tin kế toán thành hai bộ phận: Một bộ phận
chuyên cung cấp các thông tin cho các đối tượng bên ngoài gọi là KTTC và bộ phận
chuyên cung cấp các thông tin theo yêu cầu của các nhà quản trị trong nội bộ gọi là
KTQT. Môi trường cạnh tranh ngày càng tăng, hoạt động SXKD của DN càng phát
triển và đa dạng thì vai trò của KTQT ngày càng được mở rộng.
Vậy KTQT là gì? Theo Luật Kế toán Việt Nam ở khoản 3 Điều 4: “KTQT là

việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán” [6]. KTQT là
bộ phận kế toán cung cấp thông tin cho những nhà quản lý tại DN thông qua các
báo cáo kế toán nội bộ. Khái niệm về KTQT được Hiệp hội Kế toán Mỹ năm 1982
định nghĩa: “KTQT là quá trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo
biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để


5

lập kế hoạch, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh
nghiệp, đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản
này” [5]. Có nhiều định nghĩa khác nhau về KTQT nhưng nếu đứng trên góc độ sử
dụng thông tin phục vụ cho chức năng quản lý thì “KTQT là một chuyên ngành kế
toán thực hiện việc ghi chép, đo lường, tính toán, thu thập, tổng hợp, xử lý và cung
cấp thông tin kinh tế có thể định lượng nhằm phục vụ chủ yếu cho các nhà quản trị
DN trong quá trình hoạch định, kiểm soát và ra quyết định kinh doanh” [9]. Các DN
đều thống nhất nhau về việc nhìn nhận bản chất của KTQT là một bộ phận cấu
thành không thể tách rời của hệ thống kế toán và có nhiệm vụ tổ chức thông tin kế
toán trong DN.
Những người bên trong DN rất đa dạng, gọi chung là các nhà quản lý, nhưng
nhu cầu thông tin của họ phản ánh một mục đích chung là phục vụ quá trình ra
quyết định nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do nhu cầu thông tin nội bộ rất đa dạng trong
các loại hình DN nên các báo cáo nội bộ do KTQT cung cấp không mang tính tiêu
chuẩn như báo cáo tài chính. KTQT đặt trọng tâm giải quyết các vấn đề quản trị của
DN. Vì vậy, KTQT phải thiết kế các thông tin kế toán sao cho nhà quản trị có thể
dùng vào việc thực hiện các chức năng quản trị.
Nhìn chung, KTQT có mục đích bổ sung KTTC nhưng đây chỉ là hai hệ
thống con của một hệ thống kế toán, cả hai nhằm mục đích mô hình hoá thông tin
kinh tế của DN. Thật ra, mục đích chủ yếu của KTTC nhằm cung cấp thông tin đã

xảy ra cho người sử dụng bên ngoài của DN trong khi KTQT quan tâm đến người
sử dụng bên trong của DN; thông tin của KTTC phản ánh những sự kiện kinh tế tài
chính đã xảy ra còn thông tin của KTQT phản ánh những sự kiện đã xảy ra và sắp
xảy ra. Như vậy, chứng từ kế toán là những bằng chứng lịch sử không thể thiếu đối
với KTTC nhưng là một yêu cầu không bắt buộc đối với KTQT. Điều này dẫn đến
thông tin KTQT không đòi hỏi sự chính xác, khách quan như KTTC mà quan tâm
nhiều đến tính linh hoạt và kịp thời. Nhiều tác giả nhấn mạnh sự đối nghịch này
bằng cách nhấn mạnh trạng thái đã xảy ra của KTTC trong khi KTQT hướng đến
việc ra quyết định, có nghĩa là KTQT sẽ hướng đến tương lai của DN.


6

1.1.2. Đối tượng của KTQT
Cả hai KTTC và KTQT đều cùng mục đích cung cấp thông tin phục vụ cho
công tác quản lý nhưng lại có đối tượng nghiên cứu khác nhau. Nếu đối tượng
nghiên cứu của KTTC tài sản, nguồn vốn và sự vận động của tài sản trong các DN
thì KTQT là một bộ phận của kế toán nên trước hết cũng phải quan tâm đến tài sản.
Tuy nhiên, KTQT đặt trọng tâm vào việc xem xét quá trình vận động của tài sản
trong quá trình DN tạo ra giá trị. Như vậy, đối tượng của KTQT phải là chi phí
trong mối quan hệ đến việc hình thành giá trị.
Trong quá trình kinh doanh của DN, chi phí thường xuyên phát sinh trong
nội bộ DN và chịu sự chi phối của nhà quản trị, mọi quyết định của DN đều liên
quan đến việc sử dụng tài nguyên, đến chi phí của DN trong việc hình thành giá trị
[1]. Điều này càng thấy rõ hơn khi xem xét hệ thống thông tin kế toán thì thông tin
chủ yếu nhất mà KTQT xử lý, cung cấp cho các nhà quản trị trong hoạch định, tổ
chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá là thông tin về chi phí.
Chi phí được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để có thể cung cấp những
thông tin phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc xem xét chi phí trong
mối quan hệ với khối lượng hay mức độ hoạt động và với lợi nhuận có thể được

xem là đối tượng chủ yếu của KTQT. Như vậy, các loại chi phí đặt trong các mối
quan hệ khác nhau và quan hệ với lợi ích mang lại cả trong quá khứ, hiện tại và
tương lai là đối tượng cụ thể của KTQT. Không những thế, vì KTQT quan tâm đến
khía cạnh của quản trị là chủ yếu do đó quá trình kiểm soát, kiểm tra điều chỉnh
trong quản trị cần thiết phải có cả thông tin về tài chính cũng như phi tài chính nên
đây cũng là một đối tượng cụ thể của KTQT.
1.1.3. Vai trò của KTQT với các chức năng quản lý
Kế toán quản trị thực hiện vai trò cung cấp thông tin cho các nhà quản trị DN
thông qua các chức năng quản lý cơ bản như hoạch định, tổ chức, kiểm soát, đánh
giá và ra quyết định. Hoạt động quản lý là một quá trình khép kín từ khâu lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, đến kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế


7

hoạch. Vậy KTQT đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin chi phí
phục vụ cho các chức năng quản trị, cụ thể theo sơ đồ 1.1.
Hoạch định
Lập dự toán

Phân tích

Tổ chức
thực hiện

Đánh giá

Kiểm soát,
đánh giá


Hỗ trợ ra
quyết định

Kiểm tra

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ thể hiện chức năng quản trị
Để SXKD của DN có thể tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, các DN
phải thiết lập các kế hoạch. Mọi hoạt động của DN đều được tiến hành theo kế
hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đã xây dựng. Trong đó, việc hoạch định và lập
dự toán chi phí giữ vai trò hết sức quan trọng.
- Cung cấp thông tin cho quá trình hoạch định và lập dự toán
Hoạch định là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra các bước,
phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Để hoạch định và xây dựng các kế
hoạch, nhà quản trị phải dự toán nhằm tiên liệu trước mục tiêu, phương pháp, thủ
tục trên cơ sở khoa học. Trong công việc này nhà quản trị phải liên kết các mục tiêu
cụ thể lại với nhau và chỉ rõ cách huy động, sử dung nguồn lực có sẵn, chức năng
này chỉ có thể được thực hiện tốt, có hiệu quả và có tính khả thi cao nếu nó được
xây dựng trên cơ sở các thông tin phù hợp, hợp lý do bộ phận KTQT cung cấp gồm
thông tin về tổ chức, về định mức, về chi phí tiêu chuẩn, các thông tin về KTTC,
thống kê cũng như kỹ thuật tính toán ước tính để phục vụ cho việc lập dự toán ở
DN. Các dự toán này đóng vai trò hạt nhân quan trọng trong việc thực hiện các chức
năng hoạch định, kiểm tra, kiểm soát của quản trị.


8

- Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện
Hoạch định và lập dự toán là những định hướng cho quá trình tổ chức thực
hiện. Chức năng tổ chức thực hiện bao gồm việc thiết lập cơ cấu tổ chức và truyền
đạt thông tin các kế hoạch đến những cá nhân có trách nhiệm trong tuyến quản lý để

thực hiện kế hoạch đó. Thực hiện chức năng này, nhà quản trị phải liên kết giữa các
bộ phận, giữa các cá nhân nhằm huy động và kết hợp các nguồn lực sẵn có của DN
lại với nhau để có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra trong quá trình hoạch định
một cách hiệu quả. Vì thế, nhà quản trị phải cần các thông tin khác nhau do nhiều
bộ phận cung cấp, trong đó KTQT sẽ cung cấp chủ yếu liên quan đến kinh tế, tài
chính. KTQT sẽ dự toán nhiều tình huống khác nhau của các phương án khác nhau
để nhà quản trị xem xét đề ra các quyết định trong quá trình tổ chức thực hiện cũng
như điều hành các hoạt động SXKD theo các mục tiêu chung.
- Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra và đánh giá
Sau khi triển khai thực hiện các kế hoạch, công việc kiểm tra hoạt động kinh
doanh từ trước, trong và sau quá trình kinh doanh có vị trí rất quan trọng. Chức
năng kiểm tra là quá trình so sánh, xem xét giữa kết quả thực tế với dự toán được
lập nhằm điều chỉnh dự toán và đánh giá thực hiện. Thông qua kết quả so sánh cho
thấy sự khác nhau giữa thực hiện với dự toán đã lập, tìm ra các nguyên nhân ảnh
hưởng và chỉ ra các vấn đề còn tồn tại cần giải quyết để có thể điều chỉnh quá trình
thực hiện.
- Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định
Ra quyết định là một công việc thường xuyên ảnh hưởng đến mọi hoạt động
của DN. Với chức năng hỗ trợ cho việc ra quyết định, thông tin KTQT là thông tin
chủ yếu để phân tích các khả năng khi giải quyết một vấn đề. Lý do là mỗi khả năng
giải quyết vấn đề đều có những chi phí và lợi ích riêng có thể đo lường, qua đó các
nhà quản lý sẽ sử dụng để quyết định khả năng nào là tốt nhất. Các DN thường
đứng trước nhiều phương án khác nhau. Mỗi phương án gắn liền với mỗi tình
huống, với số lượng, chủng loại, các khoản mục chi phí, thu nhập khác nhau liên
quan, đòi hỏi KTQT cũng phải được tổ chức để có thể cung cấp các thông tin cụ thể


9

này. Quá trình ra quyết định của nhà quản trị thường là việc tối ưu với hiệu quả cao

nhất mà rủi ro nhỏ nhất. Ra quyết định tự thân nó không là một chức năng riêng biệt
mà trong quá trình thực hiện các chức năng trên đều đòi hỏi phải ra quyết định. Với
chức năng này KTQT phải có công cụ thích hợp giúp các nhà quản trị phân biệt
được các thông tin thích hợp và không thích hợp nhằm xác định thông tin phù hợp
theo từng phương án. Đây là chức năng quan trọng và xuyên suốt trong quản trị
DN.
1.2. Khái quát KTQT chi phí trong các DN SXKD
1.2.1. Bản chất kế toán quản trị chi phí
Trong quá trình kinh doanh của DN, chi phí thường xuyên phát sinh, gắn liền
với mọi hoạt động và có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Trên giác độ
quản lý, chi phí phần lớn phát sinh trong nội bộ DN và chịu sự chi phối chủ quan
của nhà quản trị, do vậy, kiểm soát và quản lý tốt chi phí là mối quan tâm hàng đầu
của họ. Chi phí có thể hiểu là giá trị của các nguồn lực chi ra tiêu dùng trong hoạt
động SXKD của tổ chức để đạt được một mục đích nào đó. Bản chất của chi phí là
mất đi để đổi lấy một kết quả có thể dưới dạng vật chất như tiền, nhà xưởng, sản
phẩm,… hoặc không có dạng vật chất như kiến trúc, dịch vụ được phục vụ [1]. Như
vậy, chi phí được định nghĩa là “giá trị tiền tệ của các khoản hao phí bỏ ra nhằm tạo
ra các loại tài sản, hàng hoá hoặc các dịch vụ”. Chi phí được hiểu theo quan điểm
KTQT là “dòng phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động hàng ngày khi tổ chức thực
hiện, kiểm tra, ra quyết định, chi phí cũng có thể là dòng phí tổn ước tính để thực
hiện dự án, những phí tổn mất đi do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh
doanh”.
Kế toán chi phí là giai đoạn đầu của sự phát triển KTQT chi phí, kế toán chi
phí gồm việc tập hợp, phân loại, tính giá theo yêu cầu nhất định của KTTC và
KTQT nhằm cung cấp thông tin kế toán mà chủ yếu là thông tin về chi phí cho các
nhà quản trị. Mặc dù đều nhằm mục đích thông tin cho các nhà quản trị nhưng có sự
khác nhau về mục đích và phạm vi giữa hai loại kế toán này. Nếu như thông tin mà
KTTC cung cấp là những thông tin quá khứ được xử lý từ các tài liệu lịch sử, thông



10

qua các báo cáo chi phí và bảng tính giá thành nhằm theo dõi phản ánh tình hình
thực hiện giá thành thì thông tin KTQT chi phí cung cấp bao gồm cả những thông
tin quá khứ và những thông tin có tính dự báo thông qua việc lập kế hoạch và dự
toán trên cơ sở định mức chi phí gồm định mức nhằm kiểm soát chi phí thực tế.
KTQT chi phí sẽ trả lời chi phí là bao nhiêu, biến động như thế nào khi có sự thay
đổi của một hay một số nhân tố nào đó, ai sẽ là người chịu trách nhiệm giải thích
những thay đổi bất lợi của chi phí và giải pháp được đưa ra để điều chỉnh một cách
kịp thời. Điều này cho thấy KTQT chi phí mang nặng bản chất của KTQT hơn là kế
toán chi phí thuần tuý.
Do đó, KTQT không nhận thức chi phí theo quan điểm của KTTC mà phải
được nhận diện theo nhiều phương diện khác nhau để đáp ứng nhu cầu thông tin
trong hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm soát và ra quyết định. KTQT chi phí nhấn
mạnh đến việc dự báo của thông tin và trách nhiệm của các nhà quản trị các cấp
nhằm gắn trách nhiệm của họ với chi phí phát sinh qua hệ thống thông tin chi phí
được cung cấp theo các trung tâm chi phí được hình thành trong đơn vị. Như vậy,
KTQT chi phí là một bộ phận của KTQT thực hiện xử lý và cung cấp các thông tin
về chi phí nhằm thực hiện chức năng quản trị. Từ đó có thể rút ra bản chất của
KTQT chi phí như sau:
- KTQT chi phí không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về các
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép, hệ thống
hoá trong sổ kế toán mà còn xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc lập
các dự toán, quyết định các phương án kinh doanh.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong
phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của DN. Những thông tin đó có ý nghĩa với những
bộ phận, những người điều hành, quản lý DN.
- KTQT chi phí là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một bộ
phận không thể thiếu được để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý.



11

1.2.2. Phân loại chi phí trong các DN sản xuất
Chi phí là một trong những yếu tố trung tâm của công tác quản lý hoạt động
SXKK của DN, nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, tài sản, sự tồn tại và sự phát
triển của DN. Nhận thức tiên liệu một cách đúng đắn, khoa học về chi phí là tiền đề
để nhà quản trị đưa ra các quyết định hợp lý. Để quản lý được chi phí, cần phải làm
rõ các cách phân loại chi phí khác nhau trong KTQT vì mỗi cách phân loại chi phí
đều cung cấp những thông tin dưới nhiều góc độ để nhà quản trị ra các quyết định
thích hợp [3].
1.2.2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí phát sinh trong các DN sản xuất, xét theo từng hoạt động có chức
năng khác nhau trong quá trình SXKD mà chúng phục vụ, được chia thành hai loại
lớn: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
a. Chi phí sản xuất
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu lao động
và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Chi phí sản xuất bao gồm ba khoản mục:
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm các loại nguyên liệu và vật liệu sản
xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm như: NVL chính dùng để cấu tạo nên
thực thể chính của sản phẩm và các vật liệu phụ khác có tác dụng kết hợp với NVL
chính để hoàn chỉnh sản phẩm về mặt chất lượng và hình dáng.
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương và những khoản trích theo
lương phải trả cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Chi phí này có
thể nhận diện cho từng sản phẩm dựa trên định mức hao phí lao động cho từng sản
phẩm nên cũng được tính thẳng cho từng sản phẩm.
Chi phí sản xuất chung là các chi phí phục vụ và quản lý quá trình sản xuất
sản phẩm phát sinh trong phạm vi các phân xưởng. Khoản mục chi phí này bao

gồm: chi phí vật liệu phục vụ quá trình sản xuất hoặc quản lý sản xuất, tiền lương
và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao,


12

sửa chữa và bảo trì máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ
sản xuất và quản lý ở phân xưởng,…
b. Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm liên quan đến
quá trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn DN. Thuộc
loại chi phí này gồm có hai khoản mục chi phí:
Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh phục vụ cho khâu tiêu thụ
sản phẩm. Có thể kể đến các chi phí như: chi phí vận chuyển, bốc dỡ thành phẩm
giao cho khách hàng, chi phí bao bì, khấu hao các phương tiện vận chuyển, tiền
lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, chi phí tiếp thị quảng cáo,…
Chi phí quản lý DN bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho công tác tổ chức
và quản lý quá trình SXKD nói chung trên giác độ toàn DN. Khoản mục này bao
gồm các chi phí như: chi phí văn phòng, tiền lương và các khoản trích theo lương
của nhân viên quản lý DN, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho quản lý DN, các
chi phí dịch vụ mua ngoài khác,…
Cách phân loại này giúp xác định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí
trong quá trình hoạt động SXKD ở DN, đồng thời cung cấp thông tin có hệ thống
cho việc lập các báo cáo tài chính.
1.2.2.2. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với lợi nhuận xác
định từng kỳ
Khi xem xét cách tính toán và kết chuyển các loại chi phí để xác định lợi tức
trong từng kỳ kế toán, chi phí sản xuất kinh doanh trong các DN sản xuất được chia
làm hai loại: chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất

sản phẩm, do vậy các chi phí này kết hợp tạo nên giá trị của sản phẩm hình thành
qua giai đoạn sản xuất (được gọi là giá thành sản xuất hay giá thành công xưởng).
Xét theo mối quan hệ với việc xác định lợi tức trong từng kỳ kế toán, chi phí sản
phẩm được tính toán, kết chuyển để xác định lợi tức trong kỳ tương ứng với khối
lượng sản phẩm đã được tiêu thụ trong kỳ đó. Chi phí của khối lượng sản phẩm tồn


13

kho chưa được tiêu thụ vào cuối kỳ sẽ được lưu giữ như là giá trị tồn kho và được
kết chuyển để xác định lợi tức ở các kỳ sau khi chúng được tiêu thụ. Chi phí sản
phẩm còn được gọi là chi phí tồn kho.
Chi phí thời kỳ gồm các khoản mục chi phí còn lại ngoài các khoản mục chi
phí thuộc chi phí sản phẩm, đó là chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN và chi phí tài
chính. Các chi phí thời kỳ phát sinh ở kỳ kế toán nào được xem là có tác dụng phục
vụ cho quá trình kinh doanh của kỳ đó, do vậy chúng được tính toán kết chuyển hết
để xác định lợi tức ngay trong kỳ mà chúng phát sinh. Chi phí thời kỳ còn được gọi
là chi phí không tồn kho.
1.2.2.3. Phân loại chi phí theo các ứng xử của chi phí
Có rất nhiều cách phân loại chi phí trong các DN sản xuất, song tiêu thức
phân loại quan trọng nhất và có nhiều ứng dụng trong KTQT chi phí là phân loại chi
phí theo cách ứng xử. Theo cách phân loại này chi phí sản xuất trong các DN được
chia thành ba loại: chi phí khả biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp.
a. Chi phí khả biến
Chi phí khả biến là các chi phí, xét về lý thuyết, có sự thay đổi tỷ lệ với mức
độ hoạt động. Chi phí khả biến chỉ phát sinh khi có các hoạt động xảy ra. Tổng số
chi phí khả biến sẽ tăng (giảm) tương ứng với sự tăng (giảm) của mức độ hoạt động,
nhưng chi phí khả biến tính theo đơn vị của mức độ hoạt động thì không thay đổi.
Trong các DN sản xuất, các khoản mục chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp và chi
phí nhân công trực tiếp thể hiện rõ nhất đặc trưng của chi phí khả biến. Ngoài ra,

chi phí khả biến còn bao gồm các chi phí khác thuộc khoản mục chi phí sản xuất
chung (như các chi phí vật liệu phụ, chi phí động lực, chi phí lao động gián tiếp
trong chi phí sản xuất chung) hoặc thuộc khoản mục chi phí bán hàng và chi phí
quản lý DN (như chi phí vật liệu, phí hoa hồng, phí vận chuyển,…). Chi phí khả
biến còn được gọi là chi phí biến đổi hoặc biến phí. Xét theo cách ứng xử khác
nhau, chi phí khả biến còn được chia thành hai loại: chi phí khả biến thực thụ và chi
phí khả biến cấp bậc.


14

Chi phí khả biến thực thụ là các chi phí khả biến có sự biến đổi tỷ lệ với mức
độ hoạt động.
Chi phí khả biến cấp bậc là các chi phí khả biến không có sự biến đổi liên tục
theo sự thay đổi liên tục của mức độ hoạt động. Các chi phí này chỉ biến đổi khi các
hoạt động đã có sự biến đổi đạt đến một mức độ cụ thể nào đó.
b. Chi phí bất biến
Chi phí bất biến là những chi phí, xét về lý thuyết, không có sự thay đổi theo
các mức độ hoạt động đạt được. Vì tổng số chi phí bất biến là không thay đổi cho
nên, khi mức độ hoạt động tăng thì chi phí bất biến tính theo đơn vị các mức độ
hoạt động sẽ giảm và ngược lại. Trong các DN sản xuất, các loại chi phí bất biến
thường gặp là chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương nhân viên quản lý,
chi phí quảng cáo,… Chi phí bất biến còn được gọi là chi phí cố định hay định phí.
Xét ở khía cạnh quản lý chi phí bất biến được chia thành hai loại: chi phí bất biến
bắt buộc và chi phí bất biến không bắt buộc.
Chi phí bất biến bắt buộc là chi phí phát sinh nhằm tạo ra các năng lực hoạt
động cơ bản của DN, thể hiện rõ nhất là chi phí khấu hao tài sản cố định hay tiền
lương nhân viên quản lý ở các phòng ban chức năng. Vì là tiền đề tạo ra năng lực
hoạt động cơ bản nên các chi phí bất biến bắt buộc gắn liền với các mục tiêu dài hạn
của DN, chúng biểu hiện tính chất cố định khá vững chắc và ít chịu sự tác động của

các quyết định trong quản lý ngắn hạn.
Khác với các chi phí bất biến bắt buộc, các chi phí bất biến không bắt buộc
thường được kiểm soát theo các kế hoạch ngắn hạn như chi phí quảng cáo, chi phí
nghiên cứu phát triển, chi phí đào tạo nhân viên,… và chúng phụ thuộc nhiều vào
chính sách quản lý hằng năm của nhà quản trị. Do vậy, loại chi phí này còn được
gọi là chi phí bất biến tuỳ ý hay chi phí bất biến quản trị.
c. Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm các yếu tố
chi phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi phí
hỗn hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến, và khi mức độ hoạt động tăng lên, chi


15

phí hỗn hợp sẽ biến đổi như đặc điểm của chi phí khả biến. Hiểu theo một cách
khác, phần bất biến trong chi phí hỗn hợp thường là bộ phận chi phí cơ bản để duy
trì các hoạt động ở mức độ tối thiểu, còn phần khả biến là bộ phận chi phí sẽ phát
sinh tỷ lệ với mức độ hoạt động tăng thêm. Trong các DN sản xuất, chi phí hỗn hợp
cũng chiếm một tỷ lệ khá cao trong các loại chi phí như: chi phí điện thoại, chi phí
bảo trì máy móc thiết bị,… Nhằm phục vụ việc lập kế hoạch, phân tích và quản lý
chi phí, cần phải phân tích các chi phí hỗn hợp thành yếu tố khả biến và yếu tố bất
biến.
Cách phân loại này giúp các nhà quản trị nhận biết sự thay đổi của chí phí
khi mức độ hoạt động thay đổi, nhận biết thông tin về chi phí và tính toán kết quả
nhanh chóng để lập dự toán chi phí tốt hơn, phù hợp với thực tế và có tính khả thi
hơn.
1.2.2.4. Các cách phân loại chi phí sử dụng trong kiểm tra và ra quyết định
Để phục vụ cho việc kiểm tra và ra quyết định trong quản lý, chi phí của DN
còn được xem xét ở nhiều khía cạnh khác. Nổi bậc nhất là việc xem xét trách nhiệm
của các cấp quản lý đối với các loại chi phí phát sinh, thêm nữa, các nhà quản lý

nên nhìn nhận đúng đắn sự thích đáng của các loại chi phí khác nhau phục vụ cho
việc phân tích, so sánh để ra quyết định lựa chọn phương án tối ưu trong các tình
huống.
a. Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
Một khoản chi phí được xem là chi phí có thể kiểm soát được hoặc là chi phí
không kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là tuỳ thuộc vào khả năng cấp quản
lý này có thể ra quyết định để chi phối, tác động đến khoản chi phí đó hay là không.
Như vậy, nói đến khía cạnh quản lý chi phí bao giờ cũng gắn liền với một cấp quản
lý nhất định: khoản chi phí mà ở một cấp quản lý nào đó có quyền ra quyết định để
chi phối nó thì được gọi là chi phí kiểm soát được (ở cấp quản lý đó), nếu ngược lại
thì là chi phí không kiểm soát được.
Chi phí không kiểm soát được ở bộ phận nào đó thường thuộc hai dạng: các
khoản chi phí phát sinh ở ngoài phạm vi quản lý của bộ phận (như các chi phí phát


16

sinh ở các bộ phận sản xuất hoặc thu mua là chi phí không kiểm soát được đối với
người quản lý bộ phận bán hàng), hoặc là các khoản chi phí phát sinh thuộc phạm vi
hoạt động của bộ phận nhưng thuộc quyền chi phối và kiểm soát từ cấp quản lý cao
hơn (như chi phí khấu hao các phương tiện kho hàng đối với người quản lý bộ phận
bán hàng). Xem xét chi phí ở khía cạnh kiểm soát có ý nghĩa lớn trong phân tích chi
phí và ra quyết định xử lý, góp phần thực hiện tốt kế toán trách nhiệm trong DN.
b. Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
Trong các DNSX, các khoản chi phí phát sinh có liên quan trực tiếp đến quá
trình sản xuất sản phẩm hoặc thực hiện các đơn đặt hàng, do vậy có thể tính trực
tiếp cho từng loại sản phẩm hay từng đơn đặt hàng và được gọi là chi phí trực tiếp.
Ngược lại, các khoản chi phí phát sinh cho mục đích phục vụ và quản lý chung, liên
quan đến việc sản xuất và tiêu thụ nhiều loại sản phẩm, nhiều đơn đặt hàng cần
được tiến hành phân bổ cho các đối tượng sử dụng chi phí theo các tiêu thức phân

bổ phù hợp, ta gọi là chi phí gián tiếp. Thông thường, khoản mục chi phí NVLTT và
chi phí NCTT là các khoản mục chi phí trực tiếp, còn các khoản mục chi phí SXC,
chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN là chi phí gián tiếp. Cách phân loại chi phí
này giúp ích cho việc xây dựng các phương pháp hoạch toán và phân bổ thích hợp
cho từng loại chi phí.
c. Chi phí lặn
Khái niệm chi phí lặn chỉ nảy sinh khi ta xem xét các chi phí gắn liền với các
phương án hành động liên quan đến tình huống cần ra quyết định lựa chọn. Chi phí
lặn là khoản chi phí đã bỏ ra trong quá khứ và sẽ thể hiện ở tất cả mọi phương án
với giá trị như nhau. Hiểu một cách khác, chi phí lặn được xem như là khoản chi phí
không thể tránh được cho dù người quản lý quyết định lựa chọn thực hiện theo
phương án nào. Chính vì vậy, chi phí lặn là loại chi phí không thích hợp cho việc
xem xét, ra quyết định của người quản lý.
d. Chi phí chênh lệch
Tương tự như chi phí lặn, chi phí chênh lệch (còn được gọi là chi phí khác
biệt) cũng chỉ xuất hiện khi so sánh chi phí gắn liền với các phương án trong quyết


17

định lựa chọn phương án tối ưu. Chi phí chênh lệch được hiểu là phần giá trị khác
nhau của các loại chi phí của một phương án so với một phương án khác. Có hai
dạng chi phí chênh lệch: giá trị của những chi phí chỉ phát sinh ở phương án này mà
không có ở phương án khác, hoặc là phần chênh lệch về giá trị của cùng một loại
chi phí ở các phương án khác nhau. Người quản lý đưa ra các quyết định lựa chọn
các phương án trên cơ sở phân tích bộ phận chi phí trên lệch này nên chi phí chênh
lệch là dạng thông tin thích hợp cho việc ra quyết định.
e. Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội là những thu thập tiềm tàng bị mất đi khi lựa chọn thực hiện
phương án này thay cho phương án khác. Chi phí cơ hội là một yếu tố đòi hỏi luôn

phải được tính đến trong mọi quyết định của quản lý. Để đảm bảo chất lượng của
các quyết định, việc hình dung và dự toán hết tất cả các phương án hành động có thể
liên quan đến tình huống cần ra quyết định là quan trọng hàng đầu. Có như vậy,
phương án hành động được lựa chọn mới thực sự là tốt nhất khi so sánh với các
khoản lợi ích mất đi của tất cả các phương án bị loại bỏ.
Tóm lại, Cho nhiều lợi ích khác nhau, chi phí được xem xét theo nhiều khía
cạnh khác nhau. Trước hết là một sự hiểu biết chung về nội dung của chi phí kết
hợp với việc xem xét chức năng của nó. DN đã sử dụng những loại chi phí gì và sử
dụng vào các mục đích gì là những dạng thông tin nhất thiết phải có trong báo cáo
tài chính. Tuy nhiên, để phục vụ tốt cho hoạt động quản lý đòi hỏi những hiểu biết
kỹ lưỡng hơn về chi phí. Chi phí xem xét ở giác độ kiểm soát được hay không kiểm
soát được là điều kiện tiền đề cho việc thực hiện kế toán trách nhiệm. Chi phí khi
được nhận thức và phân biệt thành dạng chi phí không thích hợp và chi phí thích
hợp cho việc ra quyết định có tác dụng lớn phục vụ cho tiến trình phân tích thông
tin, ra quyết định của người quản lý. Được sử dụng một cách tích cực và phổ biến
nhất trong KTQT đó là cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của nó giúp cho
thấy rõ một mối quan hệ rất căn bản trong quản lý: quan hệ chi phí – sản lượng – lợi
nhuận. Báo cáo thu nhập của DN lập theo cách nhìn nhận chi phí như vậy trở thành
công cụ đắc lực cho người quản lý trong việc xem xét và phân tích các vấn đề.


18

1.2.3. Tổ chức thu thập thông tin chi phí trong DN
Việc thu thập thông tin trong kế toán được xem là nội dung quan trọng.
Trong hoạt động quản trị, để đi đến một quyết định kinh doanh nhà quản trị phải thu
thập, xem xét từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Mỗi một nguồn thông tin giúp
cho nhà quản trị có nhận thức, đánh giá khác nhau trong từng tình huống quản trị và
ngược lại mỗi tình huống quản trị lại cần phải có những nguồn thông tin tương ứng.
Chính vì vậy, sẽ luôn xuất hiện nhu cầu thông tin thích hợp trong các quyết định

quản trị mà thông tin thích hợp phải chứa đựng hai đặc tính cơ bản đó là tin cậy và
phù hợp.
Khi đã xác định các giải pháp để giải quyết vấn đề cần ra quyết định, các nhà
quản trị cần thu thập các thông tin thích hợp để phân tích nhằm chứng minh cho giải
pháp tốt nhất. Thông tin không chênh lệch giữa các phương án, không phải là thông
tin thích hợp. Hai phương án có doanh thu như nhau, chi phí khác nhau. Không cần
thông tin về doanh thu, chúng ta vẫn có thể đi đến quyết định đúng bằng cách so
sánh các chi phí khác nhau…
Việc thu thập thông tin chi phí phục vụ cho KTQT được dựa trên những
thông tin đã thực hiện phản ánh trên chứng từ, sổ sách và báo cáo kế toán chủ yếu
trên kế toán chi tiết. KTQT sẽ xây dựng hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ kế toán
phù hợp theo yêu cầu quản lý, đảm bảo vừa chi tiết theo đối tượng chịu chi phí, vừa
chi tiết theo biến phí và định phí phục vụ cho công tác phân tích điểm hoà vốn, lập
dự toán kinh doanh. Đồng thời, KTQT phải thực hiện việc phân bổ chi phí NVLTT,
chi phí NCTT, chi phí SXC, tập hợp chi phí bán hàng, chi phí QLDN làm cơ sở cho
việc tính giá và xác định kết quả kinh doanh.
Bên cạnh những thông tin đã thực hiện, các nhà quản trị DN cần phải đặc
biệt quan tâm đến những thông tin dự toán tương lai. Việc thu thập những thông tin
này thường được thực hiện thông qua bộ phận kinh doanh và tiếp thị bán hàng của
DN. KTQT lập bảng liệt kê các thông tin cần thiết về thị trường chuyển cho bộ phận
này nghiên cứu. Sau đó bộ phận này sẽ đưa ra các dự toán tương lai chẳng hạn như
dự toán về nhu cầu thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh,… Ngoài những


19

thông tin do bộ phận kinh doanh và tiếp thị bán hàng cung cấp, KTQT còn phải thu
thập những thông tin khác như thông tin về lao động, tình hình sử dụng lao động,…
1.3. Nội dung KTQT chi phí trong doanh nghiệp
Bất kỳ một DN nào muốn hoạt động hiệu quả đều phải có một dự toán cụ

thể. Trong KTQT, dự toán là một nội dung quan trọng, nó thể hiện mục tiêu, nhiệm
vụ của DN, của từng bộ phận đồng thời dự toán là cơ sở để kiểm tra, kiểm soát cũng
như ra quyết định trong DN, dự toán càng chính xác bao nhiêu thì việc tiến hành
thực hiện công việc hiệu quả bấy nhiêu.
Dự toán là những tính toán dự kiến một cách toàn diện và phối hợp, làm căn
cứ để huy động kinh doanh của DN, được xác định bằng một hệ thống các chỉ tiêu
về số lượng và giá trị cho một khoảng thời gian xác định trong tương lai. Dự toán
chi phí là phương tiện cung cấp thông tin cho các chức năng hoạch định và kiểm
soát chi phí. Dự toán chi phí được lập chính xác và đầy đủ sẽ đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh được hiệu quả.
Việc lập dự toán có những tác dụng sau:
- Cung cấp thông tin về toàn bộ kế hoạch kinh doanh của DN một cách có hệ
thống và đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
- Xác định rõ các mục tiêu cụ thể để làm căn cứ đánh giá việc thực hiện sau
này.
- Lường trước những khó khăn tìm ẩn để có phương pháp xử lý kịp thời và
đúng đắn.
- Liên kết toàn bộ các hoạt động của DN bằng cách hợp nhất các kế hoạch và
mục tiêu của các bộ phận khác nhau. Chính nhờ vậy, dự toán đảm bảo các kế hoạch
và mục tiêu của các bộ phận phù hợp với mục tiêu chung của toàn DN.
- Đánh giá hiệu quả quản lý và thúc đẩy hiệu quả công việc.
Thông qua dự toán chi phí các nhà quản trị sẽ có kế hoạch về nguồn lực để
đảm bảo thực hiện các hoạt động, đồng thời lường trước những khó khăn có thể xảy
ra và có biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh nhằm đảm bảo hoàn thành
mục tiêu của doanh nghiệp.


20

1.3.1. Xây dựng định mức chi phí sản xuất

Chi phí định mức là chi phí dự tính cho việc sản xuất một sản phẩm hay cung
ứng dịch vụ. Khi chi phí định mức tính cho toàn bộ số lượng sản phẩm sản xuất hay
dịch vụ cung cấp thì chi phí định mức được gọi là chi phí dự toán.
Chi phí định mức được sử dụng như là thước đo trong hệ thống dự toán của
DN. Một DN sản xuất nhiều loại sản phẩm, KTQT sẽ sử dụng chi phí định mức để
xác định tổng chi phí dự toán để sản xuất sản phẩm. Sau khi quá trình sản xuất được
tiến hành, KTQT sẽ so sánh giữa chi phí thực tế và dự toán để xác định biến động
về chi phí. Đây chính là cơ sở để kiểm soát chi phí.
a. Xây dựng định mức chi phí NVLTT
Định mức lượng NVL: lượng NVL cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm bao
gồm:
+ Nguyên liệu cần thiết để sản xuất 1 tấn xi măng.
+ Hao hụt cho phép.
+ Lượng vật liệu tính cho sản phẩm hỏng.
Định mức giá NVL: Phản ánh đơn giá bình quân của 1 đơn vị NVL, bao
gồm:
+ Giá mua vật liệu theo hoá đơn (trừ các khoản giảm giá, chiết khấu).
+ Chi phí thu mua: chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lưu kho…
Định mức chi phí NVLTT được xác định theo công thức sau:
Định mức chi phí

=

Định mức về

×

Định mức về

NVLTT

lượng NVL
giá NVL
b. Xây dựng định mức chi phí NCTT: Cần xác định được lượng thời gian và
giá thời gian.
Định mức lượng thời gian hao phí: là lượng thời gian bình quân cần thiết
hoàn tất công việc đối với công nhân ở mức độ lành nghề trung bình, bao gồm:
+ Thời gian cho nhu cầu sản xuất cơ bản.
+ Thời gian cho vận hành máy móc thiết bị.
+ Thời gian ngừng nghỉ hợp lý máy móc thiết bị, người lao động.
+ Thời gian sửa chữa sản phẩm.


21

Định mức đơn giá cho một đơn vị thời gian: Phản ánh chi phí nhân công cho
một đơn vị thời gian hao phí, gồm:
+ Tiền lương cơ bản cho một đơn vị thời gian ở các bậc thợ khác nhau.
+ Các khoản phụ cấp theo lương.
+ Các khoản trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN.
Định mức chi phí NCTT được xác định như sau:

Định mức chi

=

Định mức về lượng

×

Định mức về nhân công


phí NCTT
thời gian hao phí
cho một đơn vị thời gian
c. Định mức chi phí sản xuất chung: Định mức biến phí SXC và định mức
định phí SXC.
- Định mức biến phí SXC cũng được xây dựng theo định mức giá và lượng.
Định mức giá phản ánh biến phí của đơn giá chi phí SXC phân bổ. Định mức lượng,
ví dụ thời gian thì phản ánh số giờ của hoạt động được chọn làm căn cứ phân bổ chi
phí SXC cho 1 đơn vị sản phẩm.
- Định mức định phí SXC được xây dựng tương tự như ở phần biến phí. Sở
dĩ tách riêng là nhằm giúp cho quá trình phân tích chi phí SXC sau này.
1.3.2. Lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh trong DNSX
Lập dự toán chi phí SXKD nhằm xác định toàn bộ chi phí để sản xuất một
khối lượng sản phẩm đã được xác định trước, chi phí để sản xuất sản phẩm bao gồm
ba khoản mục là chi phí NVLTT, chi phí NCTT và chi phí SXC [1].
1.3.2.1. Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán chi phí NVLTT phản ánh tất cả chi phí NVLTT cần thiết để đáp ứng
yêu cầu sản xuất đã được thể hiện trên dự toán khối lượng sản phẩm sản xuất. Để
lập dự toán NVLTT cần xác định:
- Định mức tiêu hao NVL để sản xuất một sản phẩm.
- Đơn giá NVL.
- Mức độ dự trữ NVLTT vào cuối kỳ dự toán được tính toán trên cơ sở lý
thuyết quản trị tồn kho.
Như vậy:

Dự toán lượng

=


Định mức tiêu hao

×

Số lượng sản phẩm


22

nguyên vật liệu sử dụng
nguyên vật liệu
sản xuất theo dự toán
Dự toán chi phí NVL trực tiếp xuất dùng cho sản xuất được xác định theo
công thức sau đây:
Dự toán chi phí

=

Dự toán lượng

nguyên vật liệu trực tiếp
nguyên vật liệu sử dụng
1.3.2.2. Dự toán chi phí nhân công trực tiếp

×

Đơn giá xuất
nguyên vật liệu

Dự toán chi phí NCTT được xây dựng từ dự toán khối lượng sản xuất. Dự

toán này cung cấp những thông tin quan trọng liên quan đến quy mô của lực lượng
lao động cần thiết cho kỳ dự toán. Mục tiêu cơ bản của dự toán này là duy trì lực
lượng lao động vừa đủ để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tránh tình trạng lãng phí hoặc
bị động trong sử dụng lao động. Dự toán lao động còn là cơ sở để DN lập dự toán
về đào tạo, tuyển dụng trong quá trình hoạt động sản xuất. Chi phí NCTT thường là
biến phí trong mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất.
Để lập dự toán chi phí này, DN phải tính toán dựa vào số lượng nhân công,
quỹ lương, cách phân phối lương và nhiệm vụ của DN. Khi lập dự toán NCTT, DN
cần xây dựng:
- Định mức lao động để sản xuất sản phẩm.
- Tiền công cho từng giờ lao động hoặc từng sản phẩm nếu DN trả lương
theo sản phẩm.
Chi phí NCTT được xác định theo công thức sau:
m

n

i

j

CPNCTT = ∑∑QiMijGj

hoặc

m

CPNCTT = ∑QiLi
i


Trong đó:
Mij là mức hao phí lao động trực tiếp loại j để sản xuất một sản phẩm i
Gj là đơn giá lương của lao động loại i
Li là đơn giá lương tính cho mỗi sản phẩm
Qi là số lượng sản phẩm I dự toán sản xuất
Số liệu về chi phí nhân công phải trả còn là cơ sở để lập dự toán tiền mặt.
1.3.2.3. Dự toán chi phí sản xuất chung
Chi phí SXC là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý hoạt động sản
xuất, phát sinh trong phân xưởng. Chi phí SXC bao gồm cả yếu tố chi phí biến đổi


23

và chi phí cố định, nên dự toán chi phí SXC phải tính đến cách ứng xử chi phí để
xây dựng mức phí dự toán hợp lý trong kỳ. Cũng có thể dự toán chi phí SXC theo
từng nội dung kinh tế cụ thể của chi phí.
Dự toán chi phí SXC = Dự toán định phí SXC + Dự toán biến phí SXC
Biến phí sản xuất chung có thể được xây dựng theo từng yếu tố chi phí cho
một đơn vị hoạt động. Khi dự toán chi phí này, DN thường xác lập biến phí sản xuất
chung cho từng đơn vị hoạt động hoặc lập theo tỷ lệ trên biến phí trực tiếp.
Dự toán định phí sản xuất chung cần thiết phải phân biệt định phí bắt buộc
và định phí tuỳ ý. Đối với định phí bắt buộc, trên cơ sở định phí chung cả năm chia
đều cho 4 quý nếu là dự toán quý, hoặc chia đều cho 12 tháng nếu là dự toán tháng.
Còn đối với định phí tuỳ ý thì căn cứ vào kế hoạch của nhà quản trị trong kỳ dự
toán. Dự toán định phí hằng năm có thể được lập dựa vào mức độ tăng giảm liên
quan đến việc trang bị, đầu tư mới của DN.
1.3.2.4. Dự toán chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động tiêu thụ của DN và
ngược lại nên khi lập dự toán chi phí bán hàng phải tính đến mối liên hệ với dự toán
tiêu thụ của DN. Dự toán chi phí bán hàng phản ánh các chi phí liên quan đến việc

tiêu thụ sản phẩm dự tính của kỳ sau. Dự toán này nhằm mục đích tính trước và tập
hợp các phương tiện chủ yếu trong quá trình bán hàng.
Khi xây dựng dự toán cho các chi phí này cần tính đến nội dung kinh tế của
chi phí cũng như yếu tố biến đổi và yếu tố cố định trong thành phần chi phí.
Dự toán chi phí

=

Dự toán định phí

+

Dự toán biến phí

bán hàng
bán hàng
bán hàng
Yếu tố định phí thường ít biến đổi trong một phạm vi phù hợp gắn với các
quyết định dài hạn, và có thể dự báo một cách dễ dàng dựa vào chức năng kinh
doanh của DN. Khi dự báo các yếu tố này cần phân tích đầy đủ các dữ liệu quá khứ
của DN và được lập dựa vào tỷ lệ thay đổi dự kiến.
Biến phí bán hàng được dự toán trên cơ sở số lượng bán hàng dự toán hoặc
xác định một tỷ lệ biến phí bán hàng theo thống kê kinh nghiệm nhiều kỳ.
1.3.2.5. Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp


24

Dự toán chi phí quản lý DN thường phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của DN.
Việc lập dự toán biến phí quản lý DN dựa vào biến phí quản lý đơn vị nhân với sản

lượng tiêu thụ dự kiến.
Dự toán biến phí quản

=

Dự toán biến phí đơn vị

Sản lượng tiêu thụ

×

lý doanh nghiệp
quản lý doanh nghiệp
theo dự toán
Hoặc có thể sử dụng phương pháp thống kê kinh nghiệm, trên cơ sở tỷ lệ
biến phí QLDN trên biến phí trực tiếp trong và ngoài khâu sản xuất ở các kỳ kế toán
trước để xác định tỷ lệ biến phí bình quân giữa các kỳ theo công thức sau:
Dự toán biến phí

=

Dự toán biến phí

×

Tỷ lệ biến phí quản lý

quản lý doanh nghiệp
trực tiếp
doanh nghiệp

Số liệu từ dự toán này còn là cơ sở để lập dự toán tiền mặt và báo cáo kết quả
kinh doanh dự toán của DN.
Còn định phí quản lý DN thường không thay đổi theo mức độ hoạt động. Các
thay đổi của loại chi phí này chủ yếu do việc trang bị đầu tư thêm cho bộ phận quản
lý của DN. Lập dự toán bộ phận này cần căn cứ vào dự báo các nội dung cụ thể của
từng yếu tố chi phí để xác định chính xác định phí theo dự toán.
1.3.2.6. Dự toán chi phí tài chính
Thu thập và chi phí tài chính liên quan đến kết quả kinh doanh của DN gồm
rất nhiều nội dung. Theo chế độ kế toán hiện nay, chi phí và thu thập tài chính phải
được tính toán đầy đủ trong kết quả hoạt động kinh doanh của DN.
Để dự toán chi phí tài chính cần quan tâm đến chi phí lãi vay – bộ phận lớn
nhất trong chi phí tài chính mà DN phải trả. Cở sở để lập dự toán chi phí lãi vay là
số tiền cần vay dài hạn và ngắn hạn trong mỗi kỳ lập dự toán cũng như lãi suất vay
phải trả cho từng khoản vay.
1.3.3. Lập dự toán giá thành sản phẩm
Dự toán giá thành sản phẩm có vai trò rất quan trọng trong công tác quản trị
DN, cụ thể:
Thứ nhất, lập dự toán giá thành góp phần xác định giá thành sản phẩm hoàn
thành, là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh của từng sản phẩm, từng nhóm sản
phẩm và toàn DN.


25

Thứ hai, giúp nhà quản trị làm tốt công tác hoạch định và kiểm soát chi phí ở
từng phòng ban, từng phân xưởng sản xuất.
Thứ ba, giúp các nhà quản trị nổ lực trong việc giảm thấp chi phí sản phẩm,
có giải pháp cải tiến sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường.
Thứ tư, là cơ sở để các nhà quản trị xây dựng một chính sách giá bán hợp lý,

có tính cạnh tranh và ra nhiều quyết định tác nghiệp khác.
Như vậy, công tác dự toán giá thành sản phẩm là một trong những nội dung
chủ yếu của KTQT chi phí. Có nhiều phương pháp để lập dự toán giá thành sản
phẩm nhưng luận văn chỉ trình bày 2 phương pháp sau:
1.3.3.1. Lập dự toán giá thành theo phương pháp toàn bộ
Phương pháp tính giá toàn bộ là phương pháp mà toàn bộ chi phí liên quan
đến quá trình sản xuất sản phẩm tại nơi sản xuất được tính vào giá thành của sản
phẩm hoàn thành.
Áp dụng phương pháp tính giá toàn bộ có thể vận dụng theo các trường hợp
sau:
- Tính giá thành giản đơn.
- Tính giá thành theo công việc (theo đơn đặt hàng).
- Tính giá thành theo quá trình sản xuất (phương pháp cộng phí).
Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm được tính theo công thức:

Giá thành sản phẩm

=

Chi phí

+

Chi phí

+

Chi phí

hoàn thành

NVLTT
NCTT
SXC
Tính giá thành theo phương pháp toàn bộ cung cấp số liệu cho DN lập các
báo cáo tài chính theo quy định, song xét về góc độ quản trị phương pháp này
không đáp ứng được yêu cầu cho các nhà quản trị trong việc lập các kế hoạch linh
hoạt đáp ứng nhu cầu thông tin về chi phí đơn vị trong các tình huống quy mô sản
xuất khác nhau, đặc biệt khi mà các DN sản xuất phải đương đầu với sự cạnh tranh
gay gắt về giá trong việc tìm kiếm thị trường. Mặc khác, do quy trình công nghệ sản
xuất và chất lượng của mỗi loại sản phẩm khác nhau nên việc lựa chọn tiêu thức
phân bổ các chi phí chung rất khó đảm bảo tính chính xác, dẫn đến chi phí đơn vị và


×