Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Giải pháp tạo việc làm cho người dân thuộc diện thu hồi đất tại khu kinh tế dung quất, huyện bình sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 120 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Người cam đoan

Nguyễn Văn Thái


MỤC LỤC

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI...……………...…………...……………..115


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNKT

Công nhân kỹ thuật

CNVC

Công nhân viên chức

CNH- HĐH

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

ĐH


Đại học

ĐTH

Đô thị hóa

KCN

Khu công nghiệp

KDC

Khu dân cư

KKT

Khu kinh tế

TB & XH

Thương binh và xã hội

TDTT

Thể dục thể thao

TĐC

Tái định cư


THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

THĐ

Thu hồi đất

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là một yếu tố đầu vào quan trọng của bất kỳ một ngành sản xuất, dịch vụ nào, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư,
phát triển cơ sở kinh tế - văn hóa- xã hội và an ninh, quốc phòng...Đặc biệt, là tư
liệu sản xuất chủ yếu, quan trọng của lao động nông nghiệp.

Công nghiệp hóa và đô thị hóa là xu hướng tất yếu đối với các quốc gia
muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất
thấp, mức sống thấp sang nền kinh tế công nghiệp, năng suất cao. Quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa kéo theo nhu cầu sử dụng đất thay đổi, trước đây đất đai chủ
yếu dùng để trồng trọt cây lương thực, hoa màu và phân bố dân cư...thì nay chuyển
sang đất chuyên dùng, để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp
tập trung, khu kinh tế, khu chế xuất, xây dựng các khu đô thị... Quá trình đó, thu hồi
đất để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất là tất yếu.
Thực tế cho thấy, công tác thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức
tạp, tác động tới nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội của người lao động bị thu
hồi đất. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tuy được Chính phủ quan tâm
điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề
cần được nghiên cứu; trong đó vấn đề tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất còn
nhiều bất cập và chưa được thực hiện một cách đồng bộ và bền vững. Do vậy, phần
lớn người lao động bị thu hồi đất sản xuất không có việc làm, thiếu việc làm ngày
càng gia tăng theo quá trình thu hồi đất.
Vấn đề tạo việc làm, đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy
cơ rủi ro cho người dân bị thu hồi đất, phải tái định cư. Bởi vì, đây là những người
bị tước đi tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, lối sống, tập quán sản xuất vốn có của
mình, để chuyển đến một môi trường mới, với những điều kiện sản xuất mới; họ rất
dễ bị cô lập hoặc nghèo đi so với thời điểm trước khi bị thu hồi đất và tái định cư.


2

Khu kinh tế Dung Quất có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế - xã
hội ở Miền Trung và Tây Nguyên. Hiện tại, Khu kinh tế Dung Quất có diện tích
10.300ha, bao gồm 9/25 xã, thị trấn, với 71.321 người (trong đó, Nam: 35.218; Nữ:
36.103). Thời gian tới sẽ mở rộng khoảng 45.332ha; trong đó; diện tích hiện hữu
10.300ha, phần diện tích đất mở rộng khoảng 24.280ha; diện tích mặt biển khoảng

10.750ha, bao gồm 20/25 xã thuộc huyện Bình Sơn, 04 xã thuộc huyện Sơn Tịnh và
huyện đảo Lý Sơn. Do đó, nhu cầu thu hồi đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các
dự án phát triển công nghiệp, dịch vụ ngày càng lớn; những cộng đồng dân cư mất đất
sản xuất và di dời, tái định cư ra khỏi vùng dự án ngày càng nhiều. Tuy nhiên, trong thời
gian qua các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ngãi chưa chú trọng về công tác quy
hoạch bố trí tái định cư, chính sách đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, tạo việc làm cho
người dân bị thu hồi đất; nên hiện tượng tái nghèo và nguy cơ bần cùng hóa đang dần
xảy ra. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào, để giảm thiểu tối đa những tác động không
mong muốn đối với người dân bị thu hồi đất, di dời tái định cư, thông qua việc tạo lập
việc làm ổn định, bền vững cho người dân bị thu hồi đất tại Khu kinh tế Dung Quất. Đó
là lý do thúc đẩy tác giả chọn đề tài: “Giải pháp tạo việc làm cho người dân thuộc
diện thu hồi đất tại Khu kinh tế Dung Quất, huyện Bình Sơn” làm luận văn thạc sĩ
kinh tế; chuyên ngành: Kinh tế phát triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tạo việc làm cho người lao động .
Phân tích thực trạng tạo việc làm đối với người dân bị thu hồi đất tại Khu
kinh tế Dung Quất trong thời gian qua.
Đề xuất các giải pháp tạo việc làm ổn định, bền vững cho người dân tại Khu
kinh tế Dung Quất trong thời gian đến.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến việc làm và tạo việc làm cho
người lao động và thực tạng tạo việc làm của người dân bị thu hồi đất, tái định cư tại khu
kinh tế Dung Quất.


3

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng việc làm và tạo việc làm cho người lao

động thuộc diện thu hồi đất tại Khu kinh tế Dung Quất giai đoạn 2005-2010.
- Về không gian: Nghiên cứu trong vùng quy hoạch Khu kinh tế Dung Quất;
gồm 9/25 xã, thị trấn của huyện Bình Sơn: Bình Chánh, Bình Thạnh, Bình Đông,
Bình Thuận, Bình Trị, Bình Hải, Bình Hoà, Bình Phước và Bình Phú.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong triển khai nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích thực chứng; phương pháp phân tích chuẩn tắc;
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập thông tin;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa…
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài “Giải pháp tạo việc làm cho người dân thuộc diện thu hồi đất tại
Khu kinh tế Dung Quất, huyện Bình Sơn” chưa được các nhà nghiên cứu ở tỉnh
Quảng Ngãi quan tâm nhiều. Năm 2007, UBND huyện Bình Sơn nghiên cứu đề tài
khoa học: “Thực trạng và giải pháp về giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho
các hộ dân khi Nhà nước thu hồi đất thuộc địa bàn Khu kinh tế Dung Quất”; do ông
Phạm Hùng – Phó chủ tịch UBND huyện làm chủ nhiệm đề tài và các cộng sự là
Trưởng các đầu ngành của huyện thực hiện. Nhìn chung, đề tài chưa luận giải một
cách đầy đủ và có hệ thống về thực trạng việc làm, chính sách hỗ trợ chuyển đổi
nghề, đến việc tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất, mà chỉ đi sâu phân tích
chính sách bồi thường còn bất cập, dẫn đến công tác giải phóng mặt bằng gặp khó
khăn; của Đặng Thị Mai Trâm, (2010): “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát
triển kinh tế ở các khu tái định cư trên địa bàn Dung Quất” đề cập đến vấn đề vị trí,
điều kiện thổ nhưỡng hiện có để phát triển kinh tế ở các khu tái định cư. Trên thực
tế, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là bồi thường bằng tiền cho người bị ảnh hưởng
bởi các dự án: về giá trị quyền sử dụng đất, tài sản trên đất; người dân hầu hết
không còn đất để sản xuất; di dời đến khu tái định cư tập trung, mỗi hộ gia đình
được nhận đất theo một định mức nhất định từ 200m2 - 250m2 để xây dựng nhà ở.


4


Do vậy, vấn đề thổ nhưỡng ở khu tái định cư để phát triển kinh tế là chưa toàn diện,
chưa sát với thực tiễn tái định cư ở khu kinh tế Dung Quất. Chưa có công trình nào
nghiên cứu về thực trạng việc làm và tạo việc làm, để đề xuất giải pháp tạo việc làm
cho người dân bị thu hồi đất, di dời tái định cư ở Khu kinh tế Dung Quất.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc làm và tạo việc làm cho người lao động.
Chương 2: Thực trạng về việc làm và tạo việc làm cho người dân bị thu hồi
đất tại Khu kinh tế Dung Quất, giai đoạn 2005-2010.
Chương 3: Định hướng, quan điểm và giải pháp tạo việc làm ổn định cho
người dân bị thu hồi đất tại Khu kinh tế Dung Quất.


5

Chương 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG.
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Lao động và sức lao động
- Lao động là hoạt động có mục đích của con người, thông qua hoạt động đó
con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng thành những vật có ích nhằm
đáp ứng nhu cầu nào đó của con người [10, tr.10]. Hoạt động lao động có 3 đặc
trưng cơ bản:
Thứ nhất, xét về tính chất, hoạt động lao động phải có mục đích (có ý thức)
của con người.

Thứ hai, xét về mục đích, hoạt động đó phải tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu chính đáng phục vụ cho con người, phục vụ
cho sự tiến bộ của xã hội).
Thứ ba, xét về mặt nội dung, hoạt động của con người phải là sự tác động
vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên và xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ lợi ích của con người.
Ngày nay, hoạt động lao động được quan niệm không chỉ là khai thác tự
nhiên mà còn song song với nó là sự bồi đắp, bảo tồn tự nhiên.
- Sức lao động là phạm trù chỉ khả năng lao động của con người, là tổng hợp
thể lực và trí lực của con người, được con người vận dụng trong quá trình lao động.
Theo C. Mác, sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.[10,tr.10]
Như vậy, khả năng lao động của con người hay sức lao động được thể hiện:


6

+ Khả năng về thể chất (thể lực): chỉ rõ khả năng làm việc chân tay, được
biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như về chiều cao, cân nặng, sức mạnh cơ bắp, thị
lực, thính lực…
+ Khả năng về tinh thần (trí lực): chỉ rõ khả năng làm việc trí tuệ, được biểu
hiện thông qua các chỉ tiêu về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kinh
nghiệm công tác…
Ngày nay, không chỉ dừng lại ở hai tiêu chí trên mà còn quan tâm nhiều đến
năng lực phẩm chất của người lao động. Năng lực phẩm chất chỉ rõ tính năng động,
sáng tạo, thái độ làm việc, lòng tự tin, khả năng thích ứng, dễ chuyển đổi, làm việc
có tinh thần trách nhiệm với cá nhân, nhóm và tổ chức…
Như vậy, để biến khả năng lao động (sức lao động) thành hiện thực (lao
động), cần phải có những điều kiện nhất định (điều kiện vật chất, điều kiện con

người, môi trường xã hội…), mà thiếu những điều kiện này, quá trình lao động
không thể diễn ra được.
1.1.1.2. Người lao động
Ở nước ta, theo Điều 6 của bộ Luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung; khái niệm
người lao động như sau “ Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng
lao động và có giao kết hợp đồng lao động” và Điều 145 “ Người lao động được
hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi có đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đóng
bảo biểm xã hội như sau: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi…”[5, tr.58]
Như vậy căn cứ vào đó, độ tuổi lao động của người Việt Nam được xác định
như sau: + Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi
+ Nữ từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi
1.1.1.3. Việc làm
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến
mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân làm hai loại: có trả
công (những người làm thuê, học việc …) và không được trả công nhưng vẫn có thu
nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia đình …). Vì vậy, “việc làm có thể
được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật,


7

do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản
xuất” [12, tr.314]. Theo khái niệm này, người có việc làm là người làm việc gì đó để
được trả công, lợi nhuận được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia
đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức
nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động (ILO.1993) và đã
được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao
trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan
niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động

mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt
động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm đạo đức xã
hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm,… ở các
nước như Hà Lan, Côlômbia thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở
những nước khác, đặc biệt ở các nước châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc,… Do
vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho
các nước trên thế giới.
Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết
việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử
dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai
đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy
đủ… hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều
cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng
quốc doanh hóa được coi là một điều tất yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản
xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là
vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội
thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc
doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt
động lao động không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho


8

các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với cách
nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ Luật
Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn
cấm đều được thừa nhận là việc làm” [5, tr.14].
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hóa, có thể

hiểu dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng
hiện vật
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai
tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ ra tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu
thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ ra tính pháp
lý của việc làm, quan niệm đó rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt
động có ích không giới hạn về phạm vi, hành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có
quyền tự do hành nghề, tự do liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tự do
thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù
làm việc trong hay ngoài khu vực ngoài nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để
một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu
nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma túy, mại dâm,… thì không
được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng
không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm; chẳng hạn công việc
nội trợ hàng ngày của người phụ nữ cho chính gia đình họ ( như đi chợ, nấu cơm,


9

dọn dẹp, giặt quần áo…).

Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đó có sự chuyển biến căn bản. Nếu
như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố
trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là
trách nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao
động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị
trường, coi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động,
thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên nó mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao
động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi
thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là
việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội
đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê
người làm công.
Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội; việc làm được hiểu “là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao
động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,…) để sử dụng
sức lao động đó”. [10, tr.256]
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban
đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... và chi phí về sức lao
động (V). Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ
công nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó
cũng thay đổi theo hướng công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng
nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị chi phí
ban đầu về tư liệu sản xuất có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao động. Còn trong



10

điều kiện tự động hóa, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về vốn, thiết bị,
công nghệ rất cao nhưng đòi hỏi sức lao động với tỷ lệ rất thấp ( công nghệ sử dụng
nhiều vốn, ít lao động). Do đó, tùy theo từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương
án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động.
Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn
nhân lực hoặc thừa nguồn nhân lực, tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc làm là phạm
trù để chi trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn,
tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình
thành các dạng việc làm cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc
làm.
1.1.1.4. Thiếu việc làm
Thiếu việc làm là những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn.
[10,tr.259]
Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng, hoặc là người lao động không
có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng, hoặc làm những
công việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc thêm
để có thu nhập.
Người thiếu việc làm gồm những người trong khoảng thời gian xác định của
cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong tuần, trong
tháng, trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là những người có tổng số giờ
làm việc bằng số giờ quy định trong tuần, tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp
nên muốn làm thêm để có thu nhập.
1.1.1.5. Thất nghiệp
Có hai quan niệm thất nghiệp.
Một là, thất ngiệp là sự mất việc. Như vậy, người thất nghiệp là những người
đang làm việc bị đẩy ra khỏi nơi làm việc. Khái niệm này không tính đến số người
trong độ tuổi lao động, cần làm việc, phải làm việc nhưng chưa có được việc để

làm. Khái niệm này xuất phát thuần túy từ chữ “ thất” là mất.


11

Hai là, thất nghiệp là tình trạng đứng ngoài công cuộc lao động của những
người trong độ tuổi lao động, có nhu cầu, có khả năng, có nghĩa vụ lao động của
mình và cho xã hội, vì lý do khách quan.
Quan niệm trên về thất nghiệp không sát với từ “ thất” nhưng nói lên được
một trạng thái xã hội đáng lo ngại, trạng thái “ có ăn, cần ăn mà không có làm”. Đó
là nguy cơ của tệ nạn xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của trường Đại học kinh tế Quốc dân
Hà nội: “thất nghiệp là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu
sản xuất, nó gắn liền với người có khả năng lao động nhưng không được sử dụng có
hiệu quả”.[10, tr.260]
Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định của
cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm và có nhu cầu
được làm việc. Tiêu thức hoặc dấu hiệu để xác định người thất nghiệp là người
trong độ tuổi lao động đang không có việc làm, tích cực tìm việc làm, có khả năng
lao động và có nhu cầu làm việc; hoặc có việc làm nhưng không ổn định.
Thất nghiệp có thể được chia ra làm một số loại chính sau:
- Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp xảy ra khi một số người lao động đang
trong thời kỳ tìm kiếm việc làm hoặc chờ làm ở nơi có việc làm tốt hơn.
- Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối cung - cầu
giữa các loại lao động, giữa các ngành nghề trong khu vực.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: là thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về lao
động giảm xuống, nguồn gốc chính là do sự suy giảm tổng cầu.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: là loại thất nghiệp theo lý thuyết cổ
điển, xảy ra khi tiền lương được xác định không bởi các lực lượng thị trường và cao
hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động.

Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế tất yếu, song duy trì ở mức độ nào cho hợp
lý còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia và khả năng quản lý nền
kinh tế của Chính phủ. Tỷ lệ thất nghiệp thấp, đồng nghĩa với lực lượng lao động


12

trong nền kinh tế được tăng cường và tỷ lệ lạm phát cao. Ngược lại, tỷ lệ thấp
nghiệp cao, đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát thấp cũng tạo ra những vấn đề xã hội bức
xúc về việc làm, về tệ nạn xã hội,... Vì vậy, duy trì một tỷ lệ thất nghiệp hợp lý ở
mức thất nghiệp tự nhiên (tỷ lệ thất nghiệp mà ở đó ai có nhu cầu làm việc đều có
thể kiếm được việc làm) là điều lý tưởng.
Thất nghiệp trong trường hợp bị thu hồi đất sản xuất, là thuộc loại thất
nghiệp cơ cấu, vì việc làm của lao động nông thôn gắn liền với đất đai. Khi tư liệu
sản xuất bị mất, lao động nông nghiệp dôi dư (cung thừa) nhưng không đáp ứng
được cầu lao động của các ngành nghề phi nông nghiệp nên họ không có việc làm.
1.1.1.6. Thu hồi đất
Ở Nước ta, Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu;
theo đó Nhà nước có quyền định đoạt đối với đất đai như: Nhà nước trao quyền sử
dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức quyết định giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với
người đang sử dụng đất ổn định.
Theo khoản 5, Điều 4 Luật đất đai 2003,“Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết
định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của luật này” [16, tr.6].
Đất đai là yếu tố cầu cho nhiều loại nhu cầu: xây dựng cơ sở hạ tầng, phát
triển các ngành sản xuất, dịch vụ, nhu cầu đời sống xã hội...phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội.
Với chủ trưởng đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa, nhu cầu thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển các công trình công cộng, phát triển các khu

kinh tế, khu công nghiệp tập trung, phát triển đô thị...là một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng như các nước khác trên
thế giới, vấn đề thu hồi đất, bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, tái định cư là
hiện tượng phát triển mà các Nhà nước phải đối mặt như một quy luật tất yếu và
phổ biến.


13

Thu hồi đất để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tác động đến
phân công lao động xã hội theo hướng lao động nông nghiệp giảm dần, lao động
công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh; lao động và dân cư nông thôn giảm, lao động
và dân cư đô thị tăng lên nhanh chóng. Đây là qúa trình biến đổi và phân bố các lực
lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các
hình thức và điều kiện sống, đem đến cho người dân nông thôn lối sống công
nghiệp và văn minh đô thị.
1.1.1.7. Khái niệm về di dân
Di dân là sự di chuyển dân cư trong lãnh thổ của một nước, là sự phân bố lại
dân cư giữa các ngành, các vùng lãnh thổ.[11,tr.68]. Như vậy, có thể hiểu di dân là
sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với những chuẩn mực về không gian và
thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.
Theo nghĩa rộng, di dân là sự dịch chuyển bất kỳ của con người trong một
không gian, thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh
viễn. Theo nghĩa hẹp, di dân là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến
một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời
gian nhất định.
Có nhiều cách phân loại di dân theo các giác độ khác nhau, như:
- Theo độ dài thời gian cư trú, gồm có: di dân lâu dài (ổn định); di dân tạm
thời, di dân mùa vụ…
- Theo khoảng cách di chuyển: Di dân quốc tế, di dân nội địa; trong di dân

nội địa có: di dân nông thôn - thành thị; di dân nông thôn – nông thôn…
- Theo tính chất chuyên quyền, người ta phân biệt di dân hợp pháp hay bất
hợp pháp, di dân tự do hay có tổ chức, di dân tình nguyện hay bắt buộc.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, di dân và tái định cư hiện nay vẫn đang
diễn ra với hai loại hình chính: Di dân tự nguyện và di dân không tự nguyện.
Như vậy, việc di dời, tái định cư trong quá trình thực hiện thu hồi đất để xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp, đô thị… là hình thức di
dân không tự nguyện .


14

1.1.1.8. Quan niệm về tái định cư
Tái định cư: Tái định cư được hiểu là con người tạo dựng cuộc sống ở nơi
cư trú mới sau khi rời khỏi nơi cư trú cũ của họ.[15].
Tái định cư tự nguyện và không tự nguyện: Thực tế có nhiều lý do mà người
dân phải tái định cư và có thể chia thành hai loại tái định cư: tái định cư bắt buộc
(do điều kiện chiến tranh, thiên tai, bị thu hồi đất để xây dựng công trình, …) và tái
định cư tự nguyện (do nhu cầu người dân muốn cải thiện cuộc sống).
Thực tế tại Việt Nam có nhiều hình thức tái định cư và được tổng hợp thành
hai hình thức tái định cư phổ biến nhu sau:
(1) Tái định cư tập trung theo quy hoạch, kế hoạch chung, có tổ chức (còn
gọi là tái định cư bắt buộc):
+ Xây dựng làng thanh niên lập nghiệp và các khu giãn dân;
+ Xây dựng các công trình phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; ...
Việc tái định cư bắt buộc liên quan đến mọi lứa tuổi và giới, những mong
muốn của người bị ảnh hưởng có thể không được đáp ứng. Rất nhiều người có thể
gặp rủi ro và thiếu động lực, sáng tạo để di chuyển và tái lập nơi ở mới và thực hiện
những định hướng mới. Không có sự giúp đỡ, hỗ trợ mạnh mẽ từ các chính sách của
nhà nước, của các tổ chức, doanh nghiệp…, thì những người bị tái định cư bắt buộc

sẽ trở nên nghèo khó.
(2) Tái định cư tự nguyện: di cư tự phát vào Tây Nguyên từ các tỉnh Miền Bắc
và Miền Trung…, Di dân tự phát diễn ra mạnh ở một số thời điểm và thường gây áp
lực lớn về đất đai, môi trường sinh thái. Những người tái định cư tự nguyện được tự
quyết định lựa chọn. Họ thường là nam giới ở lứa tuổi trẻ hoặc trung niên; vì vậy họ
khá năng động, sáng tạo và chấp nhận rủi ro.
1.1.2. Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa tới lao động, việc làm
1.1.2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, phát triển KCN và ĐTH tạo mở nhiều việc làm mới trong lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Để tiến hành ĐTH đòi hỏi phải thúc
đẩy xây dựng, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật với việc hình thành các


15

KCN, khu du lịch, dịch vụ, thương mại ngày càng hiện đại. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
hiện đại, sẽ kích thích gia tăng hội tụ các nguồn đầu tư cho sản xuất, thúc đẩy hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra ngày càng sôi động, đa dạng hóa và phát triển
các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ…, đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
Thứ hai, phát triển KCN và ĐTH làm tăng chỗ việc làm trong khu vực kinh
tế không chính thức. ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và mức
sống của dân cư đô thị, làm nảy sinh các nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh
thần. Để đáp ứng nhu cầu đó đòi hỏi sản xuất và dịch vụ phải được mở rộng, kéo
theo sự phát triển một cách tự phát khu vực kinh tế không chính thức với những
hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, không đăng ký, không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật
như bán hàng rong, các dịch vụ, buôn bán nhỏ tại nhà, vỉa hè, giúp việc gia đình, lao
động tự do… Sự phát triển của khu vực kinh tế không chính thức sẽ tạo nhiều việc
làm, góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động không có tay nghề,
lao động nhập cư, lao động nông nghiệp thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất…

Thứ ba, phát triển KCN và ĐTH làm tăng chỗ việc làm tạm do quy hoạch
mở rộng không gian đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Để
tiến hành cải tạo, nâng cấp, xây dựng hạ tầng kinh tế, xây dựng KCN, khu dân
cư…, đòi hỏi có lực lượng lao động nhất định phục vụ cho việc xây dựng này. Bên
cạnh đó, nhiều hoạt động dịch vụ khác phát triển đi kèm với quá trình xây dựng các
công trình này, như dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí… từ đó làm tăng chỗ việc làm
tạm thời trong thời gian nhất định. Sau khi công trình hoàn thành, những chỗ việc
làm tạm thời này không tiếp tục hoạt động nữa hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh
doanh khác cho phù hợp.
Thứ tư, phát triển KCN và ĐTH mở rộng khả năng tự tạo việc làm và tìm
kiếm việc làm của người lao động. Khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm
của người lao động chủ yếu do:
+ Trình độ người lao động ngày càng được nâng cao. Trước yêu cầu trình độ lao
động ngày càng cao và áp lực về việc làm do dân số, lao động hội tụ ngày càng đông ở


16

đô thị theo xu hướng ĐTH, một bộ phận người lao động, nhất là lao động trẻ buộc phải
trang bị cho mình một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định.
+ Dưới tác động của ĐTH thị trường lao động hoạt động sôi động hơn. Tốc
độ ĐTH càng cao thì tăng trưởng việc làm và tốc độ hội tụ dân số và lao động ở đô
thị có quy mô càng lớn. Môi trường kinh tế năng động hơn chính là điều kiện cơ
bản phát triển mạnh mẽ các họat động tư vấn, giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo
nghề, dịch vụ thông tin lao động.
1.1.2.2. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, phát triển KCN và ĐTH làm một bộ phận người lao động diện thu
hồi đất nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất theo
hướng chuyển đổi mục đích từ sản xuất nông nghiệp, sang phục vụ sản xuất công
nghiệp, thương mại, dịch vụ. Với việc xây dựng các KCN, khu du lịch, khu dân cư,

khu đô thị mới sẽ làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động
thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất mất việc làm, hoặc buộc phải chuyển đổi việc
làm. Đại đa số họ có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề chuyên môn kỹ thuật,
không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của
họ mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn, làng xã truyền thống; nên rất hạn chế
trong khả năng thiết lập các mối quan hệ, công ăn việc làm, khả năng tiếp cận các
dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị, khả năng thích ứng kịp
thời với sự biến đổi nhanh chóng của quá trình ĐTH, khi mà bỗng chốc họ trở thành
những cư dân đô thị, sau những quyết định hành chính mở mang ranh giới, không
gian đô thị. Những vấn đề trên đã cản trở nhóm dân cư này trong việc tìm kiếm cơ
hội chuyển đổi việc làm mới, biến họ trở thành những cư dân thất nghiệp trên chính
quê hương mình.
Thứ hai, phát triển KCN và ĐTH làm cho một bộ phận người lao động không
kịp đáp ứng yêu cầu về trình độ sản xuất. Công nghiệp hóa, đô thị hóa thúc đẩy quá
trình sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước
và thực hiện thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí, phát triển tự động hóa ở
nhiều lĩnh vực, ngành nghề, làm giảm chỗ việc làm yêu cầu trình độ lao động thấp. Do


17

đó, xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dôi dư không đáp ứng được yêu cầu sản
xuất sẽ bị mất việc. Những người này đa số đã lớn tuổi hoặc trình độ lao động thấp
không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới của doanh nghiệp và khả năng đào tạo lại và
chuyển đổi nghề của họ là rất thấp.
1.1.3. Tạo việc làm
1.1.3.1. Khái niệm tạo việc làm
Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của trường Đại học kinh tế Quốc dân
Hà nội: “ Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số
lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư

liệu sản xuất và sức lao động”.[10,tr.261]
Quan niệm trên, chỉ rõ cho chúng ta thấy rằng; để tạo việc làm trước hết phải
tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, tức là phải tạo ra được số lượng
ngành nghề đa dạng, qui mô ngành nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội;
đồng thời yêu cầu số lượng và chất lượng sức lao động phải phù hợp và đáp ứng với
thiết bị, công nghệ, phù hợp giữa giá vốn và giá nhân công để lựa chọn công nghệ
của tư liệu sản xuất. Mặt khác để tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động, đòi hỏi
phải có nguồn nhân lực dồi dào nhưng phải có sức khỏe tốt, có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao, có kinh nghiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp.
Bên cạnh đó là điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, môi trường kinh tế chính trị - xã hội thuận lợi để kết hợp có hiệu quả giữa tư liệu sản xuất và sức lao
động.
1.1.3.2. Bản chất của tạo việc làm
Như đã nêu, việc làm là phạm trù để chi trạng thái phù hợp giữa sức lao động
và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao
động đó. Như vậy, để có việc làm trước hết là cần hai yếu tố sức lao động và những
điều kiện cần thiết (đối tượng lao động; tư liệu lao động) để sử dụng sức lao động,
trong đó bao gồm cả những yêu tố xã hội. Sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu
sản xuất theo một kết cấu, tỷ lệ và yêu cầu nhất định.


18

Vì vậy, vấn đề đặt ra khi nào chúng ta tạo việc làm, khi có lao động nhưng
không có việc làm, thiếu việc làm. Nguyên nhân của thiếu việc làm là do: thiếu đối
tượng lao động, công cụ lao động hoặc lao động không phù hợp với yêu cầu công
việc. Cho nên, thực chất của tạo việc làm là:
- Hoặc làm cho người lao động phù hợp với yêu cầu của công việc, tức lao
động phải qua đào tạo nghề thích hợp với yêu cầu;
- Hoặc tăng thêm đối tượng lao động, hoặc tăng thêm công cụ lao động; đòi
hỏi phải có vốn để mua máy móc thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu...

- Và có cơ chế để phối hợp các yêu tố này lại với nhau; nhằm để sáng tạo ra
của cải vật chất có ích cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu chính đáng của con người
trong xã hội và lao động phải có hiệu quả.
Chính vì vậy, quá trình tạo việc làm là quá trình tạo ra của cải vật chất (số
lượng, chất lượng tư liệu sản xuất), sức lao động (số lượng, chất lượng sức lao
động) và điều kiện kinh tế, xã hội khác.
1.1.3.3. Cơ chế tạo việc làm
Để tạo việc làm đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức cũng
như cá nhân người lao động, tạo thành cơ chế tạo việc làm; trong đó có cơ chế 3 bên
với sự tham gia của người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao động.
+ Về phía người lao động, muốn tìm được việc làm phù hợp, có thu nhập cao
phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức lao động của mình, có nghĩa
là phải tự mình, hoặc dựa vào các nguồn tài trợ từ gia đình, từ các tổ chức xã hội…
để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nghiệp nhất định. Tuy nhiên, để
tham gia đào tạo, nắm vững một ngành nghề đáp ứng được yêu cầu của thị trường
lao động, đòi hỏi người lao động phải nắm bắt được thông tin về thị trường lao động
để lựa chọn ngành nghề đào tạo phù hợp với khả năng của mình và nhu cầu của thị
trường lao động. Đây là điều kiện cần thiết cho người lao động tham gia vào thị
trường lao động. Có nghĩa là làm cho lao động phù hợp với công việc.
+ Về phía Nhà nước, Nhà nước tạo hành lang pháp lý, ban hành các luật, cơ
chế chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động,


19

tạo ra môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là một bộ phận
cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
Nhà nước có những chính sách khuyến kích đầu tư, đổi mới công nghệ sản
xuất thông qua những chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách giá
cả tư liệu lao động, tiền công, tiền lương, chính sách thuế thu nhập. Trong điều kiện

như nước ta, nguồn nhân lực dồi dào, nhưng thiếu vốn; Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ, thủ công, cá thể cần ít vốn nhưng sử
dụng nhiều lao động, thông qua việc hỗ trợ của nhà nước về vốn, về nguyên liệu,
tiêu thụ, dạy nghề….Sự hỗ trợ về vốn có thể thông qua hệ thống quỹ đặc biệt, qua
các chương trình, dự án tạo việc làm…. Tổ chức tốt việc dạy nghề và đào tạo lại lao
động đã bị lạc hậu về nghề, tổ chức thị trường lao động, tạo điệu kiện thuận lợi cho
người thất nghiệp, thiếu việc làm kiếm việc làm, rút ngắn thời gian tìm việc; có
chính sách đẩy mạnh và hỗ trợ xuất khẩu lao động thông qua chính sách hợp tác
quốc tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài…
+ Về phía người sử dụng lao động, gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc
các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức
kinh tế xã hội cần có thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ tạo ra
chỗ làm việc mà còn phải duy trì và phát triển chỗ làm việc cho người lao động. Đó
cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, người sử
dụng lao động cần có vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng (nơi làm việc), công nghệ,
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, mua sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, dịch
vụ. Hơn nữa, để nâng cao hiệu quả sản xuất thì các chủ sử dụng lao động không
những cần vốn, mà còn cần có kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh hoạt chính
sách của Nhà nước trong lĩnh vực lao động, việc làm; đồng thời đề ra được các quy
định phù hợp, biết quản lý lao động một cách khoa học, hợp lý, nhằm đạt được mục
tiêu của doanh nghiệp và nâng cao sự thoả mãn của người lao động, khơi dậy động
lực lao động nhằm thu hút và giữ chân những người lao động giỏi phù hợp với yêu
cầu công việc, đây là tài sản quan trọng của tổ chức, doanh nghiệp, yếu tố quyết
định sự thành công trong cạnh tranh.


20

Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho nguời lao động đòi hỏi có sự tham gia tích
cực của ba phía: Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân những

người lao động sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc
của người lao động gặp nhau trên thị trường lao động đúng lúc, đúng chỗ.
1.1.4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động
- Tạo việc làm cho người lao động là cần thiết nhằm giảm thất nghiệp. Công
nghiệp hoá là xu hướng tất yếu đối với các nước muốn nhanh thoát khỏi tình trạng
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống thấp sang nền kinh tế công
nghiệp, năng suất cao. Trong quá trình phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động là tất yếu. Vì vậy, khi có hoạt động sản
xuất mới ra đời (sản xuất công nghiệp, dịch vụ…), trong khi một số nghề cũ, hoạt
động sản xuất cũ bị mất đi (sản xuất nông nghiêp bị thu hẹp hoặc mất đi do không
còn đất sản xuất…) thì thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm phát sinh.
- Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động,
quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người lao động, có khả năng lao
động. Có việc làm, đồng nghĩa với có thu nhập, nâng cao vị thế của người lao động
trong gia đình và ngoài xã hội. Tạo việc làm còn góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống, hạn chế các tiêu cực xã hội, góp phần xoá đói, giảm nghèo và ổn định xã
hội. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của nhiều quốc
gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội.
- Thu hồi đất để xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất,
mở rộng và phát triển các khu đô thị…, trong đó khoảng 80% diện tích đất thu hồi
là đất nông nghiệp; theo đó người nông dân bị thu hồi đất đồng nghĩa với việc
người nông dân mất tư liệu sản xuất, mất việc làm là không tránh khỏi. Hiện nay
các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, cũng như chính sách đào tạo, hỗ
trợ chuyển đổi ngành nghề cho người bị thu hồi đất của Việt Nam chưa có sự thống
nhất; mỗi tỉnh, thành phố lại có mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khác nhau. Mặt
khác, công tác thu hồi đất và tái định cư còn mang tính áp đặt chủ quan từ phía các
cơ quan chức năng, nguyện vọng của người dân chưa được nhìn nhận thấu đáo


21


trong quá trình hoạch định chính sách. Chính sách đào tạo, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo
việc làm cho người bị thu hồi đất, chưa được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện.
Công tác bồi thường chỉ dừng lại ở việc bồi thường quyền sử dụng đất và các
tài sản thiệt hại trực tiếp. Các thiệt hại gián tiếp và vô hình khác về việc làm, thu
nhập kinh tế, lợi thế vị trí kinh doanh,…chưa được tính đến đầy đủ, trong khi đây là
những điểm rất quan trọng đối với đời sống của người dân. Hậu quả là trong khi
quỹ đất sản xuất bị thu hẹp hoặc không còn đất để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
người dân lâm vào tình trạng mất việc làm, thiếu việc làm dẫn đến không có thu
nhập, đời sống ngày càng khó khăn và có nguy cơ đói nghèo, bần cùng hóa, tiêu cực
xã hội nảy sinh, an ninh trật tự xã hội ngày càng phức tạp hơn.
Việc khôi phục lại đời sống của người dân bị ảnh hưởng từ việc mất đất sản
xuất, di dời tái định cư, đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Tuy nhiên, chính sách hỗ
trợ để khôi phục thu nhập, tạo việc làm, ổn định cuộc sống của người dân chưa
được xem xét trong dài hạn, đảm bảo tính bền vững, đồng bộ của các chính sách từ
quy hoạch khu tái định cư đến chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, đào tạo nghề và
tạo việc làm theo hướng bền vững.
Khu kinh tế Dung Quất có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế xã hội ở Miền Trung và Tây Nguyên. Hiện tại, Khu kinh tế Dung Quất có diện tích
10.300ha, bao gồm 9/25 xã, thị trấn, với 71.321 người ( trong đó, Nam: 35.218; Nữ:
36.103 người).Thời gian đến sẽ mở rộng theo Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày
20/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây
dựng Khu kinh tế Dung Quất đến năm 2025, diện tích mở rộng khoảng 45.332ha;
bao gồm 20/25 xã thuộc huyện Bình Sơn, 04 xã thuộc huyện Sơn Tịnh và cả huyện
đảo Lý Sơn. Do đó, nhu cầu thu hồi đất để đầu tư xây dựng các dự án, xây dựng cơ
sở hạ tầng… ngày càng lớn, những cộng đồng dân cư bị thu hồi đất, phải di dời ra
khỏi vùng dự án sẽ ngày càng nhiều. Do vậy, tình trạng không có việc làm, thiếu
việc làm đã, đang và sẽ gia tăng tại khu kinh tế Dung Quất. Bởi vì, người dân trong
vùng khu kinh tế Dung Quất hầu hết sống bằng nghề nông; trình độ văn hoá thấp,
nên không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Đây cũng chính là khó



22

khăn, thách thức đối với các cấp chính quyền của tỉnh Quảng Ngãi trong việc tạo
việc làm cho cư dân bị thu hồi đất tại Khu kinh tế Dung Quất.
Do vậy, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất, không còn đất sản
xuất, di dời tái định cư là vấn đề hết sức cấp thiết, không những mang tính kinh tế
mà còn mang tính chính trị, xã hội cao.
1.2. NỘI DUNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.2.1. Đào tạo nghề cho người lao động
Hoàn thiện chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề phổ thông cũng như đào tạo
nghề bậc cao cho lực lượng lao động; thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề cho người
lao động nhằm phát huy mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài để đầu tư cho hệ
thống dạy nghề; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các cấp học, tạo tiền đề cho
đào tạo nghề, chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động; tư vấn nghề nghiệp đối
với những học sinh tốt nghiệp phổ thông; gắn dạy nghề với tạo việc làm cho người
lao động…là đòi hỏi đầu tiên và tiền đề của việc tạo việc làm cho người lao động.
1.2.2. Trang bị thêm công cụ cho người lao động
Khuyến khích sử dụng nguồn nhân lực đông, bằng cách đầu tư các trang thiết
bị mới áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động sống trong các khâu sản xuất,
công cụ chủ yếu là máy móc, thiết bị trong công nghiệp, công nghiệp có quy mô
vừa và nhỏ, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp ứng dụng kỹ thuật cao;
thông qua chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc thiết bị cho doanh
nghiệp, trợ cấp tín dụng, phương thức hỗ trợ ưu đãi giá thuê mặt bằng sản xuất, kinh
doanh, chuyển giao công nghệ, cải tiến máy móc, thiết bị... theo chương trình
khuyến công, khuyến nông…; chính sách đầu tư và thu hút đầu tư hợp lý vào lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ nhằm tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động.
1.2.3. Hỗ trợ vốn cho người lao động
Hiện nay, hầu hết các hộ gia đình nông thôn đều có khó khăn về vốn, đặc biệt
sau khi bị thu hồi đất, việc thay đổi phương thức sản xuất càng làm cho yêu cầu về

vốn cao hơn trước. Nhà nước cần có chính sách cho vay thiết thực hơn, đối với các
hộ có nhu cầu vay vốn và tạo điều kiện cho các hộ có khả năng chi trả sau khi vay.


×